Nhà văn Trần Tiêu em ruột là nhà văn Khái Hưng Trần Khánh Giư, quê làng Cổ Am, huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương (nay thuộc thành phố Hải Phòng).
.
Ông là nhà giáo nhưng chuyên tâm sáng tác văn chương từ năm 1936. Ông chuyên viết tiểu thuyết về đề tài đồng ruộng, mô tả chân thực về đời sống của giới nông dân miền Bắc Việt Nam núp dưới bóng tre xanh, dầm mưa dãi nắng chốn bùn lầy nước đọng.
Cách mạng tháng Tám thành công, ông từng là Ủy viên Hội đồng nhân dân xã Cổ Am và tham gia kháng chiến một thời gian. Bệnh nặng, ông về Hải Phòng và mất tại đấy trong năm 1954, hưởng dương 54 tuổi.
Tác phẩm
Con trâu (1940, Hà Nội)
Chồng con (truyện dài, 1942)
Hồi kí con Vện (1943)
Truyện quê (1942)
Con trâu là một cuốn tiểu thuyết viết về cuộc sống lam lũ của hầu hết dân quê miền Bắc Việt Nam. Cuộc sống của họ quanh năm hụp lặn nơi đồng sâu, nương rẩy. Nào cày cấy, gặt hái, nào chạy ngược xuôi để vay mượn đắp chỗ này, vá chỗ nọ, quanh năm đầu tắt mặt tối gần như suốt đời không có phút thảnh thơi mà điển hình là bác Chính. Tuy sống một cuộc đời cơ cực, nghèo khổ, nhưng người nông dân - bác Chính - vẫn ước mơ, vẫn hi vọng; mà ước mơ đơn giản và tầm thường nhất là tậu được một con trâu cái để sinh lợi, để khơi nguồn sống cho cả gia đình. Nhưng cuối cùng bác Chính đã chết trong nghèo nàn cơ cực và không thực hiện được cái ước mơ đơn giản nhất và cũng không kịp gả chồng cho cô con gái đầu lòng.
Phần Thứ Nhất
MỤC ĐỒNG
Nghé ơ ơ… ơ ơ nghé… nghé!
Thằng Tửu ngồi trên mình trâu gọi nghé. Con trâu mẹ kêu mấy tiếng “nghé ọ!”, và chân vẫn thản nhiên, đều đều bước một trên con đường đất gồ ghề.
Xa xa, cánh đồng cỏ nhấp nhô những mả. Một con nghé đứng sững, cất đầu ngơ ngác nhìn, đen xẫm in lên nền trời đỏ.
Bỗng nó nhảy quẫng mấy cái rồi vừa chạy vừa nhảy như một đứa trẻ nghịch ngợm, nó đến theo sau mẹ nó, thỉnh thoảng lại kêu mấy tiếng “nghé ọ” còn non nớt.
Ánh đỏ dịu dần, đã đổi sang màu tím và tím nhạt… Một ngôi sao lấp lánh trên màn trời lam tối. Vài con chim bay. Chuông chùa thong thả buông rơi từng giọt buồn vào trong khoảng yên lặng, một thứ yên lặng thiêng liêng của cảnh hoàng hôn nơi thôn dã.
Bọn mục đồng về sớm đã rẽ vào con đường làng lát gạch. Ngồi uể oải trên mình trâu, chúng nó bàn soạn công việc tế đức Vua ngày mai, đức Vua của chúng nó, đức Vua “Cuốn chiếu”.
Tục truyền Vua “Cuốn chiếu” là một ông lão nghèo khổ. Mùa đông, tháng giá, ông thường khoác manh chiếu làm áo tơi, đi co ro trên bờ đầm, bờ sông câu cá.
Một hôm, rét quá, chịu không nổi, ông nằm chết co quắp ở cạnh cái quán ngói thuộc về làng Tiên. Rồi ông linh thiêng báo mộng cho dân làng ấy biết rằng ông đã được Ngọc Hoàng ban cho tước Vương và bắt dân lập đền thờ, nếu không thờ sẽ động. Ho không biết danh hiệu ông là gì, chỉ thấy ông chết cuộn tròn trong chiếc chiếu rách nên đặt tên ông là Vua “Cuốn chiếu”.
Đền ông làm ngay trên đê, quay mặt ra sông Hóa. Trẻ mục đồng thường qua lại đấy chăn trâu dưới bãi. Chúng thấy đền Vua “Cuốn chiếu” linh thiêng, bèn họp nhau đóng tiền tế mỗi năm một lần vào ngày mười hai tháng tám để Vua phù hộ cho trâu, cho người khỏe mạnh. Từ đấy có cái lệ đóng góp của bọn mục đồng.
Thằng Tý cất tiếng hỏi:
- Này, năm nay đứa nào làm trùm, chúng mày?
Thằng Tín vừa giựt dây thừng xỏ qua mũi trâu để trâu khỏi đứng lại ăn cỏ ở vệ đường, vừa nói:
- Lại thằng Đục chứ còn ai!
Thằng Mùi nằm sấp trên mình trâu, bỗng ngồi nhổm dậy:
- Này, chúng bay! Sao chúng mình không bầu lần lượt mỗi năm một thằng?
Tý cãi:
- Mày nói dở lắm. Thằng Đục nó chăn trâu đã mười năm nay, trước hết cả bọn mình thì cố nhiên nó lên làm trùm. Lệ bao giờ chả thế!
Thằng Còn đi đầu, ngồi xoay ngược lại nói:
- Chúng mày lôi thôi lắm. Trùm với chẳng trùm thì được thêm cái “đếch” gì… Với lại, trừ nó ra thì thằng cóc nào biết làm đại bái. - Nó vừa nói vừa cười chế nhạo cả bọn.
Thằng Chắt, đứa trẻ nghịch ngợm nhất, đứng trên mình trâu nhìn trước nhìn sau, có ý tìm thằng Tửu. Vì Tửu hát hay có tiếng trong làng. Giọng nó trong như giọng con gái. Thường thường, về chiều yên lặng, nó cất tiếng hát. Cả bọn đều lắng tai nghe. Có nhiều đứa khẽ hát theo để học.
Nghe thấy thằng Còn nói thế, thằng Chắt ngồi xuống nắm tay đấm mạnh lên mình trâu làm con vật sợ, rảo bước.
- Mẹ kiếp! Thử để ông làm trùm xem ông có học được làm đại bái không? Khó chó gì. Cứ việc lên chiếu trên, xuống chiếu dưới, rồi lễ, rồi quỵ, theo lời thông xướng…
Thằng Còn cười:
- Mày nói như đấm vào họng người ta ấy. Nếu cứ dễ như mày tưởng thì quan vơn nhiều ông đã chẳng bị những cái thẻ vào trong tay áo*.
Thẻ bắt lỗi.
Thằng Mùi:
- Thôi chúng mày hãy xếp việc ấy lại. Bây giờ ta hãy bàn đến chuyện tiền nong đã…
Thằng Tý ngắt lời:
- Thế hôm qua họp ở đền nhà Vua, mày không có đấy à?
- Không. Hôm qua tao bận xay lúa vì chị tao phải theo bà tao đi đong thóc ở trên Hu.
- Chúng tao đã bàn đi bàn lại rồi. Năm nay cứ nhà nào một trâu thì đóng ba hào, nhà hai trâu thì đóng năm hào. Từ con thứ ba trở đi, mỗi con đóng thêm một hào, chứ không như mọi năm nhà ông cán Thận ba trâu mà cũng chỉ đóng có ba hào như mọi người.
Thằng Mùi vỗ tay nói:
- Thế thì cỗ năm nay hẳn to, chúng mày nhỉ? À, năm nay nhà nào “đăng cai” hở chúng mày? Bọn chúng nó ở cõi Hùng, ở khu trong đã biết chưa?
- Hôm qua chúng nó cũng đến họp cả ở nhà Vua. Năm nay đến lượt ông Lý Quỳnh đăng cai. Nhà ông ấy rộng, lại có sân gạch. Xem ý ông ta bằng lòng lắm. Ông ta muốn dành ra hai mâm để mời bảy ông bạn đến đánh chén.
- Cứ kể ra thì lệ nhà “đăng cai” chỉ được một mâm với nửa chai rượu… À này, chúng mày, còn biếu xén các nhà có trâu ra làm sao? Cũng như mọi năm chứ?
- Ừ, cũng như mọi năm, mỗi người một phẩm oản, một quả chuối. Còn miếng thịt thì liệu xem con lợn to nhỏ thế nào đã. Nếu to thì ta cắt dầy thêm một tý.
- Lợn năm nay thì hẳn là to, vì thêm ra bao nhiêu tiền!
- Mày đã chắc à? Tao thấy nói lợn năm nay đắt lắm cơ. Rồi tối nay hỏi thằng trùm sẽ biết. Chác nó đã nhờ ông Lý Quỳnh mua hộ rồi.
Qua nhà xã Nháu bán hàng nước, một con trâu, con trâu của thằng Tín đứng lại bậy ra đấy. Vợ xã Nháu ở trong nhà bước ra chửi rủa om xòm.
Cả bọn vừa cười vừa nói:
- Rồi chúng tôi hót, làm gì mà nhặng lên thế!
Chúng nói thế nhưng rồi chẳng đứa nào hót. Vì thế mà mỗi khi đàn trâu đi qua, ít ra cũng có một vài bãi phân trâu trên con đường lát gạch của làng.
Thằng Chắt không quên thằng Tửu, hỏi:
- Quái! Thằng Tửu đâu ấy, chúng mày nhỉ?
Không thấy bọn kia trả lời, nó nói tiếp:
- Đã lâu nay, ít khi nó về cùng với chúng mình. Thằng cha đọc chúc thì hay lạ! Cụ Lý Hiểu đọc đã vị tất bằng nó, chúng mày nhỉ?
Hai, ba đứa cùng đáp:
- Giọng nó như thế thì ai bì được!
Thằng Chắt vẫn băn khoăn về cái chức đại bái. Không phải vì nó thích danh giá nhưng vì nó có tính tò mò, nghịch ngợm:
- Hay chúng mày cứ bầu tao làm đại bái, có lỗi tao chịu.
Thằng Còn cười, nói:
- Mày thì để khi nào có đánh nhau với bọn mục đồng bên Hạc Ngang như độ nọ, chúng tao sẽ bầu lên làm tướng. Và khi nào phải bơi qua sông, lẻn vào chùa Bến nẩy trộm mít…
Tiếng cười ồ. Thằng Chắt cũng cười theo và nói thêm:
- Cái đó đã hẳn! Nhưng ông lại còn muốn làm đại bái nữa cơ.
Cả bọn nhao nhao:
- Cái đó thì xin ông tướng hãy xếp lại.
Thằng Mịch, bé và hiền lành nhất trong bọn từ nãy vẫn ngồi yên trên mình trâu, tỉ mỉ xếp cái long đình bằng những cuống rạ tươi, nói xen:
- Anh Chắt ạ, anh chớ nghịch thế, lỡ gặp phải đức Ông thiêng như đức Ông chùa Bến thì chết.
Thằng Tý cười nói:
- Mầy cho ông tướng mục đồng là bé à? Sử Đồng Tử giáng sinh đấy!
Thằng Chắt đứng sừng sững trên mình trâu, hai tay chống cạnh sườn, phồng má, trợn mắt ra oai.
Thằng Tín chỉ thằng Chắt, nói:
- Mịch! Mày trông ông tướng kia kìa. Oai không?
Thằng Mịch giọng thực thà:
- Oai gì chẳng biết. Tôi chỉ biết bu tôi kể chuyện: ngày xưa có một thằng bé chăn trâu ăn trộm bưởi ở vườn chùa Bến, bị đức Ông ngài trói vào gốc cau suốt một ngày trời. Bố mẹ phải đem trầu cau, vàng hương đến khấn xin ngài, mãi ngài mới tha cho. Anh Chắt thử đến đấy mà lấy trộm xem?
Thằng Tý cười, nói ghẹo:
- Đã thế, chúng mình bắt thằng Mịch vào chùa Bến ăn trộm bưởi.
Cả bọn vỗ tay reo:
- A a… phải đấy! Phải đấy!
Thằng Mịch tưởng thật ngồi khóc.
Đàn trâu không để ý đến những tiếng cười reo của đàn trẻ. Con nào con nấy thủng thỉnh bước một. Đôi mắt to và lờ đờ như nghĩ ngợi gì. Hai tai phe phẩy chậm chạp, đuôi đập sườn bên này sang sườn bên kia đuổi muỗi.
Thằng Tửu đã rẽ vào cõi Hùng từ ban nãy để được gặp cái Mít đi bán dầu hỏa và kim chỉ ở cõi Ba về.
Thoạt nhìn thấy từ đằng xa cái bóng đen đi lại, nó đã cất giọng hát câu “đường trường”. Vì nó biết Mít thích nghe câu ấy lắm.
Mít năm nay mười sáu mà trông cao lớn bằng đứa mười tám đôi mươi. Mặt kháu khỉnh. Miệng lúc nào cũng cười, không phải để khoe hàm răng đen láy với đôi má lúm đồng tiền, nó cười luôn chỉ vì tính nó hay cười.
Nghe thấy tiếng Tửu hát, Mít đặt gánh xuống vệ đường khẽ khép lại tà áo, vuốt lại dải lưng xanh, sửa lại vành khăn cho ngay ngắn rồi tủm tỉm cười, đứng đợi.
Con trâu và con nghé theo sau dừng lại, ăn cỏ.
- Anh Tửu đấy à?
- Chị Mít đấy, phải không?
- Ừ, tôi đây. Sao anh lại đi đường này? Có xa thêm ra không? - Mít vừa nói vừa cười ranh mãnh.
Tửu đỏ mặt nói gượng:
- Tôi thích đi đường này vì nó vắng dễ đi.
Mít vẫn nụ cười ranh mãnh:
- À ra thế cơ đấy! Tôi lại cứ tưởng… À này, đến rằm tháng tám anh lại đi hát đúm ở làng Tiên đấy chứ?
- Có, Mít có đi không?
- Tôi đi để chúng nó ghẹo như năm ngoái ấy à? Tôi chả dám đi.
- Cứ đi, Mít ạ, lần này tôi kéo thằng Chắt, chúng nó không dám ghẹo nữa.
- Nếu thế thì tôi… chả đi.
Nói xong, Mít đặt gánh lên vai vừa đi vừa cười khúc khích. Nhưng được vài bước, Mít quay lại nói to:
- Đùa đấy! Thế nào rồi tôi cũng đi với anh. Tửu trả lời bằng một câu hát. Tiếng hát lanh lảnh rót vào tai Mít, Mít lẩm bẩm: “Mình mà có cái giọng như giọng Tửu…” Mít bỗng tự ngượng, cười một mình.
Mít về đến cổng đã thấy ba đứa trẻ, đứa nào cũng chỉ mặc một manh áo cộc nâu, không có quần, chạy lại reo: “Quà đâu chị Mít?”
Mít mở cái bồ con lấy ba củ khoai lim đưa cho mỗi đứa một củ. Nó đã khéo chọn ba củ bằng nhau để các em khỏi tranh giành. Được quà, chúng sung sướng thi nhau chạy khắp sân. Mấy con dơi bay ngoắt ngoéo để bắt muỗi như cũng nô đùa với lũ trẻ.
Bác Chính gái ngồi ở thềm với chồng, đứng dậy, hai tay phủi đũng váy rồi đi lại chỗ con:
- Buôn bán lời lãi gì mà hoang thế? Hôm nào cũng quà, hết tiền lấy gì mà ăn?
Mít cười, nói:
- Có gì mà bu bảo hoang? Một chinh ba củ, chúng nó ăn thì lại đỡ tốn cơm chứ sao!
Ngừng một lát, Mít nói tiếp:
- Bu ạ, hôm nay đắt hàng, con bán được hai chai dầu với sáu xu chỉ. Vị chi là ba hào tám… Này, bu ạ, dầu tây chú Sửu bảo kỳ này sắp đắt, bu mua lấy một thùng để bán dần.
Bác gái hớn hở:
- Ừ, bây giờ mới có hai đồng. Để rồi tao bán mấy tấm vải bù vào là đủ.
Bác quay lại phía chồng nói tiếp:
- Thầy nó ạ, con bé thế mà đảm đáo để! Mới từ trưa đến giờ, nó đã bán được những ba hào tám. Thầy nó không bằng nó đấy. Cả ngày hôm nay làm được mỗi một cái hào.
Chính ngồi thừ trên thềm, nói gắt:
- Thế còn vốn, bu mày không tính à?… Còn bu mày thì đảm… Cả ngày không dệt xong tấm vải.
Anh chàng hình như đương tức bực điều gì. Khác hẳn mọi chiều, chiều nay anh về không đùa với thằng cu con. Vợ tức cũng định gắt lại, nhưng thấy chồng buồn, bèn đến ghé tai nói thầm: “Người ta khen cho con bé nó thích chứ ai trách gì mình!”
Trăng mồng mười đã lên cao tuy trời vừa mới xẩm tối. Cái sân đất nện trước cửa nhà, sạch sẽ và sáng sủa như một cái chiếu đậu rộng. Bác Chính không dám trồng cây, sợ rợp sân, mất cả chỗ phơi thóc.
Muốn hà tiện ít dầu, bác gái bưng cơm ra sân. Vợ chồng, con cái tất cả sáu người ngồi quây quần chung quanh chiếc mâm tróc sơn, trên có một đĩa rau muống luộc, một đĩa vừng rang với một chén nước mắm cáy. Không phải vì túng bấn quá: vợ chồng bác còn có thể ăn sang hơn nữa. Nhưng hai bác muốn dành dụm để tậu một con trâu cái. Con trâu cái, đối với vợ chồng nhà bác, có lợi nhiều lắm. Với nó, bác trai có thể kiếm ít ra ngày ba hào. Đến khi nó đẻ, hai bác lại còn có nghé bán, hai bác tính chỉ độ vài năm là sẽ kéo lại được vốn. Còn chăn dắt đã có thằng cu Chốc năm nay lên mười tuổi.
Nồi cơm hẩm vừa bắc ra đã hết dóc. Ba thằng bé tuy đã điểm tâm mỗi đứa một củ khoai lớn mà vẫn ăn khỏe như thường. Hai bác phải nhịn mỗi người một bát để các con được no. Không nói ra mà hai vợ chồng cùng một ý, và nhìn nhau tủm tỉm cười.
Ăn xong, vợ chồng ngồi xỉa răng trên thềm. Mỗi người một bát nước chè nóng để bên. Trước mặt chồng, một cái điếu sành, một cái đèn chai ngọn li ti.
Mít thu dọn bát đĩa vào trong rổ. Rồi một tay xách mâm, một tay cắp rổ đi ra ao làng.
Hai đứa trẻ hàng xóm vừa sang họp với lũ con bác Chính chơi “dung dăng dung dẻ”. Chúng nắm tay nhau đi đi, lại lại khắp dọc sân, vừa đi vừa hát. Mỗi lần hát đến câu cuối cùng “cho gà bới bếp, cúc cu cu”, chúng nó lại ngồi xổm xuống đều phăng phắc, rồi lại đi, lại hát. Hết trò này chúng đổi sang chơi “ba ba, thuồng luồng” và chạy reo ầm ỹ. Bác gái quát luôn mồm: “Chạy vừa vừa chứ! Rồi lại kêu đói! Cu con, khéo ngã dập mồm, dập mũi ra đấy!” Bác trai nhìn thằng cu Chốc nghĩ thầm: “Bao giờ mình có trâu, nó sẽ thành mục đồng”. Nghĩ vậy, bác sung sướng lộ ra nét mặt.
Phần Thứ Nhất - MỤC ĐỒNG
Tiến >>
Bản scan https://thuviensach.vn/pdf - Đánh máy: Tosca
Nguồn: VĂN HỌC VIỆT NAM - NXB Đời Nay 1940
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 26 tháng 3 năm 2023