Húng hính chơi ở trong chốn cố hương được mấy tuần, tôi lóng nghe đô thành đã yên tịnh, không có phi cơ oanh tạc đến viếng nữa. Tôi tò mò trở về Sài Gòn. Nào dè mới về được vài ngày thì còi báo động thổi rân nữa, có bữa báo động tới hai lần. Người ta lo tản cư. Tôi ngao ngán nên cũng chạy như thiên hạ. Mà lần nầy, tôi theo một ông bạn chạy lên miệt trên, tìm nơi cao ráo u nhàn đặng dung thân dưỡng trí.
Tôi lên ở Bến Súc.
Đến đây tôi liền nhớ cái thớt vườn êm đềm kín đáo, mà năm trước tôi đã thày lay tả vẻ trong một bộ tiểu thuyết của tôi, cái thớt vườn nực nồng thi vị, chan chứa thương yêu, nối tóc xe tơ cho cặp nam nữ thanh niên là cậu Phúc với cô Lý, một tối cựu, một tối tân nhưng hai tâm hồn tương đồng, tương hiệp.
Bữa sau tôi đi xem lại thớt vườn nầy, xem coi Thần ái tình còn ủng hộ Phúc với Lý hay không. Miễu ái tình vẫn còn sờ sờ, mội nước trong vẫn còn ro re, tiếng đờn ve vẫn còn inh ỏi, duy thiếu Phúc với Lý. Người ta nói cặp tri âm nầy đã vô Đường Long mấy bừa rày, vô kiếm chỗ mà gây thêm một cái ổ ái tình thứ nhì nữa.
Đường Long... Tôi biết rồi, chỗ Phúc khẩn đất để trồng tiêu, trồng nghệ, tôi đã có nói trong quyển „Ái tình miếu“. Tôi quyết đi, đi tìm Phúc với Lý, mà cũng đi xem quang cảnh Đường Long. Một ông bạn mượn chiếc xe bò mà chở tôi đi vì đường xa đến năm ngàn thước, đi bộ không tiện. Đi Đường Long mà ông bạn tôi không chịu đi theo lộ đá Kiểm Lâm, lại bắt đi dọc theo mé bưng, nói đi ngã đó tôi mới được thưởng thức đủ cảnh rừng, vườn, bưng, suối.
Hồi xưa, cụ Nguyễn Công Trứ ngâm câu „Cỡi trâu êm hơn cỡi ngựa“, hôm nay, tôi lại thấy „Ngồi xe bò khỏe hơn ngồi xe hơi“. Ngồi xe bò khỏi lật té mà nó còn gây trong lòng tôi một cảm hứng nồng nàn dị kỳ. Tại sao cảm hứng? Tại gặp cái nguồn. Suối Xinô bắt từ trên từng cao, xa lắm, phía trong Cà Tong nữa kìa, quanh co chảy ra sông Sài Gòn. Tuy suối dài đến mấy chục ngàn thước, như mùa khô bề ngang chỉ có năm ba thước, đến mùa ướt mới có nước nhiều. Hai bên suối, đất thấp, thì mưa dào người ta gieo mạ, cấy lúa. Vô trong, đất cao lên một chút, thì người ta làm rẫy, trồng những mía, mì, mè, đậu và ớt nghệ, gừng.
Vô trong nữa, đất cao hơn, thì người ta lập vườn trồng những sầu riêng, trái sữa, chanh, mít, tiêu, cau. Phía sau vườn thì là rừng, lố xố những sao, sến, dầu, gõ, bằng lăng, trắc, chỗ còn rừng cấm, chỗ đã có chủ. Phần nhiều chủ đất chiếm từ dưới ruộng lên tới trên rừng. Lại mỗi sở đất đều có người ta ở trồng tỉa, ai ở xa thì cất trại, ai ở tại đó thì cất nhà, có nhà tranh mà cũng có trại ngói. Ngồi xe bò đi cục kịch theo mé rừng hay qua đám rẫy! mắt ngó khoai mía xanh tươi, cây cội chớn chở, tai nghe gà rừng gáy, cu đất kêu, quan cảnh an tịnh làm cho tôi ngẩn ngơ, quên hết các rộn rực ở thị thành, mà cũng quên hết các nổi chìm của thế sự, tâm hồn bắt say sưa với thú lâm viên khỏe khoắn, với thói thôn quê thiệt thà.
Vô tới Đường Long, gặp lộ đá Kiểm Lâm, tôi hỏi thăm Phúc và Lý. Người ta nói cách vài bữa trước có thấy đi qua, đi thẳng vô phía trong. Tôi đi theo, đi một đỗi rất xa, mà tìm không gặp.
Nghĩ đều rừng thẳm, suối dại,
Bóng chim tâm cá, hỏi ai bây giờ.
Bạn tôi mới khuyên tôi đừng theo nữa, rủ ghé một trại quen xin nước trà quế bọt mà uống rồi trở về. Ông Ba Lung, ở trại nầy, ông mừng rỡ và dường như ở đây ít người nên ông khao khát nói chuyện, bởi vậy ông tiếp rước chúng tôi rất ân cần, ông nấu nước pha trà đãi chúng tôi rồi ông thuật cho chúng tôi nghe một chuyện ái tình mới kết cuộc cách mấy bữa trước, kết cuộc với màn bi kịch xào xáo rồi tiu hiu, làm cho ở vùng nầy người ta vừa kinh tâm, vừa áo não.
Thôi, tìm không được ổ ái tình êm ấm kia, thì tôi chép lại chuyện ái tình xào xáo nầy, kỷ niệm cho buổi nhàn du và luôn dịp bày tỏ Đường Long cảnh vật.
Hôm nọ, lúc nửa chiều, con Quế đầu đội nón lá đương lum khum giữa đám đậu, lo xới đất vun gốc đậu, có thím Tư Cam ở gần, muốn vần công nên lại làm phụ với nó cho mau. Thím Tư Canh hay nói chuyện; thím thấy thằng Khoa đương lùa cặp bò cho ăn cỏ dựa mé rừng, thì thím hỏi Quế:
- Ủa! Bò của mầy sao còn có một cặp? Còn hai con nữa đâu?
- Cặp bò kia mắc đi xe củi trong Bào Đề. Cậu Tư Cu đấu giá mua rừng làm củi. Cậu nói với má tôi, cậu mướn xe ít bữa, nên hôm qua má tôi sai anh Lực đem xe vô trỏng cho cậu.
- Thằng khùng đó mà chị Ba dám giao xe giao bò cho nó đem đi xa như vậy sao?
- Chớ có ai đâu mà sai.
- Thằng Khoa là con nít, nó trị cặp bò kia sao nổi.
- Cậu Tư hứa cậu coi chừng giùm, nên má tôi mới chịu.
- Anh Tư Cu năm nay bày làm củi chi vậy không biết.
- Củi có giá, làm khá lắm chớ.
- Khá giống gì? Củi đem ra bến mà bán thì họ dụ bưng họ trả rẻ. Mình mướn ghe chở xuống Thủ hay xuống Sài Gòn thì bán được giá hơn, song đường đi hiểm trở lắm. Đó, ông Ba Lung chở củi đi bán, ổng về hôm kia, rồi cứ ngồi khoanh tay mà khóc đó.
- Sao mà khóc?
- Ổng bán củi được 130 đồng bạc. Ổng không dám về ghe, lận bạc trong lưng mà đi lên Thủ. Trễ xe hơi, ổng giang xe bò mà về trên nầy, đi tới chỗ Trắc Sùm, bị ăn cướp đón giựt bạc hết trọi, lại đánh ổng sưng cánh tay.
- Trời ơi! ở Trắc Sùm có ăn cướp hay sao?
- Có họ nói chừng một tháng nay có đảng ăn cướp năm sáu đứa, có súng, dữ lắm, nó ẩn núp ở đó đón giựt đồ người ta. Bọn nó giựt tới xe máy, xe ngựa nữa, ai chống cự thì nó bắn chết.
- Dữ há? Tôi nghe nói Trắc Sùm mà tôi không biết ở chỗ nào.
- Ở trên An Tây thôn một đỗi đó. Chỗ đó vắng lắm.
- Ăn cướp làm dữ như vây, quan làng không bắt nó sao?
- Dễ gì mà bắt. Nó rút vô rừng rồi làm sao mà tìm được. Lại nó có súng, nó bắn chết chớ.
- Thím Tư, ăn cướp có súng, mình đi xe hơi tôi tưởng nó đón nó đánh cũng được a thím.
- Được nó gạt xe ngừng rồi nó giựt.
- Ghê quá! Chắc tôi không dám đi Thủ rồi a.
- Không có chuyện cần thì đi làm gì. Mầy hay đi Thủ lắm sao?
- Không. Từ nhỏ tới giờ tôi đi có một lần, đi với má tôi. Bận đi thì giang xe bò, bận về đi xe hơi. Lâu lắm rồi, cách bốn năm nay, hồi đó tôi mới mười sáu tuổi.
- Thằng Lực nó khoe với họ, nó nói chị Ba sẽ gả mầy cho nó. Chị Ba có hứa với nó hay sao?
- Đâu mà có! Anh khùng đó, ai thèm gả.
Hai người nói chuyện tới đó, kế nghe phía cầu Đường Long có tiếng ồ ồ, rồi thấy có một chiếc xe hơi ngừng. Quế đứng ngó và nói:
- Xe ai mà vô tới trong nầy vậy kìa.
Ba người đàn ông ở trên xe leo xuống, rồi đi vô phía Quế với Tư Cam bón đậu, người đi trước mặc âu phục, bộ đàng hoàng còn hai người đi sau thì mặc đồ vắn, lại mỗi người đều có vác đồ trên vai Mấy người đi gần tới. Quế thấy lạ, nên sụp nón ngồi bón đậu, không dám ngó Người đi trước là một thanh niên chừng hăm lăm tuổi, mặt mày sáng rỡ, y phục gọn gàng, tới ngang đám đậu thì đứng lại chỉ nhà bà Ba Hạc, là mẹ của Quế, mà hỏi:
- Hai cô, không biết nhà nầy là nhà của ai vậy hả?
Quế cứ cúi mặt, không đáp. Thím Tư Cam đứng dậy nói:
- Nhà của bà Ba Hạc. Cậu hỏi chi vậy?
Người trai cười mà đáp:
- Năm trước đi bán trong nầy, tôi có ghé nhà bà Ba một lần. Lâu vô nên tôi quên, bởi vậy tôi muốn hỏi lại cho chắc đặng ghé thăm bà. Không biết có bà Ba ở nhà hay không?
- Có. Tôi mới thấy dạng chỉ ra sân hồi nãy.
- Cám ơn thím.
Người trai ấy đi lại nhà bà Ba Hạc, hai người kia cũng vác đồ đi theo sau. Quế đứng dậy hỏi Tư Cam:
- Ai mà quen với má tôi vậy kìa?
- Tao có biết đâu. Nói năm trước có ghé nhà mầy; nếu mầy không biết thì tao làm sao mà biết được.
- Tôi không nhớ.
- Có lẽ hồi người ta ghé, thì không có mầy ở nhà.
- Không biết chừng tại vậy... Bây giờ quá nửa chiều rồi. Họ vô đây rồi tối họ làm sao mà về.
- Chắc họ vô đặng tối họ đi bắn đèn.
- Đi bắn sao không thấy súng?
- À! Sao không có mang súng há? Đâu mầy về coi ai đó.
- Thôi về làm chi? Có má tôi ở nhà. Để lát nữa rồi tôi sẽ về hỏi coi ai đó cho biết.
- Người đó đẹp trai quá phải hôn mậy?
Quế chúm chím cười rồi bỏ đi qua liếp đậu khác không nói nữa.
Bà Ba Hạc đương ngồi gần miệng giếng, chăm chỉ rửa mớ khoai môn, đặng sáng mai thím Tư Cam đi chợ Bến Súc, bà gởi cho thím bán giùm. Thình lình con chó mực nằm trong cửa hực hực rồi tuông ra sân đứng sủa. Bà ngước mặt ngó ra, thì thấy một dọc ba người xăm xăm đi lại nhà bà, cả ba đều lạ hoắc, lại áo quần không giống người ở chốn nầy. Bà cầm củ khoai, vừa gọt rửa, vừa ngó trân, mái tóc điểm bạc gió thổi phất phơ, gương mặt thiệt thà nắng giọi sáng rỡ. Người trai đi trước, tuy còn đi ngoài rào, nhưng đã kêu mà hỏi:
- Bà Ba, bà mạnh giỏi hả bà Ba?
Bà Ba Hạc không biết là ai, nhưng nghe kêu “bà Ba” trúng thứ của bà thì bà đứng dậy mà đáp:
- Ờ mạnh giỏi.
Bà đáp mà bộ lơ lửng, tay cũng còn cầm một củ khoai. Ba người đi ngay lại cái giếng chỗ bà Ba Hạc đứng. Người trai đi trước ngó bà và cười và hỏi:
- Chắc bà quên tôi rồi hả?
- Ơ… Tôi không nhớ rồi a...
- Năm trước tôi theo mấy người vô kiếm bắn mển trong nầy, tôi có ghé nghỉ ở nhà bà đây bà quên sao?
- Thiệt tôi quên.
- Mấy năm rồi mà bà cũng vậy, không già hơn. Người ta nói ở chốn lâm viên thân thể khỏe khoắn nên lâu già, thiệt phải lắm. Vô đến đây tôi muốn ở luôn trong nầy.
- Ở trong nầy buồn chết, cậu ở sao được.
- Không. Vui lắm chớ, có buồn đâu bà. Đó, cu kêu đó. Nghe phải vui hôn? Tôi ưa quá. Chiều mát, nằm nghe tiếng cu kêu xa xa, trí khỏe khoắn không biết chừng nào. Nghe cu kêu, tôi muốn xin bà cho tôi ở đậu vài bữa chơi, được hôn bà Ba?
- Nhà tôi nghèo, không có chỗ ăn chỗ nằm, cậu ở sao được.
- Không hại gì. Bà cho tôi một tấm ván hoặc một cái chõng nhỏ đặng tối tôi ngủ thì đủ rồi. Tôi ở được mà, bà đừng ngại gì hết.
Bà Ba Hạc la chó rồi buông củ khoai vô rổ, và cười và hỏi:
- Cậu ở đây rồi lấy gì mà ăn?
- Xin bà đừng lo. Bà ăn thứ gì, thì tôi ăn được vậy chớ. Tôi lập thế gài cu đất, gài gà rừng bắt làm thịt ăn. Tháng nầy trời mưa, trong rừng thiếu gì nấm. Đi kiếm nấm mối, kiếm măng le đem về xào hoặc luộc mà ăn, ngon lắm mà! Bà đừng ngại, như kiếm đồ ăn không được thì tôi sai người ở với tôi ra chợ mua thịt cá về ăn.
- Có vậy thì được; ngặt nhà tôi xấu xa dơ dáy quá không xứng đáng chỗ cậu nằm; tôi ngại chỗ đó, chớ không phải tôi làm hiểm với cậu.
- Ở trong rừng đâu có nhà tốt bà. Tôi đã thèm đài cát, tôi muốn tìm thanh tịnh, nên tôi mới vô đây. Có lẽ nào tôi chê nhà bà hay sao mà bà ngại, bà Ba?
- Thôi, mời mấy cậu vô nhà, vô rồi cậu mới thấy nhà tôi, trống trước trống sau, thiệt tệ lắm cậu.
Bà Ba Hạc bỏ đống khoai mà vô nhà, ba người lạ đi theo, người trai đi trước ngó hai người đi sau mà cười. Nhà bà Ba thiệt là tệ, kêu chòi thì trúng hơn. Một cái chòi tranh ba căn xông: cột gỗ tuy lớn, song đẽo tròn chớ không bào lẵng; kèo và đòn tay đều bằng cây bằng lăng có bào sơ, ở rừng thiếu gì cây tốt mà phải dùng tạp mộc. Căn giữa bỏ trống, không có làm cửa. Hai căn bìa thì đóng song tròn. Còn phía sau với hai đầu xông thì đóng bằng cây sến, đóng hở đến thọc hai ngón tay vô được. Ở đầu xông phía tay mặt, thì có cất nối một mái giại cũng lợp tranh, để nấu ăn. Đồ đạc trong nhà coi không có chi lắm. Ở căn giữa, phía trong, có một bồ lúa lớn, lúa của bà Ba làm ruộng ngoài suối gặt hồi tháng chạp bây giờ còn hơn nửa bồ. Phía ngoài thì để một cái bàn dài, hai bên có để chân ngựa đặng ngồi, chớ không có ghế.
Căn xông phía trái, thì ở ngoài, kế song, có lót một cái chõng, còn ở trong có lót một bộ ván gõ dày cui mà không dồi láng. Ván với chõng không lót sát vách xông, bỏ trống một khoảng để dựng cuốc, rựa, búa, cày, cần câu ở trên lại có móc mấy bó bố khô của bà Ba nhổ, đập, phơi hôm tháng trước để dành đánh võng mà bán. Còn căn bên phía tay mặt, khít giại nấu ăn, thì ở trong có một cái giường để cho mẹ con bà Ba ngủ, ở ngoài có úp một cối giã gạo, dựa vách có dựng hai cái chày. Trên cái bàn dài ở giữa thì tộ đá, bình tích xanh, rổ đựng trầu cau, với một trái mít, để nghinh ngang, không có thứ lớp. Trên ván, trên chõng cũng vậy, thúng đậu xanh để một bên tĩn nước mắm, bao trà huế nằm chình ình trên mớ khoai từ.
Dắt khách bước vô nhà, bà Ba day lại nói:
- Mấy cậu thấy chưa? Tôi nói nhà tôi lôi thôi lắm.
Người trai ngó vòng trong nhà rồi cười mà đáp:
- Ở trong rừng thì nhà như vậy, có lôi thôi chi đâu. Tôi ở được mà. Xin bà làm ơn cho tôi ở đậu đầu trên đây; có bộ ván với cái chõng nầy thì thiếu gì chỗ nghỉ.
Bà Ba nói:
- Cậu muốn sao cũng được. Để tôi dọn đồ cho trống đặng trải chiếu mà nằm.
Hai người vác đồ đi theo người trai nãy giờ không nói chi hết, bây giờ mới để va ly và gói xuống cái chõng. Chừng thấy bà Ba rinh thúng đậu thì hai người áp lại giành mà dọn dẹp, không để cho bà làm.
Người trai trở ra sân, đứng nhắm tứ hướng, rồi đi vòng chung quanh nhà, đi lại coi cái nhà trống để nhốt bò và cất xe, trở qua coi vườn mít gồm trên hai chục cây, cây nào cũng có trái đeo lòng thòng, trái nhỏ chen với trái lớn, rồi đi thẳng vô mé rừng, đứng dòm đường xe bò, hai bên chồi đơm rậm rạp. Chừng trở vô nhà, người trai hỏi bà Ba:
- Mé bên nây thấy có đường xe bò, đường đó đi đâu vậy bà Ba?
- Đường đó ra đụng đường Kiểm Lâm phân ranh rừng cấm. Đường Kiểm Lâm ở từ ngoài chợ vô đây rồi đi thẳng vô Bào Đế có ngã vô Cà Tong, có ngã qua Thị Tính, qua Bến Cát, đi đâu cũng được hết, đi xa lắm.
- Để rồi tôi đi ruồng trong đó coi rừng chơi. Có cọp hôn bà Ba?
- Không. Ở đây có cọp hùm gì đâu. Nai hưu bị họ bắn quá nên bây giờ cũng ít.
Người trai thấy hai người dọn quét ván chõng xong rồi mới nói:
- Hai Phú coi dọn đồ nghe hôn; còn Năm Quí đi theo tôi chơi một chút.
Vừa trở ra sân, người trai gặp con Quế ở đám đậu đi về móc cái nón trên cánh tay. Trong nhà bà Ba kêu nói:
- Còn mấy củ khoai con rửa hết đi con, rửa đặng mai thím Tư đi chợ gởi cho thím bán.
Người trai đứng ngó trân con Quế, tuy quần áo lôi thôi, tay chơn bùn lấm, nhưng mà nước da trắng nõn, mái tóc đen huyền, mặt mày tươi cười, tướng mạo dong dảy, nhứt là cái miệng có duyên dị thường, không cười mà như cười, môi đỏ tợ thoa son, hai hàm răng trắng trong lại nhỏ xíu. Thiệt là một đóa hoa rừng đương nở trong xóm Đường Long, đóa hoa không cần tay người săn sóc mà rất xinh tươi đẹp đẽ.
Người trai ngó mê mẩn rồi gật đầu nói:
- Cô em in là hồi nãy ngồi bón đậu đàng kia mà. Con gái của bà phải hôn bà Ba?
- Phải. Con của tôi. Tôi có một mình con Quế đó.
Quế chúm chím cười đi lại gần miệng giếng ngồi rửa khoai, không ngó khách, mà cũng không nói chi hết. Người trai dắt người kêu tên Quí hồi nãy mà đi lại đường xe bò, rồi bị cây bao phủ nên khuất dạng.
Quế rửa riết khoai rồi hốt bỏ hết vô thúng bưng đi vô nhà, đặng lo nhúm lửa nấu cơm chiều.
Bà Ba hỏi người kêu là Phú hồi nãy:
- Cậu trai đó là ai, đi vô trong nầy làm chi mà xin ở đậu vậy cậu?
- Cậu Sáu đó đa bà. Con của ông Hội đồng ở trên Châu Đốc, sang trọng giàu có lắm. Cậu Sáu tử tế hết sức, để rồi bà coi.
- Hứ! Giàu có sang trọng thì ta ở nhà chơi phải sướng hơn, vô rừng làm chi cho cực khổ?
- Ấy tại tánh cậu Sáu ưa thanh tịnh, cậu không muốn ở mấy chỗ phiền ba. Cậu còn học, lúc nầy cậu mệt nên ông bà biểu cậu nghỉ học để đi hứng gió ít ngày. Ở nhà thì cậu nói cậu đi Long Hải, mà chừng lên tới Sài Gòn thì cậu lại đi quẹo lên đây, cậu nói đi vô rừng kiếm chỗ thanh tịnh mà nghỉ mới khỏe. Cậu Sáu rộng rãi, lại biết thương con nhà nghèo. Bà cho cậu ở đậu, cậu sẽ đền ơn cho bà xứng đáng. Chắc chắn như vậy.
- Ở thì ở, có gì đâu mà đền ơn. Cậu Sáu chưa có vợ con hay sao, nên đi chơi một mình như vậy?
- Thưa, cậu còn học mà. Sách vở của cậu cả đống trong va ly kia, đi đâu cậu cũng bắt vác theo, nặng hết sức. Cậu ham học lắm, cậu nói đọc sách vui hơn là có vợ.
- Con nhà giàu, lại trộng tuổi rồi, mà chưa cưới vợ thiệt là kỳ. Năm nay cậu Sáu được ba mươi chưa?
- Trời ơi, đâu mà dữ vậy? Cậu mới hăm lăm tuổi.
- Hai mươi lăm tuổi, cưới vợ vừa rồi, còn học nữa làm chi?
- Thiếu gì nhà sang trọng muốn gả con cho cậu; tại cậu ham học nên cậu không chịu cưới vợ chớ.
- Vợ chồng phải có duyên nợ thì mới hiệp nhau được. Chắc là cậu chưa gặp duyên nợ, nên trời khiến lòng cậu chưa muốn vợ.
- Bà nói đó có lẽ phải a, bà Ba.
- Dữ quá, đi chơi mà cậu Sáu đem tới hai người theo vác đồ. Ở đây tôi trồng tỉa, tôi kiếm mướn không được ai hết.
- Không, bà. Có một mình tôi theo hầu cậu Sáu thôi. Anh Quí đó là người Châu Đốc, ảnh lên Thủ ở làm ăn. Ảnh gặp cậu Sáu ảnh mừng quá, ảnh xin đưa cậu đây rồi ảnh kiếm chỗ làm ăn. Ảnh biết tánh cậu Sáu rộng rãi, ảnh lập công đặng kiếm ít đồng bạc vậy mà.
Con Quế nấu cơm, mà nó lóng tai nghe đủ các lời Phú nói với mẹ nó. Chừng cơm cạn, nó bước lên nhà trên hỏi nhỏ mẹ nó coi làm gà hay không. Bà Ba cười và nói lớn:
- Không làm gà thì có gì đâu cho cậu Sáu ăn cơm chiều. Cha chả, mà gà đi ăn minh mông, bây giờ làm sao rượt bắt cho được.
Phú lật đật can:
- Khỏi làm gà, bà Ba à. Trong va ly có đồ ăn. Hồi trưa cậu Sáu có biểu tôi đi mua cá mòi hộp, bánh mì bộn bộn. Tôi cũng có mấy hộp chao nữa. Chiều nay ăn sơ sịa, rồi mai coi có ai đi chợ sẽ gởi mua thịt cá để dành ăn, hoặc tôi đi mua cũng được.
Quế chen vô nói:
- Khuya nầy có thím Tư Cam đi chợ.
- Thím Tư đó ở đâu? Làm ơn chỉ giùm đặng tôi gởi mua đồ.
- Khuya thím lại đây mà, lại lấy khoai của má tôi gởi bán.
- Vậy thì tiện lắm. Chớ chi nhà có xe máy, mỗi bữa tôi mượn cỡi đi chợ lẹ quá.
- Xe máy nghe nói bây giờ mắc lắm, làm sao mà sắm cho nổi. Hồi nãy cậu Sáu đi xe hơi mà.
- Ừ, xe hơi của người quen với cậu ở dưới Thủ, đưa giùm cậu lên đây rồi xe về.
- Hồi nãy tôi thấy còn đậu ngoài cầu.
- Bộ khi sốp-phơ đậu nghỉ máy một chút chớ không phải ở luôn trên nầy đâu.
Mặt trời gần lặn, người trai mà Phú kêu bằng cậu Sáu đó trở về, cậu thủng thẳng bước vô sân, về một mình, không có Quí đi theo. Con chó mực đã quen rồi, nên nó nằm mà ngó, không sủa nữa. Cậu Sáu vô cửa, bà Ba hỏi:
- Ủa, còn cậu kia đâu?
- Quí về rồi, sẵn có xe đậu ở ngoài cầu, nên ảnh theo xe ra Bến Súc. Nãy giờ tôi đi theo đường xe bò mà ra đường Kiểm Lâm coi chơi. Tuy rừng không có cây lớn, nhưng có cảnh thú trù mật thanh tịnh tôi chịu quá. Ở đây buổi sáng và buổi chiều trời mát đi chơi trong rừng chắc nhàn thú nực nồng khỏe khoắn lắm.
- Ở rừng thì êm ấm hơn ở chợ.
- Bởi vậy tôi thích ở rừng hơn.
- 1 -
Tiến >>
Nguồn: HoBieuChanhcom
Được bạn: NHDT đưa lên
vào ngày: 11 tháng 6 năm 2007