Hiệu Sách Cuối Cùng Ở London
phương hạ (dịch)
CHƯƠNG 1
tháng tám năm 1939
thủ đô london, nước anh
Grace Bennett luôn ấp ủ ước mơ được đến sống ở London nhưng cô chưa bao giờ nghĩ rằng một ngày nào đó, đây lại là chọn lựa duy nhất của mình, nhất là vào đêm trước khi cuộc chiến nổ ra.
Con tàu ngừng lăn bánh khi đến nhà ga Farringdon. Trên tường, người ta có thể thấy rõ dòng chữ “FARRINGDON” nằm trên dải nền màu xanh lam trong một vòng tròn đỏ chót. Trên khuôn mặt của những hành khách đứng đợi trong sân ga hiện lên vẻ bồn chồn chẳng khác gì những người sắp xuống tàu cả. Họ mặc những bộ quần áo được cắt may sang trọng theo phong cách thị thành, thứ cầu kì hơn nhiều so với áo quần ở làng Drayton, thuộc hạt Norfolk.
Grace đang run lên vì hồi hộp và háo hức. Cô nhìn sang người bạn Viv ngồi bên cạnh, khẽ nói, “Chúng ta đến rồi.”
Cô bạn liền đóng nắp thỏi son lại khiến nó phát ra một tiếng “cạch” rồi nở nụ cười tươi tắn trên đôi môi vừa tô son đỏ thắm. Viv nhìn ra ngoài cửa sổ, lướt mắt qua những tấm biển quảng cáo chạy dọc theo bức tường cong cong. Cô thoáng siết nhẹ tay Grace, “Sau bao năm ước ao, cuối cùng chúng ta cũng đến London rồi. Chúng ta đến rồi.”
Từ hồi hai người còn là thiếu nữ, Viv đã bắt đầu nung nấu ý định rời khỏi ngôi làng Drayton buồn tẻ để lên thành phố tìm kiếm một cuộc đời thú vị hơn. Việc rời bỏ những tháng ngày êm đềm, thân thuộc chốn thôn quê rồi lao vào nhịp sống hối hả, náo nhiệt ở London từng là một suy nghĩ hết sức điên rồ đối với họ. Nhưng Grace đâu ngờ rằng một ngày nào đó, cô buộc phải chuyển đi chứ không còn là lựa chọn muốn được đi nữa.
Nhưng rồi Drayton chẳng còn gì để Grace lưu luyến, hoặc ít nhất cũng không còn gì khiến cô vương vấn mong được trở về.
Grace và Viv đứng lên khỏi chiếc ghế tàu hạng sang và với lấy hành lý của mình. Mỗi người chỉ xách theo một cái vali đã bạc màu và cũ rích vì bị xếp xó lâu ngày nhiều hơn là được đem ra dùng thường xuyên. Cả hai cái đều bị nhồi nhét nhiều đến mức như thể sắp vỡ bung ra. Chúng không chỉ nặng hơn cả tưởng tượng, mà còn cồng kềnh nên rất khó mang theo, nhất là khi mỗi người còn phải đeo trên vai những chiếc hộp đựng mặt nạ phòng độc. Theo lệnh của chính phủ, tất cả người dân phải luôn mang theo thứ kinh khủng ấy để tự vệ nếu chẳng may bị tấn công bằng khí ga.
Thật may vì phố Britton chỉ cách nhà ga hai phút đi bộ, hoặc cũng có thể do bác Weatherford nói thế thôi.
Bác Weatherford vốn là bạn từ thuở thiếu thời với mẹ của Grace. Năm ngoái, khi mẹ cô vừa qua đời, bà đã ngỏ lời mời Grace đến ở chung vì nhà bà còn dư một phòng trống. Điều kiện thuê nhà của bà cũng thật hào phóng - chẳng những miễn phí hai tháng để chờ Grace tìm được việc làm, mà thậm chí sau đó tiền nhà còn có thể giảm thêm. Mặc dù từ lâu Grace đã ao ước được đến London, và dù Viv nhiệt tình động viên hết mình nhưng cô vẫn cố nán lại Drayton thêm khoảng một năm nữa để nỗ lực chắp vá cuộc đời vỡ vụn của mình.
Lúc đó, Grace vẫn chưa biết ngôi nhà đã gắn bó với cô từ lúc lọt lòng thực ra thuộc về chú của cô. Lúc đó, ông chú vẫn chưa đưa bà vợ hống hách cùng năm đứa con đến đây sống. Và lúc đó, cô vẫn chưa biết hóa ra cuộc đời mình còn có thể tan nát hơn nữa.
Bà thím luôn sốt sắng đay nghiến rằng trong chính ngôi nhà từng là của Grace bây giờ không còn chỗ nào dành cho cô nữa. Nơi một thời là tổ ấm yêu thương và yên ủi giờ đã quay lưng ghẻ lạnh, hắt hủi cô. Cuối cùng, khi bà thím gom đủ can đảm để đuổi đứa cháu gái ra khỏi nhà thì cũng là lúc Grace nhận ra mình không còn sự lựa chọn nào nữa.
Tháng trước, Grace đã viết thư cho bác Weatherford để hỏi xem liệu cô còn có thể đến nhà bà ở được không. Đó là việc làm khó khăn nhất trong cuộc đời Grace từ khi sinh ra đến giờ. Nó không khác nào sự đầu hàng trước những nghịch cảnh mà cô phải trải qua, một thất bại tồi tệ đầy đau đớn. Grace cảm giác hành động nhượng bộ ấy chính là thất bại lớn nhất mà cô phải đối mặt.
Trước giờ Grace vốn không phải là người can đảm. Thậm chí đến lúc này, cô vẫn băn khoăn không biết mình có thể tự xoay xở đến được London không nếu như Viv không kiên quyết đi theo cùng.
Cảm giác bồn chồn siết chặt trái tim Grace trong lúc họ đợi những cánh cửa kim loại lấp lánh của đoàn tàu mở ra, chào đón họ bước lên hành trình khám phá một thế giới đầy mới mẻ.
Viv thì thào, “Mọi thứ sẽ tuyệt lắm. Sẽ tốt hơn ở quê nhiều, Grace ạ. Tớ đảm bảo đấy.”
Những cánh cửa trượt tự động trên tàu điện rít lên rồi mở ra. Hai cô gái đã đặt chân lên sân ga London. Xung quanh họ, dòng người đang tất tả ngược xuôi. Rồi mấy cánh cửa đóng sập lại sau lưng họ, làn gió lùa theo đoàn tàu tiếp tục chuyển bánh thổi bay mái tóc và tà váy của hai nữ hành khách này.
Trên bức tường xa xa là tấm biển quảng cáo thuốc lá Chesterfield với hình ảnh anh chàng cứu hộ điển trai đang mơ màng hút thuốc, trong khi bên cạnh nó lại là tấm áp phích kêu gọi thanh niên London lên đường nhập ngũ.
Đó không chỉ là dấu hiệu nhắc nhở rằng đất nước của họ sắp sửa phải đối mặt với một cuộc chiến, mà còn đang cảnh báo họ sẽ càng dễ gặp nguy hiểm hơn khi sống ở thành phố này. Vì nếu như Hitler lăm le tấn công nước Anh, London rất có thể sẽ lọt ngay vào tầm ngắm của hắn.
“Ôi Grace, nhìn kìa!” Viv reo lên.
Grace đang mải chăm chú nhìn tấm áp phích cổ động, nghe thấy bạn gọi, cô liền đưa mắt về phía chiếc cầu thang bằng kim loại. Nó từ từ chuyển động lên cao theo một băng chuyền vô hình rồi chợt biến mất đâu đó bên trên mái vòm cong cong. Grace và Viv từ từ tiến vào thành phố trong mơ của mình.
Tấm biển quảng cáo nhanh chóng trôi vào quên lãng khi hai cô gái háo hức nhào lên chiếc thang cuốn, rồi cố kiềm lại sự phấn khích khi nó nhẹ nhàng nâng họ lên cao, cao, cao mãi.
Đôi vai Viv rướn lên trong niềm hạnh phúc sắp sửa vỡ òa, “Chẳng phải tớ đã nói với cậu là nơi đây tuyệt lắm sao?”
Cả người Grace lâng lâng vui sướng. Thế là sau ngần ấy năm ước ao và ấp ủ, cuối cùng họ cũng đã đến London rồi đây.
Vậy là Grace đã thoát khỏi những lời chì chiết đay nghiến của ông chú, còn Viv thì không còn phải chịu sự quản thúc nghiêm khắc của bố mẹ nữa.
Mặc dù trong lòng Grace còn nhiều phiền muộn, nhưng cô và Viv vẫn ào ra khỏi sân ga như những chú chim được tháo cũi sổ lồng, sẵn sàng sải cánh bay vào bầu trời tự do.
Xung quanh họ là biết bao tòa nhà chọc trời, cao chót vót tới nỗi Grace phải đưa tay lên che nắng mới nhìn thấy được đỉnh của chúng. Vài cửa hàng gần đó chào đón hai cô gái lần đầu lên phố bằng những bảng hiệu sơn màu rực rỡ, nào là tiệm bánh mì sandwich, tiệm cắt tóc và cả cửa hàng dược phẩm nữa. Trên đường, mấy chiếc xe tải và xe buýt sầm sập chạy xuôi ngược, bên hông chiếc xe buýt còn sơn màu đỏ bóng lộn hệt như móng tay của Viv.
Tất cả những điều mà Grace có thể làm lúc này là cố túm lấy cánh tay bạn mình và reo lên trước cảnh tượng trước mặt. Viv cũng ngây người ra, mở to cặp mắt long lanh nhìn mọi thứ trong sự sửng sốt. Hóa ra, cô cũng “nhà quê” chẳng khác gì Grace, mặc dù chiếc váy Viv đang mặc trông khá hợp mốt và những lọn tóc nâu vàng của cô được tạo kiểu vô cùng duyên dáng.
Grace thì không sành điệu như thế. Cô đã chọn bộ đầm đẹp nhất cho một dịp đặc biệt thế này nhưng nó cũng chỉ dài qua gối một chút với chiếc thắt lưng đen mảnh mai làm điểm nhấn ngay eo, phối hợp hài hòa với đôi guốc đế thấp. Tuy không thời trang bằng kiểu váy chấm bi đen trắng mà Viv đang mặc, nhưng chiếc đầm vải bông màu xanh nhạt đã tôn lên đôi mắt xám và mái tóc hoe vàng của Grace.
Dĩ nhiên bộ đầm này là Viv may tặng Grace. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, Viv vẫn luôn nuôi dưỡng những khát khao lớn hơn dành cho cả hai người họ. Họ đã cùng nhau dành hàng giờ để may váy áo và uốn tóc, chăm chỉ đọc tạp chí Woman và Woman’s Life suốt nhiều năm trời để học hỏi về thời trang lẫn quy tắc xã giao lịch thiệp, sau đó nỗ lực thay đổi bản thân để không còn ai nhận ra đây là những cô gái Drayton quê mùa nữa.
Bây giờ, với đôi gò má cao và cặp mắt nâu long lanh, trông Viv duyên dáng đến độ xứng đáng trở thành gương mặt trang bìa cho những tạp chí này.
Họ hòa mình vào dòng người tất bật ngược xuôi, chuyển mớ hành lý nặng trịch từ tay này sang tay kia trong lúc Grace dẫn đường đi về phố Britton. May là trong lá thư gần nhất, bác Weatherford đã chỉ đường rất tỉ mỉ nên họ cũng dễ dàng đi theo.
Tuy nhiên, trong thư tuyệt nhiên không nhắc đến bất cứ dấu hiệu nào của chiến tranh.
Trên phố ngày càng xuất hiện nhiều quảng cáo. Một số cái kêu gọi lớp thanh niên hãy làm tròn nghĩa vụ với đất nước. Một số khác lại xúi giục mọi người cứ mặc kệ Hitler lẫn lời đe dọa của hắn và thoải mái lên lịch nghỉ hè. Ngay bên kia đường, một bức tường xây bằng nhiều bao cát đang bao quanh cánh cửa, với tấm biển màu đen trắng thông báo rằng nơi này là chỗ Trú ẩn Không kích Công cộng.
Đúng như hướng dẫn của bác Weatherford, họ đến được phố Britton chỉ sau hai phút ngắn ngủi. Bây giờ, trước mặt họ là một ngôi nhà phố bằng gạch có cánh cửa màu xanh lá, chiếc vòng gõ cửa bằng đồng bóng loáng và một cái chậu trồng đầy hoa dạ yến thảo tím pha trắng nằm bên cửa sổ. Theo những gì trong thư đã viết thì đây chắc chắn là nhà bác Weatherford rồi, không thể nào nhầm được.
Và đây cũng chính là nhà mới của họ.
Viv háo hức bước lên những bậc thềm khiến những lọn tóc xoăn nhún nhảy theo từng bước chân, rồi cô gõ nhẹ vào cánh cửa. Grace cũng háo hức theo sau với niềm hi vọng tràn ngập trong lòng. Dẫu sao đi nữa, bác Weatherford cũng là người bạn thân thiết nhất với mẹ cô, và bác từng đến Drayton thăm hai mẹ con cô vài lần hồi Grace còn nhỏ.
Tình bạn giữa mẹ của Grace và bác Weatherford bắt đầu từ khi bác còn sống ở Drayton. Sau này, tuy bác đã chuyển đi nhưng tình bạn đó vẫn tiếp tục duy trì và bền bỉ vượt qua nhiều biến cố - ban đầu là Chiến tranh Thế giới thứ Nhất đã khiến hai người phụ nữ trở thành quả phụ, và sau đó là cơn bạo bệnh đã quật ngã mẹ của Grace.
Cánh cửa mở ra và bác Weatherford xuất hiện. Tuy bác nom có vẻ già hơn hình ảnh trong kí ức của Grace nhưng dáng người bác vẫn đầy đặn với đôi má bầu bĩnh ửng hồng và cặp mắt xanh sáng lấp lánh. Bác đeo cặp kính tròn và mái tóc đen nhánh được buộc lại bằng những sợi dây màu bạc lung linh. Bác đưa mắt nhìn Grace.
Bác có vẻ sửng sốt và đưa tay chạm nhẹ lên môi, “Grace, cháu giống mẹ y như đúc vậy. Đôi mắt xám của cháu đẹp quá, hệt như đôi mắt của Beatrice ngày xưa.” Rồi người phụ nữ mở rộng cửa ra, bà mặc chiếc váy bông màu trắng, điểm xuyết mấy bông hoa thêu màu xanh dương hài hòa với những chiếc cúc áo cùng màu. Đằng sau bà là một lối vào nhỏ hẹp nhưng gọn gàng, với dãy cầu thang dẫn lên tầng trên choán gần hết diện tích. “Nào, vào đi các cháu.”
Grace thì thào cảm ơn bác Weatherford vì lời khen vừa rồi nhưng quả thật nó đã chạm vào nỗi nhớ thương người mẹ quá cố vẫn luôn chực trào trong cô.
Cô xách vali qua ngưỡng cửa, bước vào một ngôi nhà ấm cúng, nơi tỏa ra mùi thơm của rau và thịt. Nghĩ đến thôi cũng đủ khiến Grace chảy nước miếng.
Từ ngày mẹ mất, cô chưa bao giờ có được bữa cơm nhà tử tế. Đến một bữa tàm tạm cũng không. Thím của Grace vốn chẳng nấu nướng gì mấy, còn Grace phải tất bật chuyện quản lý cửa hàng cho chú nên chẳng còn thì giờ mà chuẩn bị thứ gì tươm tất.
Tấm thảm mềm mại dưới chân như nâng đỡ những bước đi của Grace. Chiếc thảm có màu kem và trang trí những bông hoa nhàn nhạt, tuy sạch sẽ nhưng hình như đã sờn vài mảng.
“Cháu là Vivienne?” Bà Weatherford lên tiếng khi Viv bước vào cùng Grace.
“Bạn bè đều gọi cháu là Viv ạ.” Cô đáp, kèm theo nụ cười duyên dáng đậm chất Viv có-một-không-hai.
“Hai đứa lớn lên đều xinh quá. Thằng con nhà bác chắc chắn sẽ đỏ mặt cho xem.” Bà ra hiệu cho hai cô gái để hành lý xuống sàn rồi gọi với lên chiếc cầu thang bằng gỗ bóng loáng. “Colin, xuống phụ hai chị một tay để mẹ đi đun nước.”
“Colin có khỏe không ạ?” Grace lịch sự hỏi thăm.
Giống như Grace, Colin cũng là con một và đã trở thành đứa trẻ mồ côi cha sau Chiến tranh Thế giới thứ Nhất. Tuy cậu nhỏ hơn Grace hai tuổi nhưng họ đã chơi chung với nhau từ khi còn bé. Cô thường đắm mình chìm trong hồi tưởng về những kỉ niệm thời thơ ấu ấy. Colin lúc nào cũng dịu dàng, tử tế cùng với trái tim chân thành ẩn sau đôi mắt thông minh sắc sảo.
Bà Weatherford bực bội vung tay lên. “Nó vẫn thích cứu mấy con vật rồi lại ôm hết về nhà.” Miệng nói thế nhưng nụ cười lặng lẽ hiền hậu của bà như thầm bảo rằng bà không phiền lòng lắm đâu.
Trong lúc chờ Colin, Grace tranh thủ ngắm nhìn hành lang một chút. Cạnh cầu thang có đặt một chiếc bàn, trên bàn để chiếc điện thoại đen bóng. Giấy dán tường là tấm vải xanh trắng bắt mắt, tuy hơi bợt bạt nhưng hài hòa với mấy cánh cửa và các khung cửa sơn trắng. Thiết kế đơn giản nhưng mọi thứ đều hoàn hảo, không thể chê vào đâu được. Thật ra, Grace dám chắc cô sẽ khó lòng tìm được một hạt bụi nào vương trên bất kì vật gì mà bạn của mẹ cô sở hữu.
Một tiếng cọt kẹt vang lên, theo sau là tiếng bước chân đi xuống cầu thang, và rồi một anh thanh niên cao gầy xuất hiện. Trong trang phục áo sơ mi kết hợp với quần tây nâu chững chạc, mái tóc đen của anh được chải chuốt gọn gàng.
Chàng trai nở nụ cười bẽn lẽn, điều đó khiến nét mặt của anh trở nên mềm mại hơn và trông anh trẻ trung hơn so với độ tuổi hai mươi mốt của mình. “A, chị Grace.”
“Colin?” Grace thốt lên, không tin vào mắt mình. Mặc dù ngày trước cô đã từng cao hơn anh, nhưng giờ đây anh đã cao vượt cô rồi.
Chàng trai liền đỏ mặt.
Phản ứng của Colin thật đáng yêu, nó khiến Grace cảm thấy thân thương vì cô biết sau ngần ấy năm xa cách, người bạn thời thơ ấu của mình vẫn không mất đi vẻ dịu dàng.
Grace ngước nhìn Colin, “Em đã lớn hơn nhiều kể từ lần cuối mình gặp nhau rồi đấy.”
Chàng trai trẻ nhún đôi vai gầy trông thật bẽn lẽn rụt rè, rồi sau đó anh quay qua gật nhẹ đầu chào Viv. Viv cũng là người bạn thường chơi đùa với cậu hồi bé bởi vì hai cô gái này lúc nào cũng quấn quýt bên nhau. “Mừng chị đến London, Viv ạ. Mẹ con em mong chị lắm.” Cậu quay sang Grace cười toe toét, rồi cúi xuống nhấc hai chiếc vali mà hai cô gái này đã đặt sang một bên. Colin hơi ngần ngại, “Em mang cái này lên cho hai chị được không?”
“Ừ, giúp chị nhé. Cảm ơn em.” Viv đáp.
Colin gật đầu rồi mỗi tay xách một chiếc, nhẹ nhàng mang chúng lên tầng.
“Cháu còn nhớ Colin không?” Bà Weatherford hỏi.
“Dạ nhớ.” Grace đáp. “Em nó trước giờ vẫn tốt bụng.”
“Chỉ có điều cao ngồng lên rồi.” Viv tiếp lời.
Bà Weatherford nhìn lên cầu thang với ánh mắt trìu mến như thể bà vẫn nhìn thấy bóng dáng con trai mình, “Nó là một chàng trai tử tế. Nào, bây giờ chúng ta đi uống trà, uống trà xong rồi bác dắt tụi con đi vòng vòng coi nhà.”
Bà chủ nhà ra hiệu cho hai cô gái trẻ đi theo và đẩy cánh cửa dẫn vào một gian bếp. Ánh sáng tràn vào từ ô cửa sổ phía trên bồn rửa và từ cánh cửa sau, rồi xuyên qua những tấm rèm trắng mỏng manh đang hé mở. Mọi thứ trong căn bếp khiêm tốn này cũng mới tinh tươm y như ở hành lang. Ánh nắng rọi lên các mặt bàn sạch sẽ trắng tinh, vài chiếc đĩa được xếp gọn gàng trên giá để hong khô. Mấy chiếc khăn màu vàng chanh được mắc lên một cái giá. Nhưng hấp dẫn hơn cả chính là mùi thơm của món gì đó mà bà Weatherford đang nấu trên bếp lúc này.
Bà chỉ tay về phía một chiếc bàn nhỏ có bốn chiếc ghế màu trắng cho Grace và Viv ngồi, sau đó bà nhấc ấm đun nước ra khỏi bếp. “Chú của con đòi lại nhà đúng lúc quá nhỉ, ngay khi cuộc chiến sắp đổ lên đầu chúng ta.” Bà cho chiếc ấm vào bồn rửa và mở vòi nước. “Và như vậy mới đúng là Horace,” giọng bà thể hiện sự khinh ghét rõ ràng, còn nước vẫn cứ tiếp tục chảy ra xối xả. “Beatrice đã lo lắng sớm muộn gì ổng cũng sẽ làm vậy, nhưng không ngờ mẹ con đổ bệnh đột ngột quá…”
Bà Weatherford đang để ý mực nước trong ấm nhưng vẫn liếc sang nhìn Grace. “Lẽ ra bác không nên càm ràm mấy chuyện này. Các cháu vừa từ xa đến đây mà. Bác rất mừng khi có hai đứa ở đây. Bác chỉ ước gì hoàn cảnh sáng sủa hơn một chút.”
Grace cắn môi, lúng túng không biết nói gì.
“Nhà của bác dễ thương quá!” Viv nhanh ý đỡ lời.
Grace quay qua nhìn cô bạn với ánh mắt đầy biết ơn. Viv liền đáp lại bằng cái nháy mắt đầy ẩn ý.
“Cảm ơn cháu.” Người phụ nữ lớn tuổi tắt vòi nước và mỉm cười nhìn quanh gian bếp đầy nắng. “Mấy đời nhà Thomas của bác đều ở đây, tuy không còn tốt như lúc đầu nhưng sống tạm thì vẫn được.”
Grace và Viv cùng thả mình xuống ghế. Chiếc đệm lót in hình trái chanh rất mỏng nên họ có thể cảm nhận được mặt gỗ cưng cứng bên dưới. “Tụi cháu rất biết ơn vì bác đã cho tụi cháu ở lại đây. Bác tốt bụng quá.”
“Cháu đừng khách sáo.” Bà Weatherford đặt chiếc ấm lên bếp và xoay núm để bật lửa. “Bác có thể làm tất cả cho đứa con gái của người bạn thân thiết nhất với bác.”
“Bác nghĩ tìm việc có khó lắm không ạ?” Viv hỏi. Mặc dù cô đã cố giữ giọng mình thật nhẹ nhàng, nhưng Grace biết từ lâu bạn mình đã khao khát được làm nhân viên trong cửa hàng đến nhường nào.
Thực lòng thì ý tưởng đó cũng rất thu hút Grace. Viễn cảnh được làm việc trong một cửa hàng bách hóa, nơi vừa to vừa đẹp như Woolworths với những tầng lầu chứa đầy hàng hóa trải dọc suốt cả dãy nhà thật hấp dẫn biết bao.
Bà Weatherford mỉm cười bí ẩn, “Tình cờ là bác quen biết khá nhiều chủ cửa hàng ở London này. Bác tin bác có thể giúp được các cháu. Colin cũng đang làm việc ở Harrods. Nó có thể nói giúp hai cháu vài lời.”
Mắt Viv sáng lên và cô vô cùng phấn khởi lặp lại tên cửa hàng đó với Grace.
Bà Weatherford lấy chiếc khăn màu vàng, nhấc một chiếc đĩa ra khỏi giá rồi lau sạch vài giọt nước còn đọng trên đó, “Bác phải nói rằng trông hai cháu không hề giống như mới từ Drayton lên chút nào.”
Viv nghiêng cằm cao hơn một chút, “Cháu cảm ơn bác. Tụi cháu chắc chắn sẽ cố gắng làm việc. Cháu hi vọng điều đó sẽ giúp chúng cháu dễ xin vào làm hơn.”
Bà Weatherford mở tủ để cất chiếc đĩa vào trong, “Tốt quá. Chắc là cháu đã chuẩn bị thư giới thiệu rồi chứ hả?”
Trước khi đến London, Viv đã mượn chiếc máy đánh chữ và dành cả ngày để tự soạn cho mình một lá thư giới thiệu chỉn chu. Cô còn đề nghị làm luôn cho Grace một cái nhưng Grace từ chối.
Bà Weatherford quay lại để tiếp tục lau khô mấy cái đĩa. Viv nhướng mày nhìn bạn như thầm nói đáng lẽ lúc đó Grace nên đồng ý để cô giúp.
“Chúng cháu đều có thư giới thiệu ạ.” Viv tự tin trả lời thay cho cả hai, rõ ràng cô đã dự tính được cách làm thêm một lá thư nữa cho Grace.
Grace đính chính, “Viv thì có nhưng cháu thì không ạ. Thật xui xẻo vì ông chú không chịu viết thư giới thiệu cho cháu, dù bao lâu nay cháu đã làm cho cửa hàng của ông ấy.”
Đó là hành động nhẫn tâm cuối cùng của người chú nhằm trả đũa việc Grace đã “rời bỏ cửa hàng” mà cô đã nai lưng làm suốt một thời gian dài. Dường như ông không đếm xỉa đến việc vợ ông khăng khăng đuổi Grace ra khỏi nhà mà chỉ cay cú chuyện đứa cháu gái không còn ở đây để tùy ông sai khiến nữa.
Chiếc ấm rít lên một tiếng chói tai và luồng hơi nước xộc ra từ vòi ấm. Bà Weatherford nhanh chóng dập tắt tiếng kêu ấy bằng cách nhấc ấm xuống khỏi bếp và đặt lên cái kiềng ba chân.
Bà xúc một thìa đầy lá trà cho vào quả lọc trà rồi chế nước sôi vào ấm, miệng trách cứ, “Thật nhẫn tâm, quá nhẫn tâm.” Bà lẩm bẩm điều gì đó về chú Horace và đặt ấm trà lên một cái khay bạc, bên cạnh ba chiếc tách, hộp đường và kem. Bà cau mày nhìn Grace với vẻ bất lực, “Nếu không có thư, họ sẽ không nhận cháu vào làm đâu.”
Grace nghe lòng mình chùng xuống. Đáng lẽ cô nên đồng ý để Viv làm giả một bức thư cho rồi.
“Nhưng bác nghĩ ra một chỗ này. Cháu có thể đến đó làm tạm nửa năm để lấy thư giới thiệu hợp lệ.” Bà Weatherford từ tốn nói tiếp trong lúc bưng chiếc khay lên bàn và rót cho mỗi người một tách trà nóng.
“Cho dù bác định giới thiệu việc gì thì cậu ấy cũng là ứng viên tuyệt nhất.” Viv xúc một cục đường trong bát rồi thả vào tách trà. “Hồi đi học Grace lúc nào cũng đạt điểm cao nhất lớp. Một tay bạn ấy đã quản lý nguyên cửa tiệm của chú mình và nhờ vậy nó làm ăn phát đạt hẳn lên.”
“Cho nên bác nghĩ việc này sẽ xuôi chèo mát mái thôi.” Bà Weatherford nhấp một ngụm trà.
Có thứ gì đó thúc vào chân Grace. Cô nhìn xuống, hóa ra là một chú mèo mướp con đang ngước nhìn cô bằng cặp mắt to tròn màu hổ phách với vẻ nài nỉ.
Grace vuốt ve lớp lông mềm mại phía sau tai chú mèo con và nghe tiếng nó “rừ… rừ” thích thú. “Thì ra bác có nuôi một con mèo.”
“Chỉ mới mấy ngày thôi, mong là cháu không thấy phiền.” Bà Weatherford xua tay định đuổi con mèo đi nhưng nó vẫn bướng bỉnh nằm lì bên chỗ Grace.
“Cái con mèo tinh ranh này nhất quyết không rời khỏi nhà bếp mỗi khi nó ngửi thấy mùi đồ ăn.” Bà Weatherford ném cho con vật nhỏ bé cái nhìn bực bội nhưng nó nhìn lại bà bằng cặp mắt ngây thơ, không hề tỏ chút áy náy. “Colin là người hùng đối với mấy con vật. Bác mà cho phép nó nuôi hết những con thú bị thương nó mang về nhà, thì dám chừng chúng ta sẽ có một sở thú đấy.” Tiếng cười của bà cắt ngang làn hơi nước bốc lên từ tách trà.
Con mèo nằm ngửa lên sàn, để lộ mảng lông hình ngôi sao màu trắng trên ngực. Grace gãi gãi vào chỗ lông đó, rồi cô nghe thấy tiếng “rừ… rừ” của nó nhịp nhàng đều đặn dưới ngón tay mình. “Bác đặt tên cho nó là gì ạ?”
“Tabby.” Bà Weatherford vừa đáp vừa hài hước đảo mắt. “Con trai bác giỏi giải cứu hơn là đặt tên cho tụi nó.”
Như thể được gọi đến, vừa nhắc một cái là Colin đã bước vào bếp. Tabby liền đứng lên, chạy lon ton đến bên vị cứu tinh của nó. Colin nâng chú mèo con lên bằng đôi bàn tay to lớn. Cử chỉ của anh thật dịu dàng và con vật nhỏ bé nũng nịu rúc vào người anh.
Lần này, người bị bà Weatherford đuổi đi chính là Colin, “Mang nó ra khỏi bếp cùng đi.”
“Con xin lỗi mẹ.” Colin vội vàng mỉm cười hối lỗi với Grace và Viv rồi cúi đầu, ôm con mèo trên ngực và đi ra khỏi phòng.
Bà mẹ lắc đầu với vẻ thích thú trìu mến khi nhìn cậu con trai đi khỏi. “Để bác ghé qua chỗ ông Evans rồi gửi gắm cháu ở chỗ ông ấy.” Bà ngồi lại xuống ghế, chăm chú nhìn ra vườn rồi buông một tiếng thở dài.
Grace nhìn ra cửa sổ. Một cái hố sâu nằm chình ình trên mặt đất, bên cạnh nó là đống hoa u sầu bị bật gốc và một chồng những tấm có vẻ như là tấm nhôm. Rất có thể người ta đang chuẩn bị đào hầm trú ẩn ở đó.
Ở làng Drayton, Grace chưa bao giờ thấy những thứ như vậy vì nơi đó ít có nguy cơ bị giội bom, nhưng cô nghe phong thanh rằng người ta đã chuẩn bị sẵn sàng cho một vài thành phố. Những hầm trú ẩn nhỏ sẽ được đào trong vườn, phòng khi Hitler đánh vào nước Anh.
Cảm giác sợ hãi chạy dọc sống lưng Grace. Sau bao lần nỗ lực để đặt chân đến London, cuối cùng họ lại tới đúng lúc cuộc chiến sắp bùng nổ. Bây giờ, nơi này đang nằm trong tầm ngắm chính của các vụ đánh bom.
Nhưng họ cũng không thể quay về Drayton được nữa. Grace thà bất chấp hiểm nguy để trụ lại nơi mà cô hằng ước ao còn hơn là trở về để chịu đựng sự thù ghét của người chú.
Viv tò mò ngó ra cửa sổ và ngay lập tức nhìn đi chỗ khác. Sau một quãng đời bán mặt cho đất bán lưng cho trời, Viv nói mình đã “chán ngán bụi đất đến tận cổ rồi”.
Bà Weatherford lại thở dài và nhấp một ngụm trà, “Nó từng là một khu vườn đẹp.”
“Rồi nó sẽ trở lại như trước, bác ạ.” Grace tự trấn an mình nhưng trong lòng cô không được tự tin như những lời vừa nói. Nếu London bị đánh bom, liệu còn khu vườn nào được phục hồi như cũ không? Và liệu lúc đó còn có ai sống để giải quyết vấn đề này không?
Những suy nghĩ đó cứ bám riết lấy tâm trí Grace và nhấn chìm cô vào bóng tối đầy kì quái. “Bác ơi,” cô đột ngột lên tiếng, muốn xua tan hết ý nghĩ về chiến tranh hay bom đạn. “Cháu có thể hỏi cửa hàng của ông Evans đang bán cái gì không ạ?”
Bà Weatherford đặt tách trà lên chiếc đĩa lót, hai đồ vật chạm nhau kêu lên cái “cách”. Đôi mắt bà sáng rỡ vẻ nhiệt tình, “Được chứ cháu. Đó là một hiệu sách.”
Grace cố che giấu một thoáng thất vọng bởi lẽ cô chẳng biết gì mấy về sách. Hễ lần nào Grace cố gắng đọc vài trang thì đều bị đủ thứ chuyện chen ngang. Trước đây cô luôn đầu tắt mặt tối ở cửa hàng của chú, nỗ lực kiếm đủ tiền để hai mẹ con đắp đổi qua ngày nên chẳng còn thì giờ đâu mà nghĩ đến chuyện đọc sách. Và rồi mẹ cô lâm bệnh…
Việc quản lý cửa hàng của chú Horace chẳng khiến cô gặp khó khăn gì, đặc biệt vì đồ gia dụng là những thứ mà bản thân cô vẫn thường sử dụng. Đối với Grace, việc bán ấm trà, khăn tắm, bình hoa và các mặt hàng khác vốn đã quen thuộc như lòng bàn tay. Nhưng văn chương thì cô nào biết gì đâu.
Chà, nói vậy cũng không đúng lắm.
Grace vẫn còn nhớ cuốn Truyện cổ Grimm của mẹ, trên bìa vẽ một cô công chúa vô cùng xinh đẹp. Grace thường say sưa ngắm nhìn những hình minh họa rực rỡ, sống động trong lúc giọng kể của mẹ dệt nên thế giới mầu nhiệm qua các câu chuyện thần tiên. Nhưng ngoài Truyện cổ Grimm, Grace chưa bao giờ có thời gian để đọc bất kì thứ gì khác.
“Tuyệt quá!” Grace cười tươi rói để giấu đi sự bối rối của mình. Dù sao đi nữa cô vẫn sẽ đồng ý đi làm. Dù làm bất cứ việc gì đi chăng nữa thì cũng tốt hơn là làm việc trong cửa hàng của ông chú mình.
Nhưng Grace làm sao có thể bán một thứ mà bản thân cô gần như chẳng biết gì về nó đây?
CHƯƠNG 1
Tiến >>
Nguồn: TVE 4U
Được bạn: Mot Sach đưa lên
vào ngày: 12 tháng 2 năm 2025