Thứ Năm ngày 6 tháng Ba năm 1862, hai ngày sau ngày Thứ Ba Ăn Mặn[*], năm người đàn bà ở làng La Jonchère đã đến trình diện tại Sở Cảnh sát xã Bougival.
[*]Ngày được ăn thịt sau Mùa chay (ND).
Họ báo với cảnh sát rằng từ hai ngày nay không ai nhìn thấy hàng xóm của họ là bà quả phụ Lerouge, người sống một mình trong một ngôi nhà nhỏ biệt lập. Sự im ắng này khiến họ lo lắng. Sợ là có án mạng hay ít nhất là một tai nạn gì đó, họ yêu cầu “luật pháp” phá cửa vào nhà xem có chuyện gì để được yên tâm.
Bougival là một xứ sở đáng yêu, cứ Chủ nhật là trai gái lại chèo xuồng về đây; tội phạm cũng nhiều nhưng hiếm có án mạng. Vì thế, ban đầu viên thanh tra khước từ lời cầu xin của mấy người đàn bà, nhưng họ cứ nài nỉ mãi và cuối cùng nhà chức trách đã phải nhượng bộ. Ông cho gọi viên cai đội hiến binh đến cùng với hai nhân viên, sai người tìm một anh thợ khóa, rồi cả tốp cùng đi theo hàng xóm của bà quả phụ Lerouge.
Làng La Jonchère là một ngôi làng nhỏ nằm trên triền dốc đổ xuống sông Seine, giữa xã Malmaison và xã Bougival. Nó cách con đường lớn hai mươi phút, con đường lớn đó chạy từ Paris đi Saint-Germain qua Rueil và Port-Marly. Dẫn đến làng là một con đường dốc đứng mà ngành cầu đường chưa hề biết đến.
Thế là nhóm người, dẫn đầu là tốp hiến binh, đi theo con đường lớn đắp thành một con đê ngăn cách sông Seine với khu vực này, rồi chẳng mấy chốc họ quẹo phải rẽ vào một con đường ngang sâu hút kẹp giữa hai dãy tường gạch.
Đi khoảng một trăm bước, họ dừng lại trước một căn nhà đơn sơ nhưng có vẻ ngoài lịch sự. Với bề sâu kéo dài hơn bề rộng, ngôi nhà có một tầng trệt hai phòng và một tầng áp mái ở trên. Quanh nhà trải rộng một khu vườn gần như không được chăm sóc. Thông ra vườn là một chiếc cổng gỗ nhẹ được buộc hờ bằng một sợi dây thép.
- Ở đây này. - Mấy người đàn bà lên tiếng.
Viên thanh tra cảnh sát dừng bước. Trong lúc đi đường, nhóm người của ông đã nhanh chóng được những kẻ hiếu kỳ và những kẻ vô công rồi nghề ở quanh đây gia nhập. Giờ đây ông đang bị khoảng bốn mươi kẻ tò mò vây quanh.
- Không ai được vào đây! - Ông nói.
Và, để cho mệnh lệnh của mình chắc chắn được tuân thủ, ông cắt cử hai anh hiến binh đứng gác trước lối vào, rồi ông bước tới, theo sau là viên cai đội và anh thợ khóa.
Ông đích thân chĩa đầu cây gậy cạp chì gõ mạnh nhiều lần, đầu tiên là vào cánh cửa, sau đó là tất cả các ô cửa con. Sau mỗi cú gõ ông lại áp tai vào vách gỗ nghe ngóng. Không thấy động tĩnh gì, ông quay sang anh thợ khóa, ra lệnh:
- Mở khóa đi.
Anh thợ khóa mở túi dụng cụ và chuẩn bị đồ nghề. Anh đang lùa một cái que móc vào ổ khóa thì trong đám người hiếu kỳ có tiếng reo lên:
- Chìa khóa! Chìa khóa đây này!
Quả thực, một cậu bé chừng mười hai tuổi, trong lúc đang chơi với tụi bạn đã nhìn thấy một chiếc chìa khóa to nằm trong cái rãnh bên đường; cậu bé nhặt lên và đắc thắng đem tới.
- Đưa đây, cậu bé, - viên cai đội nói - đưa chúng ta xem nào.
Chìa khóa được đưa vào mở thử; đúng là chìa của ngôi nhà. Ông thanh tra và anh thợ khóa nhìn nhau đầy vẻ lo lắng sợ sệt.
- Không hay rồi! - Viên cai đội lẩm nhẩm.
Rồi họ vào trong nhà, trong khi đám đông, bị hiến binh vất vả giữ lại, vừa giậm chân sốt ruột, vừa cố ngó qua tường để nhìn vào trong xem chuyện gì đã xảy ra.
Thật đáng tiếc là những kẻ phỏng đoán có án mạng đã không nhầm, ông thanh tra cảnh sát tin chắc như vậy ngay từ ngưỡng cửa. Trong căn phòng đầu tiên, tất cả đã tỏ rõ sự có mặt của những kẻ bất lương. Đồ đạc trong nhà, một chiếc tủ ngăn kéo và hai chiếc hòm lớn, đã bị phá đáy. Trong căn phòng thứ hai, là phòng được dùng làm buồng ngủ, quang cảnh còn lộn xộn hơn. Có thể hình dung rằng một bàn tay giận dữ đã vô cớ làm đảo lộn mọi thứ.
Cuối cùng, bên cạnh lò sưởi, xác bà quả phụ Lerouge nằm dài với khuôn mặt vùi trong tro. Nửa khuôn mặt và tóc bị cháy thui, và thật kỳ diệu là lửa không bén đến quần áo.
- Bọn vô lại, - viên cai đội thì thầm - chẳng lẽ chúng không thể ăn cắp mà không phải giết chết người đàn bà tội nghiệp này ư!
- Nhưng bà ta bị đâm ở chỗ nào? - Ông thanh tra hỏi - Tôi không thấy máu.
- Đây này, giữa hai vai đó, thưa ngài thanh tra. - Viên cai đội nói tiếp. - Hai cú đâm mạnh! Tôi xin lấy quân hàm của tôi để đánh cược là thậm chí bà ta đã không kịp kêu lên một tiếng “Ối!”.
Ông cúi người, đặt tay lên thi thể.
- Ồ, - ông nói tiếp - xác bà ấy đã lạnh thật rồi. Mặc dù có vẻ chưa cứng lắm, ít nhất bà ấy cũng đã tắt thở được ba mươi sáu giờ đồng hồ.
Ông thanh tra ngồi vào một góc bàn ghi vội tờ biên bản.
- Thôi không nói dông dài nữa, - ông bảo viên cai đội - giờ là lúc phải tìm ra thủ phạm. Hãy đi báo cho ngài Thẩm phán hòa giải và ngài xã trưởng đi. Còn nữa, hãy chạy đi Paris đưa bức thư này cho Viện Công tố. Trong hai giờ đồng hồ một Thẩm phán điều tra sẽ có mặt tại đây. Trong khi chờ đợi, tôi sẽ tiến hành một cuộc khám xét sơ bộ.
- Chính tôi phải đưa bức thư này ư? - Viên cai đội hỏi.
- Không, hãy cử một nhân viên của ông đi. Ông sẽ ở đây giúp tôi ngăn đám người tò mò kia và kiếm cho tôi các nhân chứng. Cứ để yên hiện trường đó, tôi sẽ sang căn phòng đầu tiên kia.
Bà quả phụ Lerouge này là ai, quê ở đâu, bà làm nghề gì, lấy gì để sống, và sống như thế nào? Bà có thói quen gì, những mối giao du của bà thế nào? Kẻ nào có hiềm thù với bà, bà có hà tiện không, liệu bà có tiền không? Đó là những điều quan trọng mà ông thanh tra muốn biết.
Nhưng cho dù có nhiều nhân chứng thì họ cũng chẳng biết gì hơn. Khi lần lượt được hỏi, những người hàng xóm chỉ đưa ra những lời khai vô nghĩa, thiếu mạch lạc và không đầy đủ. Chỉ có một bà làm vườn và một bà bán sữa cho bà quả phụ Lerouge là có vài thông tin chính xác, mặc dù chẳng mấy giá trị.
Cuối cùng, qua ba giờ hỏi cung mệt mỏi, sau khi thu thập những lời chứng mâu thuẫn nhất và những chuyện ngồi lê đôi mách khôi hài nhất, ông thanh tra cảnh sát hình dung được sự việc gần đúng như sau:
Cách đây hai năm, bắt đầu từ năm 1860, bà Lerouge đến xã Bougival với một chiếc xe dọn nhà lớn chở đầy đồ đạc, chăn mền và quần áo. Bà vào một quán trọ và bày tỏ ý định muốn ở lại trong vùng, rồi bà lập tức đi tìm thuê một căn nhà. Khi tìm thấy căn nhà vừa ý này, bà thuê ngay không mặc cả, với điều kiện trả trước 320 franc nửa năm, nhưng bà không đồng ý ký hợp đồng thuê nhà.
Thỏa thuận thuê nhà xong, bà dọn đồ vào ở ngay hôm đó và bỏ ra khoảng 100 franc cho việc sửa chữa. Đó là một người phụ nữ tầm năm mươi tư, năm mươi lăm tuổi, trông rất trẻ, đẫy đà và rất khỏe mạnh. Chẳng ai biết tại sao bà lại chọn cái nơi hoàn toàn không quen biết một ai này để về ở. Người ta đoán bà là người Normandie vì thường thấy bà đội chiếc mũ trùm bằng vải bông vào buổi sáng. Thứ mũ dùng cho ban đêm này vẫn khiến bà rất duyên dáng vào ban ngày. Bà thường mặc những chiếc váy dài rất đẹp, cuốn nhiều dải ruy băng quanh mũ và đeo đầy đồ trang sức giống như một bức tượng thờ. Có thể bà là người miền biển, vì trong lúc chuyện trò bà rất hay nhắc đến biển và tàu thủy.
Bà không thích nói đến chồng mình, là người, theo bà, đã mất trong một vụ đắm tàu. Chưa bao giờ bà hé mở một chi tiết nhỏ nhất nào về chuyện này. Chỉ có một lần bà nói với bà bán sữa trước sự có mặt của ba người khác, “Chưa có một người đàn bà nào bất hạnh như tôi trong chuyện vợ chồng.”
Bà quả phụ Lerouge được coi là giàu có, hoặc ít nhất là rất sung túc. Bà không phải là người hà tiện. Bà thích sống thoải mái, tiêu nhiều cho chuyện ăn uống và thường mua rượu vang từng nửa thùng. Niềm vui của bà là được thiết đãi bạn quen và những buổi dạ tiệc của bà thật thịnh soạn. Nếu người ta khen bà giàu có thì bà cũng chẳng phản đối nhiều. Người ta thường nghe bà nói, “Tôi không có tiền lợi tức, nhưng tôi có tất cả những gì cần thiết. Nếu tôi muốn hơn nữa thì tôi sẽ có.”
Ngoài ra, chưa bao giờ người ta nghe thấy có lời bóng gió nào, dù là nhỏ nhất, về quá khứ, về quê hương hay về gia đình bà. Bà rất hay nói chuyện, nhưng khi nói chuyện, bà chỉ nói đến những điều xấu xa của đồng loại. Dù sao, chắc là bà đã trải đời và biết nhiều chuyện. Với tính rất hay ngờ vực, bà cố thủ trong nhà mình như trong một pháo đài. Buổi tối không bao giờ bà ra khỏi nhà. Người ta biết rằng bà thường uống rượu say vào bữa tối và sau đó đi nằm luôn. Rất hiếm khi người ta nhìn thấy có người lạ đến nhà bà. Khoảng bốn, năm lần có một quý bà và một cậu thanh niên trẻ, và một lần khác có hai quý ông, một ông già đeo đầy huân huy chương và một chàng trai trẻ; hai người này đi trên một chiếc xe lộng lẫy.
Nói tóm lại, người ta không tôn trọng bà mấy. Bà thường có những lời lẽ chướng tai và lập dị phát ra từ miệng một người ở tuổi đó. Người ta đã nghe thấy bà đưa ra những lời khuyên khó chịu nhất dành cho một cô gái. Tuy nhiên có một ông bán thịt lợn ở Bougival, một người buôn bán vụng về, cũng tán tỉnh bà. Bà đã gạt đi và nói bà lấy chồng một lần là đủ rồi. Mấy lần khác, người ta nhìn thấy có những người đàn ông đến nhà bà. Đầu tiên là một chàng trai trẻ trông có vẻ là một nhân viên hỏa xa, rồi sau đó có một ông cao lớn tóc nâu khá già, mặc một chiếc áo blouse và trông có vẻ rất dữ tợn. Người ta đoán rằng cả hai đều là nhân tình của bà.
Vừa hỏi cung, ông thanh tra vừa ghi tóm tắt lời khai của nhân chứng, và ông đang viết đến đây thì ông Thẩm phán điều tra xuất hiện. Ông này dẫn theo ông Đội trưởng an ninh cùng một nhân viên.
Ông Thẩm phán điều tra Daburon, người mà sau này bạn bè đã từng vô cùng ngạc nhiên thấy ông xin từ chức để về quê vui thú ruộng vườn vào đúng lúc vận may đang đến với ông, năm nay ba mươi tám tuổi, có thân hình đẹp, trông dễ mến mặc dù có vẻ lạnh nhạt, có một khuôn mặt hiền hậu và hơi buồn, vẻ buồn rầu này là di chứng của một căn bệnh hiểm nghèo mà cách đây hai năm đã suýt khiến ông mất mạng.
Làm Thẩm phán điều tra từ năm 1859, ông nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Là người cần cù, kiên nhẫn, có trực giác tinh tế cùng óc sáng suốt hiếm có, ông biết cách tháo gỡ những vụ án rắc rối nhất, và, giữa trăm nghìn mối tơ vò, ông biết cách nắm được sợi dây dẫn lối. Được trang bị một bộ óc lập luận logic chặt chẽ, chỉ ông mới có thể giải quyết được những vấn đề hóc búa mà gã X nào đó là thủ phạm. Là người biết khôn khéo suy luận từ cái đã biết để tìm ra cái chưa biết, ông rất giỏi trong việc tập hợp các sự kiện và tập trung những tình tiết phù phiếm nhất và có vẻ ngoài vô can nhất thành một cụm chứng cứ không thể chối cãi.
Tuy nhiên, mặc dù có những phẩm chất đáng quý như thế, nhưng ông lại tỏ ra không phải sinh ra để làm những chức phận khủng khiếp này. Ông rùng mình thực hiện những chức phận đó với sự ngờ vực trước sự lôi kéo của những năng lực tài hoa của mình. Ông không có sự táo bạo để thực hiện những cú bất ngờ mạo hiểm có khả năng làm bộc lộ sự thật.
Ông đã phải mất một thời gian dài mới quen được với một số thói thực hành không ngại ngùng của những người đồng sự nghiêm khắc nhất của mình. Vì thế, ông thậm chí còn ghê tởm việc lừa dối một bị can và khinh bỉ việc giăng bẫy anh ta. Ở Viện công tố, người ta nói ông là “một kẻ nhát gan”. Cái ông cần không phải là niềm tin, không phải là những giả định khả dĩ nhất, mà ông cần một sự chắc chắn tuyệt đối.
Ông Đội trưởng an ninh không phải ai khác, chính là ông Gévrol nổi tiếng, người không bao giờ bỏ lỡ dịp đóng một vai trò quan trọng trong những tấn kịch của con cháu chúng ta. Chắc chắn ông là một người thành thạo công việc, nhưng ông thiếu tính kiên trì và dễ bị mù quáng trước một sự ngoan cố không thể tin nổi. Mặt khác, với bản tính đầy táo bạo và bình tĩnh, ông không bao giờ tỏ ra bối rối. Với một sức lực vô địch ẩn giấu dưới vẻ ngoài mảnh khảnh, ông không bao giờ do dự khi phải đương đầu với những kẻ bất lương nguy hiểm nhất.
Nhưng chuyên môn của ông, vinh quang của ông, niềm hân hoan chiến thắng của ông, đó là trí nhớ về những bộ mặt, một trí nhớ kỳ diệu không thể tin nổi. Khi ông đã nhìn thấy một khuôn mặt nào trong năm phút thì coi như xong, nó đã được cố định, đã thuộc về ông. Ông quả quyết rằng tất cả phụ thuộc vào một điều là khi nhìn người, ông chỉ nhìn vào đôi mắt. Ông nhận ra ánh mắt mà không cần quan tâm đến nét mặt.
Hôm nay, viên sĩ quan tùy tùng của ông Gévrol nguyên là một gã cựu phạm đã hoàn lương, một chàng trai khôn khéo trong nghề của mình, tinh tế như hổ phách và ghen ghét thủ trưởng của mình, người mà anh cho là cũng giỏi vừa thôi. Tên anh là Lecoq.
Ông thanh tra cảnh sát, người mà trách nhiệm đang bắt đầu khiến ông khó chịu, đón tiếp ông Thẩm phán điều tra và hai nhân viên an ninh như đón những người giải phóng. Ông trình bày các sự việc và đọc tờ biên bản.
- Ông đã làm rất tốt, - ông Thẩm phán nói - tất cả rất rõ ràng; chỉ có điều là ông đã quên một sự kiện.
- Sự kiện nào, thưa ngài? - Viên thanh tra hỏi.
- Người ta nhìn thấy bà quả phụ Lerouge lần cuối cùng vào ngày nào, và nhìn thấy lúc mấy giờ?
- Tôi sắp nói đến điều đó đây, thưa ngài. Người ta đã nhìn thấy bà ấy vào hôm Thứ Ba Ăn Mặn, lúc năm giờ hai mươi phút. Bà ấy đi chợ Bougival về, xách theo một giỏ thực phẩm.
- Ông thanh tra có tin chắc vào cái giờ đó không? - Gévrol hỏi.
- Hoàn toàn tin chắc, và đây là lý do tại sao: Có hai nhân chứng đã khai về điều này, đó là bà Tellier và một ông thợ đóng thùng, cả hai đều sống gần đây và khi họ vừa bước xuống khỏi xe khách thì họ nhìn thấy bà quả phụ Lerouge đang đi trên đường ngang. Họ rảo bước để bắt kịp và nói chuyện với bà, rồi đến trước cổng nhà bà thì họ chia tay.
- Và bà ấy đựng cái gì trong giỏ? - Ông Thẩm phán điều tra lại hỏi.
- Các nhân chứng không để ý. Họ chỉ biết rằng bà ấy đem về hai chai rượu vang có gắn xi và một lít rượu trắng. Bà ấy kêu đau đầu và bảo với họ rằng mặc dù thông thường là phải vui chơi vào ngày Thứ Ba Ăn Mặn, nhưng bà sẽ đi nằm.
- Vậy thì, - ông Đội trưởng an ninh kêu lên - tôi biết phải bắt đầu điều tra từ đâu rồi.
- Ông biết thật à? - Ông Daburon hỏi.
- Tất nhiên! Điều này khá rõ ràng. Đó là phải tìm cái ông cao lớn tóc nâu, cái ông mặc áo blouse ấy. Rượu trắng và rượu vang là để dành cho ông ta. Bà quả phụ đang đợi ông ta đến ăn tối. Và ông ta đã đến, cái ông nịnh đầm đáng yêu đó.
- Ồ! - Viên cai đội bất bình nói - Bà ấy xấu thế và già kinh khủng rồi.
Gévrol nhìn người hiến binh thật thà với vẻ giễu cợt.
- Anh cai này, - ông nói - anh nên biết rằng một người đàn bà có tiền luôn là người trẻ đẹp, nếu bà ta muốn vậy.
- Có thể có chuyện gì đó ở đây, - ông Thẩm phán điều tra nói tiếp - tuy nhiên đó không phải là điều khiến tôi ngạc nhiên. Có lẽ chính câu nói sau đây của bà quả phụ Lerouge mới làm tôi kinh ngạc, “Nếu tôi muốn hơn nữa thì tôi sẽ có.”
- Đó cũng là điều đã khiến tôi chú ý. - Viên thanh tra nhấn mạnh.
Nhưng ông Gévrol không bận tâm lắng nghe nữa. Ông đang đi theo hướng tìm tòi của mình, ông xem xét kỹ các góc phòng, từng xó xỉnh một. Bỗng nhiên ông quay sang viên thanh tra.
- Tôi nghĩ ra rồi! - Ông kêu lên - Có phải hôm thứ Ba thời tiết đã thay đổi không…? Từ hai tuần nay tiết trời đang đóng băng, vậy mà chúng ta lại thấy có nước. Trời bắt đầu mưa từ lúc mấy giờ?
- Vào lúc chín giờ rưỡi. - Viên cai đội đáp - Lúc đó tôi vừa ăn tối xong và đang định lượn một vòng qua các vũ trường thì một cơn mưa trút xuống ngay trước phố Pêcheurs. Chưa đầy mười phút mà lượng mưa đã được nửa ngón tay.
- Tốt lắm! - Gévrol nói - Nếu vị khách nam đến chơi sau chín giờ rưỡi thì đôi giày của hắn phải dính đầy bùn… Nếu không thì tức là hắn đến sớm hơn. Đáng ra chúng ta có thể thấy điều đó ở đây, nếu như nền nhà không bị lau dọn. Lúc trước ông thanh tra có nhìn thấy dấu giày không?
- Phải thú thực là chúng tôi đã không để ý đến chuyện đó.
- Ồ! - Ông Đội trưởng an ninh nói với giọng bực mình - Thật đáng tiếc.
- Hãy khoan, - viên thanh tra nói tiếp - ta vẫn còn thời gian để kiểm tra chuyện này, không phải ở đây mà là ở căn phòng khác. Ở đó chúng tôi vẫn chưa hề làm xáo trộn cái gì. Dấu chân của tôi và của ông cai đội sẽ dễ dàng nhận ra. Ta hãy xem nào…
Khi viên thanh tra vừa mở cửa căn phòng thứ hai thì bị Gévrol ngăn lại.
- Tôi xin ngài Thẩm phán, - Gévrol nói - cho phép tôi xem xét kỹ căn phòng này trước khi cho người khác vào, điều này có ý nghĩa quan trọng đối với tôi.
- Tất nhiên rồi. - Ông Daburon tán đồng.
Gévrol bước qua, còn tất cả mọi người đứng lại trước ngưỡng cửa. Từ chỗ đó, họ có thể nhìn bao quát hiện trường vụ án.
Tất cả mọi thứ, đúng như viên thanh tra đã báo cáo, có vẻ như đã bị đảo lộn bởi bàn tay của một kẻ hung dữ.
Ở giữa phòng có một chiếc bàn ngay ngắn, một chiếc khăn mỏng trắng như tuyết phủ lên trên. Trên mặt bàn có một chiếc cốc pha lê tuyệt đẹp, một con dao nhỏ rất xinh xắn và một chiếc đĩa sứ. Ngoài ra còn có một chai rượu vang mới được mở và một chai rượu trắng đã uống mất khoảng năm, sáu chén nhỏ.
Ở bên phải, dọc theo bức tường có hai chiếc tủ đứng đẹp bằng gỗ hồ đào có ổ khóa được gia công tỉ mỉ, mỗi chiếc đặt ở một bên cửa sổ. Cả hai chiếc tủ đều trống rỗng, đồ đạc trong tủ bị vứt vương vãi khắp nơi trên sàn. Đó là những bao gói, chăn mền, quần áo bị giũ tung, nhàu nát.
Ở phía sâu trong phòng, cạnh lò sưởi, có một chiếc tủ hốc tường đựng bát đĩa đang để mở. Phía bên kia lò sưởi có một chiếc tủ bàn giấy mặt đá cẩm thạch bị đập vỡ và bị lục lọi đến tận từng cạnh ván. Cánh cửa tủ bị giật ra chỉ còn bám vào một bản lề; các ngăn kéo bị rút và vứt bừa xuống nền nhà.
Cuối cùng, ở bên trái, chiếc giường đã bị xới tung và xáo lộn hoàn toàn. Thậm chí cả những sợi rơm trong nệm cũng bị giật tung ra.
- Không một dấu vết nhỏ nhất. - Gévrol bực mình lẩm nhẩm - Hắn đã đến trước chín giờ rưỡi. Bây giờ chúng ta có thể thoải mái vào phòng.
Ông bước hẳn vào trong phòng, đi thẳng tới chỗ thi thể của bà quả phụ Lerouge và quỳ xuống.
- Chẳng có gì để nói, - ông làu bàu - cú đâm được thực hiện thật gọn ghẽ. Kẻ giết người không phải là dạng ngu ngơ.
Sau đó ông nhìn quanh, rồi nói tiếp:
- Ôi! Bà cô tội nghiệp đang làm bếp thì bị tấn công. Nhìn chiếc chảo rán bị quăng xuống đất kìa, cả giăm bông và trứng nữa. Tên súc sinh đã không kiên nhẫn đợi bữa tối. Quý ông này đã quá vội vàng, hắn thực hiện vụ giết người với chiếc bụng đói. Như thế thì hắn không thể viện dẫn sự quá chén để bào chữa cho hành động của mình được.
- Rõ ràng, - viên thanh tra cảnh sát nói với ông Thẩm phán điều tra - động cơ của vụ án là ăn cướp.
- Có thể, - Gévrol đáp lại với giọng ranh mãnh - chính vì điều đó mà các vị không thấy còn lại trên bàn một bộ đồ ăn bằng bạc nhỏ nhất nào.
- Đây này! Có tiền vàng trong ngăn kéo! - Anh nhân viên Lecoq cũng đang lục soát liền thốt lên - Số tiền vàng này trị giá 320 franc.
- Ủa! - Gévrol hơi chưng hửng.
Nhưng ông nhanh chóng trấn tĩnh lại và nói tiếp:
- Có thể hắn đã bỏ quên. Chuyện này đã xảy ra nhiều rồi. Tôi từng thấy một kẻ sát nhân sau khi gây án xong đã mất bình tĩnh đến nỗi không còn nhớ gì đến chuyện vừa xảy ra và bỏ chạy mà không lấy thứ gì. Gã đàn ông này chắc là đã bối rối. Biết đâu hắn đã gặp chuyện gì khiến hắn hoang mang? Có thể lúc đó có tiếng gõ cửa. Tôi tin vào điều đó, bởi tên vô lại đã không để cho nến cháy, hắn đã nghĩ đến chuyện thổi tắt nến.
- Ôi dào! - Lecoq đáp lại - Điều đó chẳng chứng minh được gì hết. Có thể đó là một gã chi li và cẩn thận.
Hai nhân viên an ninh tiếp tục lục soát toàn bộ ngôi nhà, nhưng việc tìm kiếm kỹ càng nhất cũng không hề giúp họ phát hiện ra thêm điều gì; không có một tang vật nào, không có một dấu vết nhỏ nhất nào có thể dùng làm điểm mốc hoặc điểm xuất phát. Thậm chí, tất cả mọi giấy tờ của bà Lerouge, nếu có, cũng đã biến mất. Không thấy có một bức thư, một mẩu giấy nào, không có gì cả.
Thỉnh thoảng Gévrol lại dừng lại để chửi thề, hoặc để lẩm nhẩm:
- Ôi! Thật là hoàn hảo! Đúng là một công việc tuyệt đỉnh. Gã vô lại này có tay nghề!
- Thế nào các vị? - Cuối cùng ông Thẩm phán điều tra lên tiếng hỏi.
- Bị lừa rồi, thưa ngài Thẩm phán, - Gévrol đáp - chúng ta đã bị lừa! Kẻ gian đã biết đề phòng mọi nhẽ. Nhưng tôi sẽ tóm được hắn… Trước khi trời tối, tôi sẽ huy động được một tá người cho chiến dịch truy lùng này. Dù sao thì hắn cũng sẽ không thoát được đâu. Hắn đã lấy các thứ đồ bạc và đồ trang sức, hắn tiêu rồi.
- Với tất cả những điều đó, - ông Daburon nói - thì chúng ta đã không tiến xa được hơn sáng nay!
- Thế ư! Chúng ta đã làm hết sức mình rồi. - Gévrol làu bàu.
- Mẹ kiếp! - Lecoq nói bâng quơ - Sao thầy Tirauclair không thấy ở đây nhỉ?
- Lão ấy thì làm được gì hơn chúng ta? - Gévrol ném cái nhìn giận dữ đáp trả anh chàng thuộc cấp của mình.
Lecoq cúi đầu không nói một lời, trong thâm tâm anh đang khoái trá vì đã làm tổn thương được thủ trưởng của mình.
- Cái ông thầy Tirauclair ấy là ai? - Ông Thẩm phán điều tra hỏi - Hình như tôi đã nghe thấy cái tên này ở đâu rồi.
- Đó là một người đáng gờm! - Lecoq thốt lên.
- Đó là một cựu nhân viên của hiệu cầm đồ, - Gévrol nói thêm - một lão già giàu có tên thật là Tabaret. Lão làm trinh thám để chơi thôi, giống như Ancelin đã trở thành vệ sĩ cho giới buôn bán.
- Và để tăng thu nhập cho mình. - Viên thanh tra lưu ý.
- Ông ấy ư? - Lecoq đáp lại - Ông ấy chẳng có gì nguy hại cả. Chỉ vì thanh danh mà ông ấy làm việc chứ chẳng phải vì lợi lộc gì, đến mức ông ấy thường phải bỏ tiền túi ra cho công việc. Đó chỉ là một trò giải trí thôi, đúng không? Trong giới chúng ta, chúng ta đã đặt biệt danh cho ông ấy là Tirauclair[*], Ông Biết Tuốt, chỉ vì một câu nói mà ông ấy hay nhắc đi nhắc lại. Ồ, ông ấy giỏi lắm, ông già tinh ranh ấy! Trong vụ án người vợ ông chủ nhà băng đó, các vị còn nhớ không, ông ấy là người đã đoán ra rằng chính bà ta đã lấy cắp tiền của chồng, và ông ấy đã chứng minh được điều đó.
[*]“Tirauclair” là rút gọn của cụm từ “tirer au clair”, nghĩa là “khiến ra manh mối” (ND).
- Đúng, - Gévrol đáp trả - và ông ấy cũng là người đã suýt khiến cho anh Derème tội nghiệp bị chặt đầu, một anh chàng thợ may hèn mọn bị buộc tội giết vợ mình, một mụ đàn bà chẳng ra gì, và chính anh ta lại là người vô tội…
- Chúng ta đang bỏ phí thời gian, thưa các vị. - Ông Thẩm phán ngắt lời.
Rồi ông quay sang Lecoq, nói:
- Anh đi tìm lão Tabaret đi. Tôi đã nghe nói nhiều về ông ấy, tôi sẽ không khó chịu nếu được thấy ông ấy tham gia công việc.
Lecoq vội chạy đi. Gévrol thực sự thấy mình bị hạ nhục. Ông liền nói:
- Ngài Thẩm phán điều tra hoàn toàn có quyền yêu cầu sự trợ giúp của bất cứ ai mà ngài ấy thấy có ích; nhưng…
- Chúng ta đừng tức giận nữa, ông Gévrol ạ. - Daburon ngắt lời - Không phải là tôi mới quen biết ông hôm qua, tôi biết tài năng của ông; chỉ có điều, hôm nay chúng ta có quan điểm hoàn toàn khác nhau. Ông cứ khư khư khẳng định người đàn ông tóc nâu của ông, còn tôi thì tôi tin là ông đang đi sai đường.
- Tôi tin là tôi đi đúng hướng, - viên Đội trưởng an ninh đáp - và tôi hy vọng là sẽ chứng minh được. Tôi sẽ tìm thấy tên vô lại, bất kể hắn là ai.
- Tôi chỉ mong có thế.
- Chỉ có điều, xin ngài Thẩm phán cho phép tôi đưa ra… nói thế này có khiếm nhã không? Cho phép tôi đưa ra… một lời khuyên.
- Ông cứ nói đi.
- Thế này, tôi khuyên ngài Thẩm phán đừng tin vào lão Tabaret.
- Vậy ư? Tại sao?
- Đó là vì lão quá đam mê. Lão làm trinh thám chỉ để chứng tỏ tài năng của mình, giống như một nghệ sĩ không hơn không kém. Và vì lão tự phụ như một con công, cho nên lão dễ nổi khùng, dễ mắc lừa. Ngay khi gặp một vụ án mạng, ví dụ như vụ án mạng ngày hôm nay, là lão có tham vọng giải thích được tất cả ngay tức khắc. Và quả thật, lão bịa ra một câu chuyện ăn nhập chính xác với tình thế. Lão tự phụ dám chắc rằng chỉ bằng một sự kiện duy nhất là lão có thể tái hiện lại toàn bộ vụ giết người, giống như nhà bác học chỉ dựa vào một khúc xương mà có thể tái tạo lại những sinh vật đã tuyệt chủng. Đôi khi lão đoán đúng, nhưng thường thì lão đoán sai. Cụ thể, trong vụ án anh chàng thợ may Derème, nếu không có tôi…
- Cám ơn ông về lời khuyên, - ông Daburon ngắt lời - tôi sẽ chú ý đến nó. Bây giờ, ông thanh tra này, - ông nói tiếp - ông phải cố bằng mọi giá tìm hiểu xem bà quả phụ Lerouge quê ở đâu.
Viên cai đội lại dẫn các nhân chứng lần lượt đến khai với ông Thẩm phán điều tra.
Nhưng ông Thẩm phán không phát hiện thêm điều gì mới. Sinh thời, bà quả phụ Lerouge chắc phải là một người đàn bà đặc biệt kín đáo, đến mức từ những câu nói của bà - và có lúc bà cũng nói khá nhiều - chẳng có điều gì đáng chú ý đọng lại trong tai của các bà ngồi lê đôi mách ở xung quanh.
Chỉ có điều, tất cả những người được thẩm vấn đều khăng khăng khẳng định với ông Thẩm phán những điều tin chắc và phỏng đoán cá nhân của họ. Dư luận chung đều đồng tình với ông Gévrol. Tất cả đều lên tiếng kết tội người đàn ông mặc áo blouse xám, một người cao to tóc nâu. Người đó chắc chắn là thủ phạm. Người ta nhớ đến dáng vẻ dữ tợn làm cả làng phải sợ của ông ta. Kinh hãi trước vẻ ngoài đáng ngờ của ông ta, nhiều người khôn ngoan tìm cách né tránh. Có một buổi tối ông ta đã đe nẹt một người đàn bà, và một hôm khác ông ta lại đánh một cậu bé. Người ta không thể chỉ rõ tên cậu bé và người đàn bà đó, nhưng điều đó không quan trọng, những hành vi thô bạo đó thì ai cũng biết.
Ông Daburon đang thất vọng trong việc cố tìm ra một tia sáng nhỏ nhất thì người ta dẫn đến một bà bán hàng khô ở xã Bougival, là nơi mà bà Lerouge thường mua hàng, và một cậu bé chừng mười ba tuổi đến; những người khẳng định rằng họ có những thông tin thiết thực.
Bà bán hàng khô trình diện trước tiên. Bà khai rằng đã nghe bà quả phụ Lerouge kể về một người con trai vẫn còn sống.
- Bà có chắc điều đó không? - Ông Thẩm phán gặng hỏi.
- Chắc như tôi đang sống đây, - bà bán hàng khô đáp - mặc dù tối hôm ấy, đó là một buổi tối mà bà ấy, xin ông thứ lỗi cho, hơi say rượu. Bà ấy đã ở lại trong quán của tôi hơn một giờ đồng hồ.
- Và bà ấy nói gì?
- Tôi vẫn thấy như bà ấy đang đứng trước mặt tôi đây. - Bà bán hàng nói tiếp - Lúc đó bà ấy đứng dựa vào quầy hàng cạnh chỗ chiếc cân; bà ấy đang nói chuyện phiếm với một người đánh cá ở Marly, lão Husson, ông này có thể nhắc lại lời khai với ngài, và lúc đó bà ấy gọi ông ta là “thủy thủ nước ngọt”. “Chồng tôi”, bà ấy nói, “ông ấy là một thủy thủ, nhưng là thủy thủ thực sự, bằng chứng là ông ấy đi xa hàng mấy năm, và lúc nào cũng mang quả dừa về cho tôi. Tôi cũng có một thằng con trai là thủy thủ, giống như người cha quá cố của nó, nó làm trên tàu thủy của nhà nước.”
- Bà ấy có nói tên con trai mình không?
- Lần đó thì không, nhưng vào một lần khác, khi mà bà ấy, có thể nói là đang say mèm; bà ấy đã kể rằng con trai mình tên Jacques, và đã lâu lắm rồi bà ấy không gặp nó.
- Bà ấy có nói đến tật xấu của chồng không?
- Không bao giò. Bà ấy chỉ nói rằng ông chồng quá cố của mình rất hay ghen và thô lỗ, nhưng thực ra là người tốt, và rằng ông ta đã khiến cuộc sống của bà ấy trở nên tồi tệ. Ông ta có cái đầu nhu nhược và chẳng nghĩ nổi chuyện gì. Cuối cùng thì có thể nói ông ta là một người quá ngốc vì lương thiện.
- Con trai bà ấy có đến thăm từ khi bà ấy về sống ở La Jonchère không?
- Bà ấy không nói.
- Bà ấy có đến mua nhiều hàng ở nhà bà không?
- Cũng tùy. Mỗi tháng bà ấy mua hết khoảng 60 franc, thỉnh thoảng có mua hơn, bởi vì bà ấy thích rượu cognac lâu năm. Bà ấy luôn trả bằng tiền mặt.
Không khai được gì thêm, bà bán hàng khô được cho lui.
Cậu bé tiếp theo là con của một gia đình khá giả trong xã. Cậu cao lớn hơn so với tuổi của mình. Cậu có đôi mắt thông minh, gương mặt lanh lợi và ranh mãnh. Ông Thẩm phán có vẻ không hề khiến cậu sợ.
- Nào cậu bé, - ông Thẩm phán hỏi - cháu biết điều gì?
- Thưa ngài, hôm kia, vào Chủ nhật tuần trước, cháu nhìn thấy một người đàn ông đứng ở cổng vườn nhà bà Lerouge.
- Vào tầm nào trong ngày?
- Vào giữa buổi sáng, lúc ấy cháu đang đi đến nhà thờ để hầu lễ phiên thứ hai.
- Thế hả! - Ông Thẩm phán nói - Và người đàn ông đó là một người cao lớn tóc nâu, mặc một chiếc áo blouse…
- Không, thưa ngài, trái lại, người đó thấp, rất béo và khá già.
- Cháu không nhầm chứ?
- Không bao giờ! - Cậu bé đáp - Cháu đã quan sát lão từ rất gần, bởi vì cháu còn nói chuyện với lão nữa.
- Thế thì cháu kể lại cho ta nghe câu chuyện đó đi.
- Vâng, thưa ngài, khi cháu đang đi ngang qua thì cháu thấy cái lão béo lùn đó đứng ở cổng. Lão đang có vẻ bực mình, ồ, là vẻ bực mình không thể chịu nổi. Lão đỏ mặt lên, tức là đỏ tím lên đến tận đỉnh đầu, điều này rất rõ ràng, bởi vì lão để đầu trần và không hề có tóc.
- Và lão nói chuyện với cháu trước à?
- Vâng, thưa ngài. Nhìn thấy cháu, lão gọi, “Ê, nhóc!” Cháu bước tới. “Xem kìa”, lão bảo, “cậu có vẻ nhanh nhẹn đấy nhỉ?” Cháu đáp, “Vâng.” Thế là lão kéo tai cháu, nhưng không làm cháu đau, và bảo, “Nếu thế thì cậu hãy khiến ta một việc và ta sẽ trả cho cậu mười xu. Cậu hãy chạy đến sông Seine. Trước khi đến bến cảng, cậu sẽ nhìn thấy một con tàu lớn đang neo đậu ở bờ sông; cậu xuống tàu và hỏi thăm ông chủ Gervais. Yên tâm đi, ông ấy sẽ có mặt ở đó; cậu bảo ông ấy có thể chuẩn bị nhổ neo đi, ta sẵn sàng rồi đây.” Nói xong, lão đặt vào tay cháu mười xu, và cháu chạy đi.
- Giá như tất cả các nhân chứng đều như cậu bé này thì thật là vui. - Viên thanh tra lẩm nhẩm.
- Bây giờ, - ông Thẩm phán nói - cháu hãy nói xem cháu đã thực hiện công việc được giao phó như thế nào?
- Thưa ngài, cháu đến chỗ con tàu, cháu tìm thấy ông chủ tàu, cháu truyền lại lệnh cho ông ấy, thế thôi.
Gévrol, khi ấy đang háo hức chăm chú lắng nghe, liền ghé tai ông Daburon nói nhỏ:
- Thưa ngài Thẩm phán, xin ngài cho phép tôi hỏi thằng nhóc này vài câu được không?
- Tất nhiên, thưa ông Gévrol.
- Xem nào, anh bạn nhỏ, - ông Đội trưởng an ninh hỏi - nếu gặp lại người đàn ông mà cháu vừa kể cho chúng tôi đó, cháu có nhận ra được lão không?
- Ồ, điều đó thì được.
- Vậy lão ấy có điểm gì đặc biệt?
- Có chứ! Lão có bộ mặt màu đỏ gạch.
- Có thế thôi à?
- Vâng, thưa ông!
- Dù sao cháu cũng phải biết lão ấy ăn mặc thế nào chứ? Có mặc một chiếc áo blouse không?
- Không. Lão mặc một chiếc áo vest. Hai bên áo có hai chiếc túi to, một bên túi để lòi ra nửa chiếc khăn tay có sọc ca rô màu xanh lơ.
- Lão ấy mặc quần thế nào?
- Cháu không nhớ.
- Thế còn áo gi-lê?
- Xem nào… - Cậu bé đáp - Lão có mặc áo gi-lê không nhỉ…? Hình như không. À có… Mà không, cháu nhớ rồi. Lão không mặc áo gi-lê, lão đeo một chiếc cà vạt dài có gắn một chiếc vòng to ở gần cổ.
- Ồ! - Gévrol reo lên, vẻ thỏa mãn - Cháu không đến nỗi ngốc, cậu bé ạ, và chú đánh cược rằng nếu suy nghĩ thêm thì cháu sẽ còn có được nhiều thông tin nữa.
Cậu bé cúi đầu im lặng. Nhìn cái trán nhăn trên khuôn mặt non trẻ, người ta đoán là cậu đang cố hết sức để nhớ lại.
- Đúng rồi! - Cậu reo lên - Cháu nhớ thêm được một chuyện.
- Chuyện gì?
- Lão có đeo một đôi khuyên tai rất to.
- Hoan hô! - Gévrol nói - Đây là một dấu hiệu nhận dạng trọn vẹn. Tôi sẽ tìm ra hắn. Ngài Thẩm phán cứ chuẩn bị lệnh bắt giữ đi.
- Quả thực, tôi thấy là lời khai của cậu bé này là quan trọng nhất. - Ông Daburon nói.
Rồi ông quay sang hỏi cậu bé:
- Anh bạn nhỏ này, cháu có thể nói cho chúng ta biết con tàu chở gì không?
- Điều đó thì cháu không biết, thưa ngài, con tàu này có boong.
- Nó đi ngược hay xuôi sông Seine?
- Nhưng thưa ngài, nó đang đỗ mà.
- Chúng ta biết điều đó. - Gévrol nói - Ngài Thẩm phán muốn hỏi cháu là mũi tàu hướng về phía nào? Nó hướng về phía Paris hay là phía Marly?
- Cháu thấy cả hai đầu tàu đều giống nhau.
Ông Đội trưởng an ninh làm một động tác tỏ vẻ thất vọng.
- Ôi! - Ông nói với cậu bé - Đáng ra cháu phải nhìn tên con tàu chứ; ta nghĩ là cháu biết đọc. Khi xuống tàu ta luôn phải nhìn xem tên nó là gì.
- Cháu không nhìn thấy tên tàu. - Cậu bé nói.
- Nếu con tàu này đỗ cách bến cảng chỉ vài bước chân, - ông Daburon bắt bẻ - thì có thể người dân xã Bougival đã nhìn thấy nó.
- Ngài Thẩm phán nói đúng. - Viên thanh tra cảnh sát tán đồng.
- Đúng thế. - Gévrol nói - Vả lại, chắc là đám thủy thủ đã lên bờ và vào quán rượu. Tôi sẽ tìm hiểu việc này. Nhưng ông chủ Gervais này là người thế nào, anh bạn nhỏ?
- Cũng giống như tất cả các thủy thủ ở đây thôi, thưa ngài.
Chương 1
Tiến >>
NXB Văn học & Phúc Minh - 2019 - Chuyển text: Bichhanh & Caruri
Nguồn: TVE-4U - VCTVEGROUP
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 31 tháng 1 năm 2024