Tặng Jonathan
Tác giả
Susan Cooper được biết đến nhiều nhất với bộ tiểu thuyết kỳ ảo nổi tiếng Bóng tối trỗi dậy gồm năm tập:
- Trên biển khơi, dưới đá thẳm; tải eBook
- Bóng tối trỗi dậy (sách đoạt Huy chương Newbery 1974);
- Phù thủy Xanh;
- Vua Xám (sách đoạt Giải Newbery 1976);
- Bạc trên cây, ra mắt bạn đọc từ những năm 1960 và 1970
Bóng tối trỗi dậy miêu tả cuộc giằng co giữa hai thế lực Thiện và Ác, hay Ánh sáng và Bóng tối. Bộ tiểu thuyết này dựa trên truyền thuyết về vua Arthur, được viết chủ yếu cho độc giả trẻ. Các tiểu thuyết khác dành cho độc giả trẻ của bà: Seaward (Về phía biển) và Dawn of Fear (Bình minh của sợ hãi). Bà cũng viết ba cuốn dành cho thiếu nhi: Thím bò Bạc, Cô gái Selkie và Tam Lin; cả ba đều do Warwick Hutton minh họa. Cộng tác với diễn viên Hume Cronyn, bà soạn vở kịch Foxfire (Lửa Cáo) cho sân khấu Broadway và - dành tặng Jane Fonda - bộ phim truyền hình Dollmaker (Người làm búp bê), cả hai đều giành được giải Humanitas 1985.
Sinh ra tại Buckinghamshire, nước Anh, Susan Cooper đã chuyển sang Mỹ từ năm 1963 và hiện sống tại Cambridge, Massachusetts.
***
Cho đến trước ngày Đông chí lần thứ mười một diễn ra, cậu bé Will Stanton chẳng có gì phải lo lắng trong sự bao bọc êm ấm của cả gia đình. Ngoan ngoãn, chăm chỉ, hơi rụt rè và có vẻ của một “ông cụ non”, cậu út thứ bảy này đang hồi hộp chờ đón lễ sinh nhật với ước mong năm nay có tuyết rơi.
Điều cậu bé không ngờ là đêm trước lễ sinh nhật toàn mang tới những dấu hiệu chẳng lành. Lũ thỏ vốn dĩ hiền lành trong chuồng bỗng trở nên khiếp sợ. Lũ quạ đột nhiên dáo dác tìm kiếm người. Một người đàn ông trông thật kỳ dị ẩn hiện. Những người hàng xóm như ông lão chăn bò George, ông chủ trang trại Dawson sao toàn nói những lời vu vơ khó hiểu. Và lần đầu tiên, những nỗi sợ hãi kéo đến khiến Will run rẩy, tưởng chừng phát điên lên khi ngủ một mình…
Mọi chuyện đã bắt đầu thay đổi theo chiều hướng không tưởng tượng nổi đối với tuổi mười một của Will. Bắt đầu từ một cái vòng kim loại trên có hai đường cắt vuông góc chia hình tròn làm bốn phần đều nhau mà ông chủ trang trại Dawson trao cho, Will bắt đầu khám phá ra mình có một quyền năng đặc biệt, chẳng hạn cậu có thể tự tạo nên những ngọn lửa hoặc dập tắt nó bằng sự mong muốn. Và điều kinh ngạc hơn, cậu là một trong các Cổ Nhân, là người đầu tiên được sinh ra trong vòng năm trăm năm nay và cũng là người Cổ Nhân cuối cùng.
Cho dù Will còn quá nhỏ, song sứ mạng đặt lên đôi vai cậu lại quá lớn, đó là phải cống hiến hết mình cho cuộc đấu tranh lâu dài giữa Ánh Sáng và Bóng Tối. Sự xuất hiện của Will đã hoàn thành một vòng tròn vốn phát triển từ bốn ngàn năm trước ở mọi vùng cổ xưa trên mảnh đất mà cậu đang sống: vòng tròn Cổ Nhân. Là người tìm Dấu hiệu, sứ mệnh của Will là tìm ra và bảo vệ sáu Dấu hiệu Ánh Sáng vĩ đại đã được các Cổ Nhân tạo ra trong hàng thế kỷ, chúng chỉ hợp lực được khi vòng tròn được khép kín.
“Vì Bóng Tối, Bóng tối đang trỗi dậy. Kẻ Lang Thang đã lên đường, Kỵ sĩ đã lên ngựa, chúng ta đều đã thức giấc…”, tác phẩm Bóng tối trỗi dậy mang đến những không gian pháp thuật, hé mở những câu chuyện bí ẩn lôi kéo độc giả cuốn vào chuyến phiêu lưu xuyên qua các thế kỷ của cậu bé Will. Cuộc chiến đấu giữa Ánh Sáng và Bóng Tối quá dữ dội, dù không đơn độc, song Will dường như quá bé nhỏ khi đón nhận sứ mạng lớn lao của mình. Không ít lần cậu mắc sai lầm và vướng vào nguy hiểm. Nhưng chính trong những thử thách ấy, cậu bé mười một tuổi này càng thức tỉnh về nhiệm vụ của mình, nhất là khi tính mạng của những người thân trong gia đình bị đe dọa bởi sự tấn công từ Bóng Tối.…
Tác giả Susan Cooper được đánh giá là một trong số ít nhà văn đương đại có trí tưởng tượng phong phú, năng lực kể chuyện và cái nhìn tâm linh trong việc sáng tạo cuộc xung đột quyết định giữa Thiện và Ác trên nền của sự kỳ ảo. Thế giới nhân vật trong Bóng tối trỗi dậy đầy ắp những bí ẩn lôi cuốn. Một cậu bé từ những run rẩy của tuổi mười một đã trở thành một vị cứu tinh cho cả thế giới. Một quý bà tưởng chừng có sức mạnh vô song có lúc đã phải thoái lui vì kiệt sinh lực. Một kẻ tâm phúc, trung thành của vị Cổ Nhân đã phản bội lại phe Ánh Sáng và mang lại những hậu họa khôn lường. Sức mạnh từ Bóng Tối. Sự phản kháng từ Ánh Sáng… Tất cả cùng tạo nên một tác phẩm kỳ ảo ấn tượng bậc nhất, phản ánh cuộc chiến muôn đời giữa thiện và ác. Tập hai Bóng tối trỗi dậy nằm trong bộ truyện năm tập cùng tên (Trên biển khơi dưới đá thẳm, Bóng tối trỗi dậy, Phù thủy cây, Vua Xám, Bạc trên cây) đã được các nhà làm phim Mỹ dựng thành phim có tựa "The Seeker" ( Quyền lực bóng đêm) và phát hành tại Việt Nam vào cuối năm 2007.
Nữ nhà văn người Anh Susan Cooper sinh năm 1935, hiện sống tại Cambridge, Massachusetts. Bóng tối trỗi dậy là bộ sách quan trọng nhất trong sự nghiệp sáng tác của bà, đem lại cho tác giả các giải thưởng văn học danh tiếng cùng một vị trí vững chắc trong nền văn học thiếu nhi thế giới. Susan Cooper đã thổ lộ về cuốn sách này: “Tôi không tự nhủ mình đang viết truyện kỳ ảo. Tôi cũng chẳng tự nhủ rằng mình đang viết cho bọn trẻ. Tôi chỉ kể một câu chuyện mà thôi. Nói cách khác bạn đang sống trong thế giới ấy và kể lại những gì mình thấy. Tất nhiên, những gì bạn thấy bắt nguồn từ tiềm thức của chính bạn”.
Bóng tối trỗi dậy là tập hai (cũng là cuốn được lấy tên cho cả series) trong bộ truyện kỳ ảo dành cho thiếu nhi gồm năm tập: Trên biển khơi dưới đá thẳm, Bóng tối trỗi dậy, Phù thủy cây, Vua Xám, Bạc trên cây của nhà văn Susan Cooper. Độc lập so với Trên biển khơi, dưới đá thẳm (ra mắt độc giả Việt Nam năm 2007)...
Phần I - Tìm kiếm
Đêm trước ngày Đông Chí
“Quá nhiều!” James hét lên, sập cánh cửa lại sau lưng.
“Cái gì cơ?” Will hỏi.
“Quá nhiều trẻ con trong cái nhà này, chứ còn gì nữa. Đúng là quá nhiều.” James đứng trên chiếu nghỉ cầu thang, mặt mũi hầm hầm nom như cái đầu máy xe lửa tí hon giận dữ, rồi bước thình thịch đến chỗ ngồi trên bệ cửa sổ và nhìn chằm chằm ra ngoài vườn. Will đặt quyển sách của mình sang một bên, co chân lên nhường chỗ cho anh. “Em nghe thấy có tiếng quát tháo,” cậu nói, tựa cằm lên đầu gối.
“Có gì đâu,” James nói. “Lại là chị Barbara ngu ngốc thôi mà. Lên giọng bà chủ. Nhặt cái này lên, đừng động vào cái kia. Rồi lại đến lượt Mary chõ vào, lắp ba lắp bắp, lắp ba lắp bắp. Ai cũng tưởng cái nhà này thế là đủ rộng rồi, nhưng đi đâu cũng đụng phải người.”
Cả hai cùng nhìn ra ngoài cửa sổ. Khắp nơi, tuyết nằm mỏng manh và khiêm nhường. Dải xám rộng cong cong kia là thảm cỏ, với những lùm cây rải rác trong vườn quả vẫn còn thẫm tối phía xa xa; những mảng vuông màu trắng là mái gara ô tô, mái kho thóc cũ, chuồng thỏ và chuồng gà. Xa hơn chút nữa chúng chỉ nhìn thấy những cánh đồng trải dài tít tắp của Trại Dawson lờ mờ sọc trắng. Bầu trời xám mênh mang mù mịt những bông tuyết nhất định không rơi. Khắp khung cảnh ấy, chẳng có màu sắc nào hiện lên rõ rệt.
“Còn bốn ngày nữa là đến Giáng sinh,” Will nói. “Ước gì tuyết rơi cho tử tế.”
“Và mai là sinh nhật em rồi đấy.”
“Ừm.” Cậu cũng đã định nói đến chuyện đó, nhưng như thế thì giống một lời nhắc nhở quá. Mà món quà cậu mong muốn nhất trong ngày sinh nhật lại là một thứ không ai có thể tặng được: đó là tuyết, tuyết phủ trắng xóa như tấm chăn dày tuyệt đẹp, và món quà đó chưa bao giờ xuất hiện. Ít nhất năm nay còn có tuyết rơi lắc rắc trên nền trời xám xịt, còn hơn là không có gì.
Bỗng cậu nhớ ra nhiệm vụ: “Em vẫn chưa cho thỏ ăn. Anh có muốn đi cùng không?”
Đi giày, mặc áo khoác và quàng khăn ấm xong xuôi, hai đứa vất vả len qua căn bếp ngổn ngang đồ đạc. Đài đang phát một bản nhạc giao hưởng; chị cả Gwen vừa thái hành vừa hát; mẹ cúi xuống bếp lò, khuôn mặt đỏ hồng rạng rỡ. “Lũ thỏ!” Bà hét lên khi nhìn thấy hai đứa. “Đem thêm cỏ khô ngoài trại về nhé!”
“Chúng con đi đây!” Will hét lên trả lời. Khi cậu đi qua bàn, chiếc đài đột nhiên nhiễu sóng rú lên chói tai. Cậu giật nảy người. Bà Stanton la lên: “Vặn NHỎ cái thứ đó xuống.”
Ra khỏi nhà, không khí bỗng im ắng hẳn. Will lấy một xô thức ăn viên từ chiếc thùng để trong kho thóc sực mùi gia súc ra - thực ra nó vốn không phải là kho thóc, mà chỉ là một cái lán dài, thấp lè tè, lợp mái ngói, đã từng là chuồng ngựa. Hai anh em giẫm trên lớp tuyết mỏng ra đến dãy chuồng thỏ đóng bằng gỗ dày, để lại những dấu chân đen sì trên nền đất đông cứng.
Đang mở cửa chuồng để đổ thức ăn vào máng, Will chợt khựng lại, cau mày. Bình thường, lũ thỏ hay nằm co cụm im thin thít ở các góc chuồng, chỉ những con tham lam mới đến chúi mũi vào ăn. Hôm nay trông chúng có vẻ bồn chồn và bất ổn, đi đi lại lại, xô vào thành chuồng gỗ; một vài con thậm chí còn sợ hãi nhảy bật về phía sau khi cậu mở cửa. Cậu tiến về phía con thỏ cưng của mình, con Chelsea, với tay định âu yếm vuốt ve dưới tai nó như mọi khi, nhưng nó giật lùi lảng tránh và co rúm vào một góc, đôi mắt viền hồng ngước lên đờ đẫn và khiếp hãi.
“Này!” Will lo ngại nói. “Anh James này, nhìn mà xem. Có chuyện gì với nó thế nhỉ? Tất cả lũ thỏ nữa?”
“Chúng nó có vẻ vẫn bình thường với anh đấy chứ.”
“Quái, em lại không thấy thế. Cả lũ cứ bồn chồn thế nào ấy. Cả con Chelsea nữa. Nào, thỏ ngoan, lại đây đi…” Nhưng chẳng ích gì.
“Lạ thật,” James quan sát và nói hơi tò mò. “Anh cá là tay em có mùi lạ. Chắc là em chạm tay vào cái gì đó mà lũ thỏ không thích. Cũng giống như lũ chó và hạt hồi ấy, nhưng kiểu khác thôi.”
“Em chưa chạm vào cái gì cả. Thực ra, em vừa mới rửa tay xong thì gặp anh.”
“Đấy thấy chưa,” James nói ngay. “Rắc rối là ờ chỗ đấy. Chúng chưa bao giờ được ngửi thấy mùi em lúc sạch cả. Chắc là tất cả bọn chúng đều chết vì sốc đấy.”
“Ha ha, buồn cười thật,” Will xông vào James, và chúng vừa vật lộn vừa cười sằng sặc trong lúc cái xô rỗng đổ lăn lông lốc trên nền sân cứng. Nhưng khi hai anh em đi về, cậu liếc nhìn lại thì thấy lũ thỏ vẫn nháo nhác, không chịu ăn mà mở to mắt chằm chằm nhìn theo cậu với vẻ sợ hãi kỳ lạ.
“Hay con cáo lại mò đến,” James nói. “Nhớ nhắc anh dặn mẹ nhé.” Không con cáo nào có thể bắt lũ thỏ trong dãy chuồng quá chắc chắn của chúng được, nhưng lũ gà thì dễ bị tấn công hơn; mùa đông năm ngoái, một đàn cáo đã đột nhập vào chuồng gà bắt đi sáu con béo núc ních ngay trước phiên chợ. Bà Stanton, năm nào cũng chỉ trông vào tiền bán gà để chi trả cho mười một món quà Noel, tức giận đến nỗi sau đó đã thức liền hai đêm ngoài kho thóc lạnh cóng để canh chừng, nhưng lũ trộm ấy không quay trở lại. Will nghĩ nếu cậu là một con cáo thì cậu cũng biến mất tăm; mẹ cậu đã lấy một người chồng làm nghề kim hoàn thật đấy, nhưng với cái gốc gác mấy đời nông dân Buckinghamshire nhà bà, bà hẳn không đùa khi những bản năng xa xưa trỗi dậy đâu.
Kéo cái xe đẩy nhỏ, một cỗ máy tự chế có cái đòn ngang bắc qua càng xe, cậu và James men theo lối đi uốn lượn cây cối um tùm, và ra con đường cái dẫn đến Trại Dawson. Đi nhanh qua nghĩa địa nơi đám thủy tùng tối sẫm mọc nghiêng xòa ra ngoài bức tường đổ; đi chậm hơn khi đến Rừng Quạ nằm ngay góc Ngõ Nhà Thờ. Chúng đã thuộc lòng nơi đây: những lùm cây dẻ ngựa cao vút, đầy tiếng quạ khàn khàn và trên ngọn thì vô số tổ quạ ngổn ngang như bãi rác.
“Nghe bọn quạ kìa! Có gì làm chúng bực mình hay sao ấy.” Tiếng lũ quạ khàn khàn loạn xạ inh tai nhức óc, và khi Will nhìn lên những ngọn cây, cậu thấy lũ chim lượn tròn làm tối sầm cả một khoảng trời. Chúng đập cánh và bay tới bay lui; không có chuyển động đột ngột xáo trộn nào, chỉ có lũ quạ đang ầm ĩ lượn qua lượn lại đó.
“Hay là cú?”
“Chúng có đuổi theo cái gì đâu. Đi nào, Will, trời sắp tối rồi.”
“Thì vì vậy nên lũ quạ làm ầm ĩ lên mới đáng lạ chứ. Đáng lẽ giờ này bọn chúng vẫn đang ngủ mới phải.” Will miễn cưỡng cúi đầu xuống, nhưng rồi bỗng nhảy dựng lên và nắm lấy tay James, mắt cậu bắt gặp một chuyển động nào đó trên lối đi nhỏ đang tối dần rẽ ra từ con đường hai đứa đang đứng. Ngõ Nhà Thờ: nó chạy giữa Rừng Quạ và nghĩa địa tới ngôi nhà thờ nhỏ xíu của làng, rồi dẫn ra sông Thames.
“Này!”
“Cái gì thế?”
“Có ai đó đang ở đằng kia. Hoặc vừa ở đó. Nhìn chúng ta.”
James thở dài. “Vậy thì sao? Chẳng qua là ai đó đi dạo thôi.”
“Không, không phải đâu.” Will lo lắng nheo mắt nhìn xuống lối rẽ nhỏ. “Đó là một người đàn ông trông rất kỳ dị đang cúi lom khom, khi thấy em nhìn thì hắn chạy biến sau mấy gốc cây. Lủi đi, như gián ấy.”
James kéo mạnh càng xe và rảo bước làm Will phải chạy mới theo kịp. “Vậy đấy, chỉ là một gã lang thang thôi. Đến chịu, hôm nay mọi người cứ gàn dở thế nào ấy - hết chị Barb[1], đến lũ thỏ, lũ quạ và bây giờ đến lượt mày cũng hâm hâm điên điên nốt. Thôi, đi lấy cỏ khô về nào. Anh muốn uống trà rồi.”
Chiếc xe lóc cóc băng qua những vết lún đã đông cứng trên đường tiến vào sân Trại Dawson, một khoảnh đất vuông, rộng rãi, ba phía đều có nhà bao quanh, và bọn trẻ ngửi thấy cái mùi chuồng trại quen thuộc. Chắc hôm nay chuồng bò vừa được dọn phân; cụ George, ông lão chăn bò móm mém, đang đem phân đổ thành đống ở bên kia sân. Ông cụ giơ tay chào. Chẳng có gì lọt khỏi mắt cụ George; cụ có thể nhìn thấy con chim ưng bổ nhào xuống từ cách xa cả dặm. Ông Dawson từ trong chuồng ngựa bước ra.
“À,” ông nói. “Cỏ khô cho trang trại nhà Stanton à?” Ông vẫn thường nói đùa với mẹ chúng như vậy, vì bà nuôi thỏ và gà.
James trả lời: “Vâng ạ.”
“Có ngay đây,” ông Dawson nói. Cụ George đã biến vào trong chuồng ngựa. “Mọi việc vẫn tốt chứ? Bảo mẹ là ngày mai bác sẽ bắt mười con gà. Và bốn con thỏ nữa. Đừng có xịu mặt xuống như thế chứ, nhóc Will ạ. Nếu chúng không được hưởng Giáng sinh vui vẻ thì những người thưởng thức chúng sẽ được hưởng.” Ông liếc nhìn trời, và Will cảm thấy trên khuôn mặt nhăn nheo rám nắng của ông thoáng một ánh nhìn khác thường. Trên nền mây dông âm u xám xịt, hai con quạ đen đang chậm rãi vỗ liệng một vòng tròn rộng quanh trang trại.
“Lũ quạ hôm nay ầm ĩ quá bác ạ,” James nói. “Will nhìn thấy một kẻ lang thang ở bìa rừng đấy”.
Ông Dawson nhìn xoáy vào Will. “Trông ông ta như thế nào?”
“Một ông già nhỏ bé. Ông ta đã lủi đi.”
“Vậy là Kẻ Lang Thang đã lên đường,” người chủ trang trại khẽ lẩm bẩm. “À. Cũng phải thôi.”
“Thời tiết thế này thì lang thang sao được,” James vui vẻ nói. Cậu hất đầu lên bầu trời trên mái nhà phía Bắc; mây dường như đang trở nên dày hơn, cụm lại thành những đám màu xám pha sắc vàng kỳ quái như báo điềm gở. Gió cũng đang mạnh lên, thổi bay tóc mọi người và tất cả đều nghe thấy tiếng xào xạc xa xa trên những ngọn cây.
“Tuyết sắp rơi dày hơn rồi,” ông Dawson nói.
“Thật là một ngày kinh khủng.” Will đột nhiên nói, tự thấy làm lạ vì sự kích động của mình; dù sao thì cậu cũng muốn có tuyết cơ mà. Nhưng dường như một điều bất an gì đó đang xâm chiếm cậu. “Cứ… ma quái thế nào ấy.”
“Sẽ là một đêm tệ lắm đây,” ông Dawson nói.
“Cụ George mang cỏ khô ra rồi kìa,” James nói.
“Đi thôi, Will.”
“Cháu đi đi,” ông chủ trang trại nói. “Bác muốn nhờ Will mang về cho mẹ cháu một thứ đang để ở trong nhà.” Nhưng khi James đẩy chiếc xe về phía chuồng ngựa thì ông vẫn đứng đó, hai tay đút sâu vào túi chiếc áo cũ bằng vải tuýt, nhìn bầu trời đang tối dần.
“Kẻ Lang Thang đã lên đường,” ông nhắc lại. “Và đêm nay sẽ rất tệ, còn ngày mai thì sẽ nằm ngoài sức tưởng tượng.” Ông nhìn Will, và Will, với sự lo lắng mỗi lúc một tăng, cũng nhìn vào khuôn mặt từng trải, đôi mắt đen, sáng, đầy những nếp nhăn hằn sâu sau hàng chục năm quan sát mặt trời, mưa và gió ấy. Trước đây cậu chưa bao giờ nhận ra mắt của ông chủ Trại Dawson lại đen đến như thế nào: thật kỳ lạ, trong cái cộng đồng dân cư toàn những người mắt xanh của họ.
“Sắp sinh nhật cháu rồi nhỉ,” ông nói.
“Ừm,” Will đáp.
“Bác có cái này cho cháu.” Ông liếc nhanh quanh sân rồi rút tay ra khỏi túi; Will nhìn thấy trong tay ông có một vật gì đó giống một món đồ trang sức bằng kim loại màu đen, một cái vòng dẹt trên có hai đường cắt vuông góc chia hình tròn làm bốn phần đều nhau. Cậu đón lấy món quà, mân mê một cách hiếu kỳ. Cái vòng to khoảng cỡ lòng bàn tay và khá nặng; cậu đoán nó được làm bằng sắt, mặc dù vậy nó không có cạnh hay rìa sắc nhọn nào. Chất sắt lạnh băng trong tay cậu.
“Cái gì đây ạ?” Will hỏi.
“Tạm thời thì cứ coi nó là một thứ cần được giữ gìn,” ông Dawson trả lời. “Hãy luôn mang theo nó bên mình, lúc nào cũng vậy. Bây giờ thì cất vào túi đi. Khi nào về cháu luồn vào thắt lưng như cái khóa phụ ấy.”
Will thả cái vòng sắt vào túi. “Cảm ơn bác,” cậu nói, giọng hơi run. Ông Dawson, thường vẫn là người dễ chịu, cũng chẳng làm cho ngày hôm nay được cải thiện chút nào.
Ông chủ trang trại vẫn nhìn cậu với cái vẻ chăm chú phát sợ cho đến khi Will cảm thấy sởn hết cả tóc gáy; rồi ông nở một nụ cười nửa miệng méo mó, chẳng toát lên chút vui vẻ nào mà chỉ toàn sự lo lắng. “Giữ nó an toàn nhé, Will. Và càng ít lỡ lời nói về nó càng tốt. Cháu sẽ cần nó sau khi tuyết rơi đấy.” Ông trở nên linh hoạt hơn. “Giờ thì đi thôi, bà nhà bác đã chuẩn bị một lọ thịt xay cho mẹ các cháu đấy.”
Hai bác cháu đi về phía khu nhà ở của trang trại. Vợ ông Dawson không có ở đó mà người đứng đợi ở cửa ra vào là Maggie Barnes, cô gái vắt sữa trong trang trại có khuôn mặt tròn, đôi má đỏ ửng luôn làm Will nghĩ đến một trái táo. Cô cười với cả hai người, chìa ra một cái lọ sành to màu trắng buộc dải ruy băng đỏ.
“Cảm ơn Maggie,” ông chủ Trại Dawson nói.
“Bà dặn con là ông muốn dành nó cho cậu Will đây,” Maggie nói. “Bà đi vào làng để gặp cha xứ có chuyện gì đó rồi. Ông anh của em có khỏe không, Will?”
Lần nào gặp Will, Maggie cũng nói như vậy; ý chị ta muốn hỏi thăm Max, người anh trai thứ hai của Will. Mọi người trong nhà Stanton thường trêu là Maggie Barnes có ý gì đó với Max.
“Anh ấy khỏe ạ, cảm ơn chị,” Will lịch sự đáp. “Anh ấy nuôi tóc dài. Trông như con gái ấy.”
Maggie ré lên thích thú. “Thôi về đi!” Chị ta cười khúc khích và vẫy tay chào, nhưng đúng vào giây cuối cùng, cậu nhận ra ánh nhìn của chị ta đang trượt qua đầu cậu. Khi quay lại, đuôi mắt cậu thoáng thấy cánh cửa sân trang trại rung rung như có ai đó vừa vội vã lẩn đi. Nhưng khi cậu nhìn ra thì không có ai ở đó cả.
Với cái lọ thịt xay to tướng được đặt trên xe giữa hai bó cỏ khô, Will và James đẩy chiếc xe ra khỏi sân. Người chủ trang trại đứng trên bậc cửa sau lưng chúng; Will có thể cảm thấy ánh mắt của ông đang dõi theo. Cậu lo lắng nhìn lên những đám mây lơ lửng đang kéo đến ngày càng nhiều và dè dặt thò tay vào túi sờ cái vòng sắt lạ lùng. “Sau khi tuyết rơi.” Bầu trời trông như thể sắp sập xuống đầu hai anh em. Cậu nghĩ: Chuyện gì đang xảy ra thế nhỉ?
Một con chó trong trang trại vừa chạy về phía chúng vừa nhảy cẫng lên, ve vẩy đuôi; rồi đột nhiên nó dừng lại cách chúng vài thước, giương mắt nhìn cả hai.
“Này, Racer!” Will gọi.
Con chó cụp đuôi xuống, nhe răng gầm gừ. “Anh James!” Will kêu lên.
“Nó không làm gì em đâu. Có chuyện gì thế nhỉ?”
Hai đứa tiếp tục đi và rẽ vào con đường lớn.
“Không chỉ vì chuyện đó đâu. Có cái gì đó không ổn, tất cả mọi chuyện. Cái gì đó rất tồi tệ. Racer, Chelsea… tất cả các con vật đều sợ em.” Bây giờ cậu bắt đầu thật sự cảm thấy sợ hãi.
Lũ quạ kêu to hơn, mặc dù ánh mặt trời đang tắt dần. Chúng có thể nhìn những con chim đen sì ấy xúm đen xúm đỏ trên những ngọn cây, có vẻ bị kích động chưa từng thấy, đập cánh lượn đi lượn lại. Và Will đã đúng; có một người lạ mặt trên lối đi, đang đứng cạnh nghĩa địa.
Đó là một người có dáng đi hấp tấp, quần áo tả tơi, trông giống một mớ giẻ cũ hơn là một con người, khi vừa thấy hắn, hai đứa bước chậm lại và theo phản xạ tự nhiên, đứng sát vào xe và xích lại gần nhau hơn. Hắn quay cái đầu bù xù nhìn về phía hai đứa.
Đột nhiên, trong một giây hãi hùng nửa thực nửa mơ, một mảng tối sẫm rít lên khàn khàn lao xuống từ bầu trời, và hai con quạ to tướng bổ nhào vào kẻ lạ mặt. Hắn ta loạng choạng lùi lại, kêu lên, giơ hai tay che mặt, còn lũ quạ thì vỗ đôi cánh khổng lồ thành một vòng xoáy màu đen đầy hăm dọa rồi bay qua đầu hai đứa trẻ lao về bầu trời.
Will và James đứng chết trân, mắt mở trừng trừng, dựa người vào hai bó cỏ.
Kẻ lạ mặt chúi người xuống tựa vào cánh cổng.
“Quạ…quạaaaa…” Tiếng kêu inh tai nhức óc vọng xuống từ phía lũ quạ đang điên cuồng bay bên trên khu rừng, và rồi lại thêm ba cái bóng màu đen vụt sà xuống theo hai con lúc nãy, hung hãn lao thẳng vào kẻ lạ mặt rồi lại bay đi. Lần này, hắn ta hét lên sợ hãi và loạng choạng bước ra đường, tay vẫn giơ lên che đầu, mặt cúi gằm; rồi hắn bỏ chạy. Hai đứa nghe thấy tiếng thở gấp gáp, sợ hãi của gã đàn ông khi hắn chạy vụt qua mặt chúng trên đường, qua cổng Trại Dawson về phía làng. Khi hắn chạy, chúng nhìn thấy mái tóc muối tiêu rậm rạp bết lại bên dưới chiếc mũ lưỡi trai cũ bẩn thỉu; chiếc áo khoác màu nâu rách tả tơi, buộc túm lại bằng một đoạn dây, và bên dưới là một mớ áo quần bay lật phật; đôi ủng cũ rích, một chiếc đã bị long đế khiến chân hắn lệch về một bên trông rất kỳ quái, nửa như chạy, nửa như nhảy lò cò. Nhưng chúng không nhìn thấy mặt hắn.
Lũ quạ không lượn vòng nữa mà giảm tốc độ rồi lần lượt đậu lên cây. Chúng vẫn chuyện trò ầm ĩ bằng những tiếng kêu hỗn loạn của loài quạ, nhưng giờ đây trong đó không còn thấy sự điên cuồng và giận dữ nữa. Choáng váng, bây giờ Will mới dám ngọ nguậy đầu, cậu cảm thấy má cọ vào cái gì đó, và khi giơ tay lên vai cậu sờ thấy một chiếc lông dài màu đen. Cậu nhét cái lông vào túi áo khoác, chậm chạp như nửa tỉnh nửa mê.
Hai đứa cùng nhau đẩy chiếc xe xuôi theo con đường về nhà, tiếng quạ kêu sau lưng chúng nhỏ dần thành tiếng rì rầm như báo điều chẳng lành sắp xảy ra, giống như dòng sông Thames cuộn sóng vào mùa xuân.
Cuối cùng James thốt lên: “Bình thường lũ quạ không làm như vậy. Chúng không tấn công người. Và chúng cũng không bay xuống khi không có nhiều chỗ đậu. Chúng chẳng bao giờ làm thế.”
“Đúng vậy,” Will đáp. Cậu vẫn đang đi trong trạng thái nửa mê nửa tỉnh, hoàn toàn không nhận thức được bất cứ gì khác ngoài một điều mơ hồ lạ lùng nào đó cứ lởn vởn trong đầu. Giữa những tiếng ầm ĩ, huyên náo ấy, đột nhiên cậu có một cảm giác kỳ lạ, mạnh mẽ hơn bất cứ cảm giác nào cậu đã trải qua: cậu thấy như có ai đó đang cố gắng nói gì đó với cậu, một điều gì đó đã vuột khỏi cậu vì cậu không thể hiểu lời nói. Nhưng cũng không hẳn là lời nói; nó tựa như một tiếng thét câm lặng. Nhưng cậu không thề hiểu được thông điệp đó, bởi cậu chẳng biết làm thế nào để hiểu được.
“Cứ như là đài không bắt đúng sóng vậy,” cậu nói to.
“Cái gì?” James hỏi, nhưng thực ra cậu không để ý nghe. “Kỳ lạ thật,” cậu nói. “Anh đoán gã lang thang đó chắc đang cố tóm một con quạ. Và chúng điên lên. Anh cá thế nào hắn cũng sẽ rình mò lũ gà và thỏ. Thật lạ là hắn lại không có súng. Tốt hơn hết nên bảo mẹ tối nay cho lũ chó ở ngoài chuồng ngựa.” James chuyện trò huyên thuyên như vậy suốt cho tới tận lúc chúng về đến nhà và dỡ mấy bó cỏ xuống. Dần dần Will ngạc nhiên nhận ra rằng tất cả ấn tượng kinh khủng về vụ tấn công hung dữ và điên cuồng của lũ quạ lúc nãy đang như dòng nước trôi tuột khỏi đầu James, và chỉ trong vòng vài phút, thậm chí ngay cả bản thân sự việc vừa xảy ra cũng biến mất khỏi đầu óc James.
Một cái gì đó đã gọn gàng xóa đi toàn bộ câu chuyện tình cờ này trong trí nhớ James; một cái gì đó không muốn câu chuyện này lan truyền. Một cái gì đó biết điều này đã ngăn không để cho Will lan truyền nó.
“Này, cầm thịt xay cho mẹ,” James nói. “Đi vào đi không thì chết cóng bây giờ. Gió đang mạnh lên đấy… may là bọn mình quay về nhanh.”
“Vâng,” Will trả lời. Cậu cảm thấy lạnh, nhưng không phải do gió đang thổi mạnh hơn. Ngón tay cậu sờ quanh cái vòng sắt trong túi và nắm chặt lấy nó. Lần này, cái vòng sắt lại ấm áp.
•§•
Bầu trời xám đã tối sẫm lại khi chúng về đến khu bếp. Bên ngoài cửa sổ, chiếc xe thùng méo mó của bố chúng đang đậu trong quầng sáng vàng vọt. Căn bếp thậm chí còn ầm ĩ và nóng hơn cả lúc trước. Gwen đang dọn bàn ăn, kiên nhẫn tìm đường lách qua ba người đang cúi lom khom: ông Stanton đang săm soi một cái máy nhỏ nào đó cùng hai anh em sinh đôi Robin và Paul; và với cái dáng tròn mập của Mary chắn đằng trước, chiếc đài vặn hết cỡ đang phát oang oang một bài hát nhạc pop. Khi Will lại gần, lại một lần nữa, tiếng nhạc ngừng bặt và cái đài rít lên chói tai khiến tất cả mọi người phải nhăn nhó dừng lại và kêu la ầm ĩ.
“TẮT cái thứ đó đi!” Từ phía bồn rửa bát, bà Stanton hét váng lên một cách tuyệt vọng. Mặc dù Mary, môi bĩu ra hờn dỗi, đã tắt tiếng lẹt xẹt và cả tiếng nhạc vốn đã bị chìm đi, nhưng tiếng ồn chỉ giảm đi chút ít. Không hiểu vì sao, chuyện đó không thể có khi hơn một nửa thành viên trong gia đình đang ở nhà. Cả gian bếp dài lát đá tràn ngập tiếng cười nói khi họ ngồi quanh chiếc bàn gỗ đã được lau chùi sạch sẽ; hai con chó giống collie xứ Wales, Raq và Ci, thì nằm ngủ lơ mơ trong góc phòng cạnh lò sưởi. Will tránh xa bọn chúng; cậu sẽ không thể chịu được nếu chính những con chó trong nhà lại gầm gừ nhe nanh với cậu. Cậu ngồi yên lặng suốt cả bữa trà - cả nhà gọi đó là bữa trà nếu bà Stanton chuẩn bị bữa ăn xong trước năm giờ, và gọi là bữa tối nếu muộn hơn - và chất xúc xích đầy đĩa, nhai đầy mồm để không phải nói chuyện. Trong không khí ầm ĩ vui vẻ của gia đình Stanton, chẳng ai quan tâm tới việc có người không nói gì, nhất là khi người đó lại là thành viên nhỏ nhất.
Từ đầu bàn phía kia, mẹ vẫy Will và hỏi: “Ngày mai chúng ta dùng món gì trong bữa trà, Will?”
Cậu ậm ừ: “Gan và thịt muối ạ.”
James rên lên một tiếng rất to.
“Im đi,” Barbara, là chị lớn và đã mười sáu tuổi, nói. “Đó là sinh nhật nó. Nó được quyền chọn.”
“Nhưng mà gan,” James nói.
“Đáng đời,” Robin nói. “Nếu tao nhớ không nhầm, vào sinh nhật lần trước của mày, cả nhà phải ăn cái món pho mát trộn hoa súp lơ kinh tởm đó.”
“Chị nấu món ấy đấy,” Gwen nói. “Và nó không kinh tởm.”
“Đừng giận mà chị,” Robin làm hòa. “Em chỉ không thể ăn được hoa lơ thôi. Dù sao thì chị cũng hiểu ý em rồi chứ.”
“Chị hiểu. Nhưng không biết James nó có hiểu không?”
Robin, to con và giọng trầm, là đứa vạm vỡ hơn trong hai anh em sinh đôi và không dễ để mình bị đùa cợt. James vội vàng nói: “Thôi được, thôi được.”
“Ngày mai sẽ làm các món nhiều gấp đôi, Will nhé,” ông Stanton đang ngồi ở đầu bàn nói. “Chúng ta nên tổ chức một buổi tiệc đặc biệt. Một nghi lễ bộ lạc.” Ông mỉm cười với cậu con út, khuôn mặt tròn trịa, phinh phính của ông tràn đầy yêu thương.
Mary khịt mũi. “Hôm sinh nhật con mười một tuổi, con bị ăn đòn và bị bắt phải đi ngủ.”
“Trời ạ,” mẹ nói, “thật lạ là con vẫn nhớ chuyện đó đấy. Lại còn cái cách kể chuyện mới hay ho chứ. Mẹ nhớ là con chỉ bị một roi khá mạnh vào mông thôi, và cũng xứng đáng nữa.”
“Hôm đó là sinh nhật con,” Mary nói, ngúng nguẩy túm tóc đuôi ngựa. “Và con không bao giờ quên đâu.”
“Cứ chờ đấy,” Robin đùa. “Ba năm chưa lâu đâu.”
“Mà ở tuổi mười một con còn non lắm,” Bà Stanton nói, miệng nhai nhóp nhép vẻ trầm ngâm.
“Hừm,” Mary nói. “Thế chắc Will thì không ạ?”
Trong giây lát, mọi con mắt đổ dồn về phía Will. Cậu chớp mắt lo lắng trước một vòng tròn các khuôn mặt đang nhìn mình chăm chú, rồi cau có cúi xuống nhìn cái đĩa thức ăn để mái tóc nâu dày xõa xuống che lấp khuôn mặt mình. Thật vô cùng khó chịu khi bị nhiều người đến thế nhìn cùng một lúc, hay ít ra là bị nhiều người nhìn mà mình không thể nhìn lại hết được. Cậu cảm thấy cứ như thể mình đang bị tấn công. Và đột nhiên cậu tin rằng vì một lý do gì đó, sẽ thật nguy hiểm nếu tất cả bằng đấy con người đều nghĩ về cậu cùng một lúc. Cứ như thể ai đó không tốt có thể nghe thấy…
“Will khá già dặn so với tuổi mười một,” cuối cùng thì Gwen cũng cất tiếng.
“Gần như là không có tuổi,” Robin nói. Cả hai đều nói với vẻ khách quan và rất nghiêm túc, cứ như chúng đang bàn về một người xa lạ nào khác vậy.
“Giờ thì thôi đi,” Paul đột nhiên cất tiếng. Trong hai anh em sinh đôi, cậu là người trầm tính và là nhân tài của gia đình, mà có khi là một nhân tài thật cũng nên: cậu thổi sáo rất hay và chẳng quan tâm mấy đến những chuyện khác. “Có ai đến dự bữa trà ngày mai không Will?”
“Không. Angus Macdonald đi Scotland chơi Giáng sinh rồi, còn Mike thì ở với bà ở Southall. Em thấy chẳng sao cả.”
Đột nhiên có tiếng động ở cửa sau, rồi một luồng gió lạnh thổi vào; tiếng giậm chân liên tục và tiếng run cầm cập khá rõ. Max từ lối đi thò đầu vào trong phòng; mái tóc dài ướt nhoét và lấm tấm trắng. “Mẹ, con xin lỗi đã về muộn, con phải đi bộ từ Common về. Wow, mọi người nhìn ra ngoài kia mà xem… như là bão tuyết ấy.” Cậu nhìn những khuôn mặt đang thuỗn ra và toét miệng cười. “Mọi người không biết là tuyết đang rơi à?”
Trong phút chốc Will quên hết mọi thứ và hét to sung sướng, tranh với James để chạy ra cửa. “Tuyết thật á? Nhiều không?”
“Chứ còn gì nữa,” Max trả lời trong lúc tháo khăn quàng làm vài giọt nước bắn lên hai đứa. Max là đứa lớn nhất trong mấy anh em, nếu không kể Stephen, người anh cả đã phục vụ trong Hải quân nhiều năm nay và rất hiếm khi về nhà. “Đây này.” Max mở cánh cửa kêu cọt kẹt và gió lại rít lên lùa vào trong nhà; bên ngoài, Will thấy một tấm màn trắng xóa mờ mờ lấp lánh toàn những bông tuyết to tướng - không nhìn thấy cây cối hay bụi rậm, chẳng có gì ngoài đám tuyết đang xoay tròn. Những tiếng phản đối đồng thanh vọng ra từ trong bếp: “ĐÓNG CỬA LẠI!”
“Buổi lễ dành cho con đấy, Will,” bố nói. “Vừa đúng lúc.”
•§•
Một lúc lâu sau, trước khi đi ngủ, Will vén rèm cửa sổ phòng ngủ và dí mũi vào mặt kính lạnh ngắt, thấy tuyết thậm chí còn rơi dày hơn trước nhiều. Tuyết đã phủ đến năm, bảy phân trên ngưỡng cửa và cậu gần như có thể nhìn thấy lớp tuyết mỗi lúc một dày lên khi gió thổi mạnh tấp thêm những bông tuyết vào nhà. Cậu cũng có thể nghe thấy tiếng gió rít trên nóc nhà ngay trên đầu cậu và trong ống khói. Will ngủ trong cái gác xép mái nghiêng của ngôi nhà lâu năm; cậu mới chuyển lên ở trên đó cách đây vài tháng, khi Stephen, trước kia thường ở đây, quay lại hạm đội sau chuyến nghỉ phép. Trước đó, Will vẫn ở chung phòng với James - mọi người trong gia đình này đều phải chung phòng với một người khác. “Nhưng căn phòng áp mái của con phải có người ở,” ông anh cả đã nói thế, vì biết rõ Will thích căn phòng này như thế nào.
Trên giá sách đặt ở góc phòng là bức chân dung Trung úy Stephen Stanton, lực lượng Hải quân Hoàng gia, trông có vẻ hơi cứng nhắc trong bộ quân phục, và cạnh bức ảnh là một chiếc hộp gỗ chạm trổ có hình con rồng trên nắp, đựng đầy thư từ mà thỉnh thoảng Stephen đã gửi cho Will từ những nơi xa lơ xa lắc. Chúng tạo thành một thứ kho báu riêng tư hết sức thiêng liêng.
Tuyết đập lạo xạo vào cửa sổ, nghe như tiếng ngón tay búng vào lớp kính. Will lại nghe thấy tiếng gió rít trên mái nhà, còn to hơn cả lúc trước; gió đang mạnh lên thành bão. Cậu nghĩ đến kẻ lang thang và tự hỏi liệu hắn ta có tìm được chỗ trú ẩn không. “Kẻ Lang Thang đã lên đường… đêm nay sẽ rất tệ…” Cậu cầm áo khoác lên và lôi chiếc vòng sắt kỳ lạ ra, di ngón tay khắp vòng tròn, sờ cả mặt trên lẫn mặt dưới của hình chữ thập bên trong đã chia nó ra thành bốn phần đều nhau. Bề mặt của cái vòng hơi gồ ghề, nhưng mặc dù không có dấu hiệu gì chứng tỏ đã được đánh bóng mà nó vẫn nhẵn thín - cái kiểu nhẵn làm cậu nhớ đến một chỗ trên nền đá ráp trong bếp, nơi mọi dấu vết sần sùi đều bị mài nhẵn bởi biết bao thế hệ bàn chân đã đặt lên để bước vòng qua góc cửa. Loại sắt làm vòng rất lạ: đen sì, không sáng ánh lên nhưng cũng không có vết gỉ hay ngả màu nào. Một lần nữa, khi chạm vào cậu lại thấy nó thật lạnh; lần này lạnh đến nỗi Will hoảng hốt thấy nó làm tê cóng cả đầu ngón tay cậu. Cậu vội vàng đặt nó xuống. Rồi cậu rút thắt lưng ra khỏi quần và ném bừa quần lên lưng ghế như mọi khi, cầm lấy cái vòng, luồn nó vào thắt lưng như một cái khóa phụ theo lời ông Dawson dặn. Gió gào réo ngoài khung cửa sổ. Will luồn thắt lưng trở lại quần rồi thả xuống ghế.
Đúng lúc đó, không hề báo trước, nỗi sợ hãi kéo đến.
Làn sóng sợ hãi đầu tiên trùm lên khi cậu băng qua căn phòng đến giường ngủ. Cậu đứng như trời trồng giữa phòng, tai u u tiếng gió rít bên ngoài. Tuyết quất vào cửa kính. Will đột nhiên thấy lạnh cóng, khắp người tê cứng. Cậu sợ hãi đến nỗi không thể cử động được ngón tay. Trong phần ký ức bất chợt hiện về, cậu lại nhìn thấy bầu trời đang sẫm dần trên bụi cây, tối sầm vì đám quạ, những con chim đen sì lượn tròn trên đầu. Rồi hình ảnh đó biến mất, và cậu chỉ còn thấy khuôn mặt hết sức sợ hãi của kẻ lang thang và nghe thấy tiếng kêu của hắn khi đang chạy. Trong giây lát, trong đầu cậu chỉ có một bóng tối đáng sợ, cảm giác như đang nhìn vào một vực thẳm đen ngòm. Rồi tiếng gió rít lặng đi, và cậu thấy mình được giải thoát.
Cậu đứng run rẩy, đưa mắt nhìn khắp phòng. Không có gì bất ổn. Mọi thứ vẫn hệt như bình thường. Cậu tự nhủ, nỗi sợ hãi là do suy nghĩ mà ra. Nếu bây giờ cậu không suy nghĩ nữa và đi ngủ thì mọi việc sẽ ổn thôi. Cậu cởi áo khoác và leo lên giường, nằm đó nhìn lên bầu trời đêm qua mái nhà nghiêng nghiêng. Bầu trời xám xịt đầy tuyết.
Cậu tắt chiếc đèn ngủ nhỏ cạnh giường, và bóng tối tràn vào phòng. Ngay cả khi mắt cậu đã quen với bóng tối, cậu cũng không thấy có thêm một chút ánh sáng nào. Đến giờ ngủ rồi. Nào, ngủ đi thôi. Nhưng mặc dù đã xoay mình nằm nghiêng, kéo chăn sát cằm và nằm thư giãn, cố nghĩ đến điều tuyệt vời là khi cậu thức dậy sẽ là sinh nhật, chẳng có gì xảy ra cả. Không có tác dụng gì. Có điều gì đó bất ổn.
Will khó chịu trở mình. Chưa bao giờ cậu có cảm giác như thế này. Càng lúc cảm giác đó càng tệ hơn. Cứ như có một sức nặng nào đó đang đè lên tâm trí, đe dọa, cố kiểm soát cậu, biến cậu thành một cái gì đó mà cậu không muốn. Chính thế đấy, cậu nghĩ: muốn biến ta thành ai đó khác. Nhưng thật ngớ ngẩn. Kẻ nào muốn cơ chứ? Và biến ta thành cái gì? Có tiếng cọt kẹt bên ngoài cánh cửa khép hờ, cậu giật nảy người. Rồi nó lại cọt kẹt, và cậu biết đó là tiếng gì: một thanh ván sàn thường vẫn hay nói chuyện một mình trong đêm, âm thanh quen thuộc đến nỗi bình thường cậu không hề để ý đến. Nhưng dù vậy, cậu vẫn nằm yên lắng nghe. Một thứ tiếng kẽo kẹt khác vang lên từ nơi nào đó xa hơn, ở căn phòng áp mái bên kia, và cậu lại sợ rúm người, giật nảy mình mạnh đến nỗi cái chăn cọ vào cằm. Mày chỉ giật mình thôi, cậu tự nhủ; mày đang nhớ đến chuyện buổi chiều mà, nhưng làm gì có nhiều chuyện để mà nhớ chứ. Cậu cố hình dung gã lang thang đó là một kẻ chẳng có gì đặc biệt, chỉ là một người đàn ông bình thường mặc chiếc áo ngoài bẩn thỉu và đi đôi giày cũ kỹ; nhưng thay vào đó, một lần nữa tất cả những gì cậu có thể nhìn thấy là những cú bổ nhào hằn học của đàn quạ. “Kẻ Lang Thang đã lên đường…” Lại có tiếng cọt kẹt lạ lùng, lần này ở ngay trên trần nhà phía trên đầu cậu, gió đột nhiên rít mạnh hơn, và Will ngồi bật dậy, sợ hãi với tay bật đèn.
Căn phòng lập tức lại tràn ngập ánh sáng màu vàng ấm áp, và cậu xấu hổ nằm xuống, cảm thấy thật ngốc nghếch. Sợ bóng tối, cậu nghĩ: tệ làm sao chứ. Cứ như là một đứa bé. Anh Stephen sẽ chẳng bao giờ sợ bóng tối khi ở trên này đâu. Nhìn xem, vẫn cái giá sách và cái bàn, hai cái ghế và chỗ ngồi cạnh cửa sổ; nhìn xem, vẫn sáu con thuyền buồm nhỏ xíu treo trên trần nhà đang đu đưa, bóng của chúng đang giong buồm lướt trên tường. Mọi thứ vẫn bình thường. Đi ngủ thôi.
Cậu lại tắt đèn và ngay lập tức tất cả mọi thứ thậm chí còn tồi tệ hơn trước. Lần thứ ba, nỗi sợ hãi lại ập đến như một con thú khổng lồ đang rình mồi. Will nằm kinh hãi, run rẩy, cảm thấy người đang run nhưng lại không thể cử động nổi. Cậu thấy như mình sắp phát điên. Bên ngoài gió vẫn rền rĩ, ngừng một chút rồi lại rít lên, và có một tiếng động, một cú đấm mạnh bị kìm lại giáng vào cửa sổ trên trần. Rồi trong một giây phút kinh hoàng, nỗi khiếp sợ thít chặt lấy cậu như một cơn ác mộng đã thành hiện thực; một tiếng ầm vang lên, cùng với tiếng gió hú đột nhiên to hơn và gần hơn, và một luồng gió lạnh cóng rất mạnh; và Cảm Giác khiếp sợ đó lại đè lên người cậu với một sức mạnh kinh khủng đến nỗi làm cậu co rúm lại.
Will hét lên. Đến mãi sau này cậu mới biết mình đã hét lên; cậu sợ hãi đến nỗi không thể nghe được chính tiếng của mình. Trong một khoảnh khắc đen tối kinh hoàng, cậu nằm gần như bất tỉnh, lạc vào một nơi nào đó bên ngoài thế giới, trong khoảng không đen thẳm. Rồi có tiếng chân vội vã bước lên cầu thang ngoài cửa, một tiếng nói cất lên lo lắng, và ánh sáng an lành sưởi ấm căn phòng, đưa cậu trở về thực tại.
Đó là tiếng của Paul. “Will? Chuyện gì thế? Em có làm sao không?”
Will từ từ mở mắt. Cậu thấy mình đang cuộn tròn như một quả bóng, đầu gối co lên sát vào cằm. Cậu nhìn thấy Paul đứng phía trên, ánh mắt lo lắng đằng sau cặp kính gọng đen. Cậu gật gật đầu mà chẳng thể cất lên lời. Rồi Paul quay đầu sang hướng khác, Will nhìn theo và trông thấy cánh cửa sổ trên mái đang mở; cánh cửa vẫn đang đung đưa; một khoảng trời hình vuông đen thẫm mở ra qua khung cửa, và gió lùa cái giá buốt mùa đông vào phòng. Trên thảm, một đống tuyết nằm ngay bên dưới khung cửa sổ.
Paul nhìn mép khung cửa sổ. “Chốt cửa bị gãy rồi… Có lẽ tuyết quá nặng so vơi nó. Dù sao thì nó cũng cũ rồi, sắt đã gỉ hết. Anh sẽ lấy dây thép buộc lại, rồi ngày mai tính sau. Nó làm em tỉnh dậy à? Chúa ơi, chắc là khiếp lắm nhỉ. Nếu anh tỉnh dậy như thế, anh sẽ chui vào gầm giường mất.”
Will nhìn anh thầm cảm ơn và cố mỉm cười. Mỗi lời được thốt ra bằng cái giọng trầm ấm, an ủi của Paul lại đưa cậu trở lại gần hơn với thực tại. Cậu ngồi dậy và kéo lại tấm khăn trải giường.
“Chắc bố để dây thép trong đống đồ linh tính ở gác xép bên cạnh,” Paul nói. “Nhưng hãy dọn đống tuyết này trước khi nó chảy ra đã. Nhìn xem, tuyết vẫn còn rơi đây này. Anh cá là không phải nhà nào cũng được xem tuyết rơi trên thảm đâu.”
Paul nói đúng: những bông tuyết đang xoay tròn và rơi xuống qua lỗ hổng trên mái, bay khắp nơi. Hai anh em cùng nhau vun hết những gì có thể thành một quả cầu tuyết méo mó đặt trên tờ tạp chí cũ, rồi Will chạy xuống gác đổ vào phòng tắm. Paul lấy dây thép buộc lại chốt cửa sổ trên mái.
“Đấy,” Paul nói và mặc dù không nhìn Will, ngay lập tức cả hai đều hiểu điều cậu định nói. “Will, anh thấy ở đây lạnh lắm… Hay em xuống phòng bọn anh mà ngủ trên giường của anh ấy, và anh sẽ đánh thức em lúc anh quay xuống… Hoặc là anh sẽ ngủ luôn ở đây nếu em chịu nổi tiếng ngáy của thằng Robin. Được không?”
“Được ạ,” Will đáp, giọng khàn đi. “Cảm ơn anh.”
Cậu nhặt mớ quần áo vứt bừa bãi trong phòng lên - cả cái thắt lưng và vật trang sức mới của nó - ôm thành một bó tròn trong tay, và trên đường đi ra, cậu dừng một lúc ở cửa, quay đầu nhìn lại. Giờ đây, chẳng còn nhìn thấy gì ngoài một vũng ướt sẫm màu trên tấm thảm chỗ tuyết vừa rơi xuống. Nhưng cậu thấy trong lòng lạnh hơn cái lạnh của không khí bên ngoài, và cảm giác trống trải, kinh hãi vẫn còn nguyên trong cậu. Nếu không có chuyện gì ghê hơn nỗi sợ bóng tối, cậu đã không đời nào đi tị nạn trong phòng Paul. Nhưng với những gì đã diễn ra, cậu biết cậu không thể ở một mình trong căn phòng vốn là của mình này. Vì khi hai anh em dọn đống tuyết, cậu đã nhìn thấy một thứ mà Paul không nhìn thấy. Trong một đêm bão tuyết gầm rú như vậy, khó có sinh vật nào có thể tạo nên tiếng thịch nhẹ trên ô cửa kính mà cậu nghe thấy rất rõ ràng ngay trước khi cánh cửa trên nóc nhà rơi xuống. Nhưng trong đống tuyết đó, cậu đã tìm thấy một cái lông quạ màu đen vừa mới rụng.
Cậu lại nghe thấy tiếng người chủ trang trại như đang vang lên: Đêm nay sẽ rất tệ. Còn ngày mai sẽ nằm ngoài sức tưởng tượng.
Phần I - Tìm kiếm
Tiến >>
Nguồn: Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2008
ebook©tve-4u
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 22 tháng 11 năm 2022