Chùm truyện thần tiên của Akutagawa
dịch giả: nguyễn nam trân
nguyên tác: akutagawa ryuunosuke
Dẫn Nhập
Trong 10 năm ngắn ngủi của đời sáng tác, Akutagawa có dành thời gian để viết một số truyện cho nhi đồng và đăng trong Tạp chí văn học Akai Tori (Con Chim Đỏ, 1918-29, 1931-36) do Suzuki Miekichi (1882-1936) chủ trương.Tuy nhiên, vì là một nhà văn duy lý tính, các truyện gọi là thần tiên của Akutagawa thường ẩn tàng những suy nghĩ sâu xa, hơi khó hiểu đối với độc giả thiếu nhi.
Chùm truyện dưới đây xoay quanh các nhân vật thần thoại: tiên ông, tiên cô (tiên nữ), đạo sĩ... Chúng cùng một thể loại với những truyện có tính ngụ ngôn khác như Đỗ Tử Xuân (Toshishun, 1920), Sợi Tơ Nhện (Kumo no Ito, 1918) và Tu Tiên (Sennin, 1922)...Cả ba đều đã được dịch ra Việt ngữ từ nhiều năm về trước. Người dịch tác phẩm đầu là một nhà văn ở Hà Nội mà người viết không nhớ quí danh, người dịch hai tác phẩm sau là anh Đinh Văn Phước (Tôkyô), chủ biên Trinh Tiết, tuyển tập truyện ngắn của Akutagawa (Nxb Văn Học, Hà Nội, 2006).
TIÊN CÔ(Sennyo, 1927) (1) Ngày xưa bên Tàu, có chàng thư sinh sống đơn chiếc ở miền quê. Vì chuyện xảy ra bên Tàu nên có lẽ chàng ta phải là một kẻ chỉ biết ngồi bên cửa sổ, đọc sách dưới vòm hoa đào đang độ nở.Thế rồi, cạnh nhà chàng có một nàng con gái, lại đẹp nữa, cũng sống một mình. Dĩ nhiên thư sinh xem sự hiện diện của cô nàng nơi đây là một điều kỳ quái bởi vì không ai biết mảy may về thân thế cũng như sinh hoạt của nàng. Một buổi chiều xuân lặng gió, khi thư sinh bước ra ngoài cửa, bỗng nghe tiếng nàng con gái đang mắng mỏ ai. Giọng của nàng rõ mồn một, nhất là khi ấy chỉ có mỗi tiếng gà eo óc vọng lại từ khu vườn nào đó.Thư sinh muốn xem thử chuyện gì nên mới đi về hướng nhà nàng. Anh chợt thấy cô mình đang trừng mi quắc mắt, kéo một lão tiều phu tóc tai trắng xóa ra và đánh đập túi bụi. Hơn thế nữa, lão tiều kia cứ phủ phục van lơn, xin lỗi xin phải huyên thiên và mặt mày lại đầm đìa nước mắt. -Có chuyện gì thế hở, cô? Sao cô nỡ lòng nào đánh đập một người già cả như cụ đây? Thư sinh chận tay cô gái lại và buông lời trách móc: -Trước tiên cụ là một người lớn tuổi hơn mà cô lại đánh đập đã là chuyện không phải đạo. -Lớn gì mà lớn. Tên tiều phu này tuổi còn nhỏ thua ta. -Thôi, cô ơi, đừng có đùa! -Không, ta không đùa đâu.Ta là mẹ tên tiều phu này mà. Thư sinh sửng sốt, bất giác nhìn chầm chập vào mặt cô gái. Lúc ấy, nàng mới buông tha lão tiều. Thư sinh thấy nàng là một mỹ nhân, đúng hơn là một cô gái có một gương mặt mạnh khỏe, hồng hào. Nàng nghiêm trang giải thích cho thư sinh hiểu: -Ông không biết ta đã khốn khổ vì thằng con này đến mức độ nào. Thế mà nó chẳng bao giờ chịu nghe lời. Cứ như vậy rồi hư hỏng tấm thân, để ngày tháng trôi qua, già mất lúc nào không biết (2). -Nhưng lão tiều này chẳng đến 70 rồi là gì, hở cô. Nếu cô bảo mình là mẹ của cụ, vậy năm nay cô bao nhiêu thế? -Ta à? Năm nay ta đã 3.600 tuổi rồi. Nghe xong câu nói, thư sinh mới vỡ lẽ ra rằng cô hàng xóm xinh đẹp xưa nay của anh là một tiên cô. Thế nhưng không biết tại sao mà ngay lúc đó, hình bóng oai nghiêm của nàng tiên bỗng tan biến đi đâu mất. Trong vạt nắng lung linh của buổi chiều xuân đẹp, chỉ còn trơ mỗi cái bóng của lão tiều phu. Tháng 2 năm Shôwa thứ 2 (1927)
|
ÔNG TIÊN (Sennin) Cái "ông tiên" này sống ở thị trấn O. bên hồ Biwa và là một vị thẩm phán. Ông có thú vui hơn hẳn mọi sự là sưu tập những quả bầu khô. Do đó, trong ngôi nhà ông trọ, ngoài việc các ngăn tủ tầng trệt tầng hai đều chất đầy quả bầu là một chuyện tự nhiên, trên kèo lẫn cột, đâu đâu cũng thấy lủng lẳng những bầu với bầu. Như thế được 3 năm, "ông tiên" được đổi nhiệm sở từ thị trấn O. về thị trấn H. Đồ đạc gia tài mang theo hoàn toàn không gặp khó khăn nhưng ông không sao tìm ra cách chuyển vận trên 250 quả bầu mình tom góp được. -Chở bằng xe hỏa hay xe ngựa, chắc khó lòng đến nơi an toàn! "Ông tiên" sau khi đã suy nghĩ hết cách mới đem mớ bầu sắp lại và cột thành bè rồi thả xuống hồ Biwa. Ở chính giữa cái bè nổi kết bằng những quả bầu khô này dĩ nhiên là có thân cây liễu của vị tăng vân du (Yugyô-yanagi) (1) mà ông đã "đào lên và bứng lấy mang về". May quá, hôm đó trời trong xanh và vắng gió. Ông mới leo lên chiếc thuyền kết bằng những quả bầu đó, một mình lặng lẽ chèo chống và qua đến bên kia hồ. Các ông tiên đời xưa ai nấy đều đạt được đạo bất lão trường sinh. Thế nhưng chỉ có "ông tiên" này là phải già đi như mọi người bình thường. Cuối cùng, ông còn mắc thêm chứng ung thư bao tử nữa chứ. Vậy mà nghe thiên hạ kể rằng ngay cái đêm trước khi chết, ông còn vươn hai cánh tay gầy guộc lên và hô to: "Chắc chắn ngày mai cuộc đời sẽ tươi sáng hơn! Vạn tuế!". Bản di chúc ông ta viết còn kỹ càng chặt chẽ hơn những bản di chúc của bọn người phàm chưa thoát nỗi vòng sinh tử. Thế nhưng không thấy ai trong gia quyến chịu làm theo lời ông dặn dò đến nơi đến chốn. Chẳng những thế, khi nhìn thấy mấy quả bầu này, bọn trai trẻ chả có một người nào chịu khó học hỏi trường phái Nam họa (2) của ông. Do đó, con số trên hai trăm quả bầu ông từng yêu dấu kia, chưa kịp đến ngày giỗ lần thứ nhất của ông, không biết đã trôi về đâu và tự lúc nào (3).
|
MỘNG KÊ VÀNG(Kôryô no yume, 1918) Lư sinh (1) nghĩ mình đã chết.Trước mặt anh, tất cả tối sầm lại, tiếng than khóc sụt sùi của lũ con cháu mỗi lúc một xa dần rồi tan đi đâu mất. Bàn chân anh như có một quả cân nặng và vô hình kéo xuống, xuống mãi đến chìm lĩm....Thì lúc đó, chợt như bắt gặp một điều gì khiếp sợ, anh vùng mở mắt thật to. Lúc đó, ở bên cạnh, lão đạo sĩ tên gọi là Lữ Ông (2) vẫn ngồi nguyên đấy. Hình như nồi kê mà nhà chủ đang nấu vẫn chưa chín tới. Lư sinh bèn nhấc đầu mình lên khỏi cái gối bằng sứ, vừa dụi mắt vừa ngáp một cái thật dài. Buổi chiều mùa thu ở thành phố Hàm Đan (3) này, dù những tia nắng chiều hãy còn đọng trên những ngọn cây trụi lá, vẫn thấy gây gây lạnh. -Nhà ngươi tỉnh dậy rồi à? Lữ Ông hỏi. Hai mép đạo sĩ đầy những râu nên Lư sinh chẳng hiểu ông ta có cố tình nén một nụ cười hay không. -Vâng. -Ngươi vừa nằm chiêm bao đấy hử? -Vâng, có. -Thế trong giấc mơ, ngươi thấy những gì nào? -Đó là một giấc chiêm bao dài lắm cụ ạ. Trước tiên, cháu được nhà họ Thôi đất Thanh Hà (4) gả con gái cho. Cháu nhớ đó là một cô gái xinh đẹp ngoan hiền. Sang năm sau, cháu đổ khoa Tiến Sĩ và được bổ làm chức Úy ở Vị Nam (5). Thế rồi cháu lần lượt trải qua những chức vụ như Giám Sát Ngự Sử, Khởi Cư Xá Nhân Tri Chế Cáo (6) rồi thăng tiến vù vù lên Trung Thư Môn Hạ Bình Chương Sự (7). Vì mắc phải lời sàm báng, giữa khi nguy khốn sắp bị giết thì thoát được, chỉ phải đày xuống vùng Hoan Châu (8). Cháu ở nơi đó ít nhất cũng đến năm sáu năm. Rốt cuộc, lời dèm pha được rửa sạch, cháu lại được về triều lãnh chức Trung Thư Lệnh và phong tước Yên Quốc Công (9). Tuy nhiên, lúc đó cháu đã già mất rồi. Có năm người con và một bầy cháu hàng chục đứa. -Rồi chuyện gì đã xảy tiếp? -Cháu chết. Nhớ lúc đó mình đã trên 80 tuổi. Lữ Ông ra chiều đắc ý, tay mơn man chòm râu: -Vinh nhục, cùng thông, vận may, vận rủi...nhà ngươi đều đã nếm hết một lượt. Thế là tốt lắm rồi. Cuộc đời này nào khác chi những giấc mộng mà ngươi trải qua đâu. Nay lòng ngươi đã nguội bớt sự cuồng nhiệt và đeo đẳng đối với cuộc đời hay chưa? Nếu hiểu được cái lý được mất và lẽ tử sinh, ngươi sẽ thấy cuộc đời này hết sức là tẻ nhạt. Đồng ý không? Lư Sinh tuy nghe đạo sĩ nói nhưng trong lòng không phục. Để xác nhận thái độ của người đối thoại, anh ngẩng khuôn mặt trẻ trung với đôi mắt sáng long lanh, nhìn đạo sĩ: -Vì nó chỉ là một giấc mơ thôi nên cháu càng muốn sống cho bằng được. Một khi đã bước ra khỏi giấc mơ kia thì có lẽ giấc mơ hiện thời của cháu cũng phải chấm dứt. Cho đến lúc cái giờ ấy điểm, cháu muốn sống cuộc đời mà cháu dám nói là trong đó, mình đã được sống một cách thực sự. Cụ có cho là phải hay không? Mặt của Lữ Ông sầm lại, không trả lời có mà cũng chẳng trả lời không. (Tháng 10 năm 1918) Dịch ngày 4 tháng 9 năm 2018 (NNT)
|
ÔNG TIÊN VÀ NGƯỜI DIỄN TRÒ
(Sennin, 1915)
Thượng
Không biết truyện xảy ra hồi nào. Chỉ biết lúc đó ở miền bắc Chi Na (Trung Quốc), có một anh chàng tên Lý Tiểu Nhị. Anh ta lặn lội từ vùng này qua vùng khác diễn trò ngoài trời. Anh có nuôi mấy con chuột để đóng kịch. Gia tài của người diễn trò không có gì ngoài một túi vải chứa bầy chuột, cái rương nhỏ đựng y trang và mặt nạ dành cho chúng cũng như một sạp gỗ mà anh sử dụng như cái sân khấu con con.
Hôm nào trời đẹp, anh ra ngoài ngã tư đường, nơi nhiều người qua lại. Trước tiên, anh kéo cái sạp gỗ dùng làm sân khấu lên vai, gõ vào mặt trống và hát dăm câu chiêu khách. Chỗ thị tứ thường lắm kẻ hiếu kỳ cho nên từ người lớn đến trẻ em, khi nghe lời mời mọc của anh, không ai mà không dừng bước. Khi mọi người đã đứng thành vòng rào, Lý mới bắt đầu đem một con chuột ra, mặc quần áo và mang mặt nạ cho rồi thả theo con đường hông (kimonmichi) (1) để nó leo lên sân khấu. Con chuột đã thành thạo nên đi đứng vững vàng trên ấy. Nó quẩy hai ba lần cái đuôi bóng như giải tơ trên mông rồi trong chốc lát, tựa vào hai chân sau mà đưa thẳng người lên. Từ bên trong bộ quần áo diễn trò làm bằng lụa, gan hai bàn chân trước của nó hiện ra đỏ hỏn. Con chuột này đang đóng vai trò gọi là giáo đầu (sesshi) (2) của một vở tạp kịch (3).
Trong đám người đi xem, trước tiên, chỉ có lũ con nít là thích thú, vỗ tay tán thưởng. Đám người lớn chưa dễ gì bày tỏ sự quan tâm, chẳng những thế, họ còn làm ngơ, kẻ phì phà ống điếu, kẻ đưa tay ngắt lông mũi, đưa mắt nhìn diễn viên chuột đang chạy lòng vòng trên sân khấu với con mắt khinh thị. Thế nhưng một lúc sau, khi tuồng đã đi vào màn chính, với sự xuất hiện của con chuột đóng vai đào chánh (seitan) trong trang phục bằng gấm và anh chàng kép độc (jô) đeo mặt nạ đen chạy túa ra từ con đường bên hông sân khấu, theo điệu hát của Lý, bắt đầu bay, nhảy rộn rịp theo đúng bản tuồng (haku) và làm đủ thứ trò thì người đứng xem thấy mình không còn cớ gì để giữ mãi vẻ lạnh nhạt nữa. Trong đám đông đã bắt đầu nghe thấy có tiếng cổ vũ kiểu "Được lắm! Hay quá!" (Sôshidai). Lý Tiểu Nhị cũng nương theo đà, phấn khởi gõ trống liên hồi, khéo léo điều khiển lũ chuột diễn trò. Thế rồi đến khi Lý hát mấy câu:
"Trâm hắc giang, Minh Phi thanh chủng hận,Nại u mộng, cô nhạn Hán Cung Thu" (4)
để thông báo nhan đề vở tuồng vừa diễn thì trong cái khay đặt trước sân khấu, đã thấy một mớ tiền đồng chất cao như núi.......
Tuy nhiên, làm ăn buôn bán kiểu này không phải dễ, tiền có vào cũng chả thấm vào đâu. Trước nhất là được mươi hôm thì thời tiết xấu đi, chuyện kiếm ăn trở thành khó khăn. Mùa hè thì từ khi lúa mạch chín, mưa lại kéo về, những bộ trang phục và mặt nạ nhỏ bé kia đã bị mốc xỉn không biết tự hồi nào. Mùa đông thì gió thổi tuyết rơi, hầu như không cách chi trình diễn được. Vào những hôm như thế, Lý chỉ còn có cách thu người vào trong một xó u ám của nhà trọ, đánh bạn với lũ chuột cho qua thời giờ, mỏi mòn chờ cái ngày được bận bịu với công việc như xưa. Lũ chuột có tất cả 5 con, chúng đều mang tên cha, mẹ, vợ cũng như hai đứa con của Lý, giờ đây không biết đã trôi giạt phương nào. Chúng lần lượt từ cái bị bò ra, co ro bước những bước rụt rè trong căn phòng không có lấy một ánh lửa, rồi trèo từ mũi giày leo lên đầu gối Lý, diễn tập cái trò xiếc hiểm nghèo của chúng. Mấy con mắt đen láy như những hạt thủy tinh (Nankindama) thao láo dán vào mặt chủ nhân khiến cho một con người đã quen với cái đắng cay của nhân tình thế cố như Lý nhiều khi cũng muốn rơi nước mắt. Nói là nói thế chứ thực tình thì nỗi lo lắng cho cuộc sống ngày mai bấp bênh và sự cố gắng đè nén nỗi lo ấy cũng đủ làm cho lòng Lý tan nát, cần chi đến hình ảnh đáng thương của lũ chuột đập vào mắt mình.
Hơn nữa, dạo này có lẽ vì tuổi tác, cơ thể Lý có gì không ổn nên anh đâm ra lơ là đến chuyện kiếm ăn. Mỗi khi phải hát những tiết điệu dài, Lý cảm thấy mình không còn đủ hơi sức. Cổ họng Lý cũng không thông suốt như ngày xưa nữa. Kiểu này thì không biết lúc nào, bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra. Nỗi bất an ấy cũng như mùa đông của miền Hoa Bắc đã chắn lối không cho những tia sáng mặt trời và không khí đi vào trong lồng ngực của người diễn trò thảm não kia. Cuối cùng thì ngay cả ước vọng sống như một người bình thường cũng đã khô cạn đi và Lý chẳng còn thiết tha gì đến nó nữa. Cớ sao con người dù khổ đau mà vẫn cứ phải tiếp tục sống? Dĩ nhiên, Lý chưa bao giờ thử tự đặt câu hỏi như thế nhưng anh có lần nghĩ rằng đau khổ đến với mình quả là điều không công bằng. Thế rồi, tuy không biết ai là người đã tạo ra cảnh khổ này nhưng trong thâm tâm, Lý cảm thấy uất hận. Anh không chờ đợi một điều gì cả nhưng trong người anh tiềm tàng một tình cảm phản kháng. Nguyên nhân của nó có thể là sự căm ghét vốn đã nằm trong cõi vô thức của anh chăng?
Tuy vậy, Lý cũng như hầu hết những con người sinh ra ở phương Đông, khi đứng trước định mệnh, thường không bao giờ chịu qui hàng. Suốt một ngày nằm trong gian phòng trọ, bụng đói meo, có lần Lý đã hướng về 5 con chuột nhắt và nói với chúng: "Kiên nhẫn một chút nghe các con. Bọn mi cũng đang chịu đói, chịu lạnh như ta. Dù sao, nên biết rằng đã sống ở đời thì đói, lạnh là cái chuyện đương nhiên. Với lại, con người có biết bao kẻ còn khổ sở hơn cả loài chuột các ngươi nữa đấy....
Trung
Bầu trời nặng mây báo tuyết không biết từ lúc nào đã rải xuống những trận mưa trộn lẫn hạt nước đá. Đó là một buổi xế trưa lạnh lẽo mà đúng như người ta mô tả, khách bộ hành chân ngập trong bùn bước đi trên con đường chật hẹp. Nhằm lúc đó, Lý Tiểu Nhị vừa diễn trò về, cũng như thường lệ, vai quảy cái túi đựng chuột, buồn nỗi quên mất cả dù, toàn thân ướt át, đang bước trên con đường không bóng người qua ở một nơi xa thị trấn. Bất đồ Lý thấy bên vệ đường có một ngôi miếu nhỏ. Vừa vặn lúc đó, mưa càng nặng hạt. Lý thu người lại và dấn bước. Trước đầu mũi anh, những giọt nước thi nhau chảy xuống. Nước cũng thấm cả vào bên trong cổ áo. Vì trước mặt trời bắt đầu sập tối nên khi thấy cái miếu, Lý vội vàng chạy vào dưới hàng hiên rồi đưa tay lên lau những giọt mưa còn bám trên mặt và vắt hết nước ống tay áo. Cuối cùng, khi định thần lại được, Lý mới ngẩng đầu lên nhìn bức hoành phi thì mới thấy có viết ba chữ "Sơn Thần Miếu".
Leo được hai ba bước lên khỏi bậc thang bằng đá ở lối vào, Lý thấy cánh cửa mở toang nên ghé mắt nhìn vào. Bên trong miếu còn chật chội hơn điều Lý dự tưởng. Chính điện có bày một bức tượng Kim Giáp Thần (Thần Giáp Vàng), mình mẩy đã bị màng nhện che phủ, đang đứng bâng quơ như đợi buổi chiều về. Tay phải nó là một bức tượng Phán Quan mà đầu đã bị một bàn tay nghịch ngợm nào đó lấy đi đâu mất. Tay trái là một bức tượng Tiểu Quỉ, mặt xanh tóc đỏ, hình thù thật kinh hãi nhưng tiếc thay, mũi cũng đã tróc đi. Trước mặt mấy pho tượng là một mặt sàn đầy bụi bặm, bên trên chồng chất những đống gì giống như vàng mã (shisen). Lý đoán biết thế bởi vì trong bóng tối lù mù, những thếp giấy vàng giấy bạc đôi khi ánh lên mơ hồ.
Vì bên trong miếu lúc đó Lý chỉ thấy được chừng đó nên anh mới hướng cái nhìn của mình ra phía ngoài. Thì vừa đúng lúc, một bóng người chợt xuất hiện từ nơi mấy bó vàng mã đang chất đống. Thực ra con người ấy đã nằm phục ở đấy từ trước nhưng mãi bây giờ Lý mới nhận ra sau khi mắt đã làm quen với bóng tối. Thế nhưng đối với anh, con người đó như bất chợt từ đống vàng mã bước ra làm anh phải giật mình vì kinh hãi. Làm bộ nửa như nhìn thấy nửa như không, anh đưa mắt dò xét nhân vật.
Người đó là một lão già tướng khó coi. Ông ta mặc một bộ áo đạo sĩ đầy cáu ghét, mặt mày đầu tóc giống như tổ chim (Lý chợt nghĩ có lẽ đây là một đạo sĩ hành khất cũng không chừng). Lão ta đang vươn tay ra ôm hai cái đầu gối khẳng khiu. Đầu gối ấy lại đỡ lấy chòm râu bạc buông xuống từ cằm. Tuy mắt lão đang mở nhưng không biết đang nhìn về hướng nào. Dù sao Lý vẫn biết lão vừa gặp phải trận mưa vì nhận ra vai áo đạo sĩ kia cũng ướt đẫm.
Khi nhìn thấy ông lão, Lý nghĩ mình phải lên tiếng để nói một câu gì đó. Một trong những lý do là anh cảm thấy có sự đồng tình với lão già mình mẩy đang ướt như chuột lột. Lý do khác là một người sành việc đời như anh thì khi gặp trường hợp như thế này, đã có thói quen lên tiếng trước. Hơn nữa, có thể vì nhân đấy, anh muốn làm một cử chỉ hòng cố gắng thoát khỏi cái tâm trạng não nề mình có tự nãy giờ. Lúc đó, Lý mới bảo:
-Thời tiết khó chịu quá, cụ nhỉ?
-Ờ, hờ!
Vẫn ngồi bó gối, ông lão lúc ấy mới nhấc quai hàm, lần đầu tiên nhìn về hướng Lý. Lão ngẩng cái mũi đang khoằm xuống như mỏ chim của mình lên, nhếch qua nhếch lại hai ba bận và nhíu mày để trông cho rõ.
-Người làm nghề như cháu, gặp mưa là không gì chán hơn.
-Hả? Thế cậu làm nghề gì?
-Cháu nuôi ba con chuột để diễn trò ạ.
-Nghề hiếm có đấy chứ!
Cứ như thế mà giữa hai người đã bắt đầu có một sự trao đổi qua câu chuyện. Ông lão bước khỏi đống vàng mã, cùng với Lý đến ngồi xuống bên bậc đá nơi cửa ra vào. Bấy giờ, Lý mới nhận được rõ ràng dung mạo của ông lão. Ông còn gầy guộc hơn cả hồi nãy khi nhìn trong bóng tối. Tuy vậy, vì nghĩ mình đã tìm ra được một đối tượng để tâm sự cho nên Lý cứ thế mà đặt cái đãy đựng chuột xuống trên bậc đá, nói chuyện ngang tay với ông lão về đủ thứ đề tài.
Có vẻ là người kiệm lời, đạo sĩ chỉ trả lời chậm rãi kiểu "À ra thế!", "Vậy sao?" và cùng lúc, há cái miệng đã khuyết hết răng ra như muốn hớp lấy không khí. Mỗi lần vận động như vậy, cái hàm với chòm râu mà gốc đã ngả một màu vàng bẩn thỉu lại đưa lên hạ xuống...Nói chung, dáng dấp ông lão hết sức hom hem và thê thảm.
Lý nghĩ thầm, so với lão đạo sĩ, trên mọi phương diện, cuộc sống của mình hãy còn may mắn hơn nhiều. Nhận thức này dĩ nhiên đã làm cho Lý khoan khoái hơn nhưng cùng lúc, việc thấy mình là người có nhiều lợi thế so với đạo sĩ hành khất chỉ khiến cho Lý mang mặc cảm tội lỗi đối với ông ta. Do đó, Lý bèn đổi đề tài câu chuyện, kể từ lúc ấy, anh chỉ nói đến những nỗi khổ trong cuộc sống của mình và còn cố tình tô vẽ thêm cho thật bi đát. Mặc cảm đối với ông lão đã hoàn toàn trở thành một mối dằn vặt cho Lý:
-Vâng, chuyện của cháu thật đáng rớt nước mắt. Bao nhiêu lần cả ngày không có hột cơm vào bụng. Gần đây, suy nghĩ mới thấy thấm thía: Mình nuôi chuột bắt chúng làm việc hòng kiếm cái ăn nhưng cũng biết đâu chính lũ chuột kia đang bắt mình diễn trò để nuôi lấy chúng. Thực tế là như thế đó cụ!
Sự bực tức đã làm cho Lý phải thở ra giọng điệu như vậy nhưng ông lão trước sau chẳng nói chẳng rằng. Điều đó làm cho thần kinh của Lý không sao chịu đựng thêm được nữa. (Ông ơi, chả lẽ ông không đếm xỉa đến lời tôi nói hay sao. Phải chi tôi cứ câm họng, không thốt ra những câu thừa thãi!). Trong lòng, Lý thầm trách mình như vậy. Xong, anh đưa mắt liếc nhìn thái độ của lão già. Thế nhưng, đạo sĩ lại đưa mắt nhìn về hướng khác. Ông ta đang ngắm mấy cành liễu khô ngoài miếu đang bị mưa gió táp, một bàn tay cứ đưa lên gãi tóc. Tuy mắt ông ta không nhìn Lý nhưng Lý cho rằng lão già đã thấy rõ ruột gan của mình và không thèm đối đáp. Nghĩ đến đấy, Lý không khỏi đôi chút khó chịu nhưng anh còn bực mình hơn vì ông cụ này không thấy được sự đồng tình của mình với hoàn cảnh của ông. Anh bèn đổi đề tài sang chuyện năm nay nạn cào cào xâm hại mùa màng. Từ tai họa xảy đến cho nhà nông ở địa phương này, anh lái qua cảnh khốn cùng của nhà nông nói chung và nghĩ rằng như thế sẽ chứng minh được lý do nào đã gây ra hoàn cảnh bi đát hiện giờ của ông lão.
Thế nhưng giữa khi Lý mới giải bày được nửa chừng, đạo sĩ đã quay mặt nhìn về hướng Lý. Giữa những nếp nhăn nheo trên khuôn mặt, đường gân thớ thịt của ông lão có gì căng thẳng như ông ta đang muốn nén sự tức cười. Rồi làm như không thể dằn được nữa, ông ta cười thành tiếng, một giọng cười khàn khàn nhưng lại nhọn sắc như tiếng quạ:
-Cậu có vẻ tỏ ra thông cảm với hoàn cảnh của ta nhưng về chuyện tiền bạc, ta nào có thiếu.Nếu cậu muốn cải thiện cuộc sống của mình thì cứ cho ta biết là xong ngay.
Lý bỏ dở câu chuyện, chỉ biết sững sờ nhìn gương mặt của đạo sĩ. (Lão già này khùng mất rồi!). Mãi một thôi sau khi ngậm miệng và kinh ngạc nhìn lão, Lý mới có một câu nói để đánh giá như vậy. Thế nhưng lời đánh giá ấy đã bị đập tan ngay khi đạo sĩ nói tiếp:
-Nếu cậu cần khoảng một hay hai nghìn dật (itsu) (5) hoàng kim thì ta có thể biếu cậu tức khắc. Thực ra, ta không phải là người phàm đâu, cậu ạ!
Thế rồi lão già nói mấy câu ngắn gọn kể chuyện đời mình. Thì ra xửa xưa, lão là một anh đồ tể mỗ thịt ở một cái chợ nào đó, nhờ có cơ duyên đôi khi gặp Lữ tổ (Lữ ĐộngTân) bèn đi theo học đạo. Kể chuyện xong, đạo sĩ chậm rãi đứng dậy rồi đi vào bên trong miếu. Một tay lão chìa ra vẫy gọi Lý vào, còn tay kia thì thu vén lại đống vàng mã trên sàn.
Lý như người tê liệt hết ngũ quan, mơ mơ màng màng bò vào bên trong miếu. Người anh nằm phục xuống mặt sàn còn hai bàn tay bám đầy phân chuột và bụi bặm. Lý chỉ còn ngóc được mỗi cái đầu, từ bên dưới nhìn lên khuôn mặt đạo sĩ.
Còn đạo sĩ thì cúi cái lưng còng, duỗi hai cánh tay một cách khó khăn để cào hốt đống giấy vàng mã trên mặt sàn.Thế rồi ông ta đưa hai bàn tay cầm chúng lên xoa đi xoa lại và bắt đầu bận rộn rắc xuống dưới chân. Lạ lùng làm sao, khi đống giấy đó rơi trên mặt đất thì đột nhiên, nó lại phát ra tiếng kêu loảng xoảng, át cả tiếng mưa đang đổ bên ngoài cửa miếu. Mấy mớ vàng mã vừa rời khói tay đạo sĩ đã hóa thành những đồng tiền bằng vàng hay bằng bạc....
Hạ
Lý Tiểu Nhị trở thành giàu có ức vạn như Đào Chu (6). Những khi nghe ai hoài nghi về câu chuyện gặp tiên mà anh kể cho họ, đã trưng ra bút tích bốn câu thơ lão già để lại mà làm bằng chứng. Người viết có lần đọc câu chuyện về Lý trong một quyển sách nào đó đã lâu lắm rồi nên rất tiếc không còn lưu trong ký ức bài thơ nói trên một cách chính xác. Vì vậy chỉ còn biết dịch đại ý của nó từ tiếng Tàu sang tiếng Nhật và đặt ở cuối câu chuyện này. Dù sao, có lẽ nội dung là lời lão đạo sĩ muốn đáp lại khi Lý Tiểu Nhị hỏi ông vì cớ gì đã là người tiên mà còn muốn sống cuộc sống của một kẻ ăn mày:
"Vì cuộc đời là đau khổ nên sự sung sướng mới đáng hưởng thụ. Con người vì có chết nên mới biết là mình sống. Kẻ nào thoát được cái chết và sự đau khổ sẽ cảm thấy trống rỗng, không còn gì thú vị. Do đó, người tiên không bằng được người phàm vì người phàm hãy còn có khổ đau, sinh tử".
Có lẽ vì thế mà những ông tiên thường nhớ lại thuở làm người và cố tình đi khắp nơi để tìm sự đau khổ hay chăng?
Ngày 23 tháng 7 năm Taishô thứ tư (1915)
- Kimonmichi (quỷ môn đạo): lối bên hông, nơi vai diễn trò tiến vào sân khấu.
- Sesshi: màn phụ trong một tạp kịch.
- Zatsugeki: hình thức tạp kịch đời Nguyên, còn gọi là Nguyên khúc.Đã manh nha từ đời Tống và thường có tính cách phúng thích.
- Có lẽ là vở Hán Cung Thu, tạp kịch nói về tấn bi kịch của nàng Minh Phi (Vương Chiêu Quân) bị Hán đế gả làm vợ cho Thiền Vu Hung Nô và chết trong uất hận ở xứ người.
- Dật (itsu): Đơn vị hóa tệ đời xưa, một dật trị giá từ 20 đến 24 lượng vàng.
- Đào Chu tức Phạm Lãi. Tương truyền sau khi bỏ vua nước Việt ra đi, đã cùng người đẹp Tây Thi phiếm du Ngũ Hồ rồi đổi tên, làm ăn buôn bán và trở thành một đại phú hào.
Dịch xong ngày 27 tháng 1 năm 2019 (NNT)
Thư Mục Tham Khảo:
Nguyên tác những truyện được dịch bên trên đều được lấy từ trang mạng Nhật Bản Aozora Bunko (bản mới 2004) trích quyển thứ nhất trong Toàn Tập của Akutagawa Ryuunosuke do Chikuma Shôbô (Tokyo) xuất bản..
Nguồn: Chim việt Cành Nam
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 18 tháng 2 năm 2021