CON ĐƯỜNG THIÊN LÝ

nguyễn hiến lê

THAY LỜI GIỚI THIỆU

Tôi dùng hồi kí của tôi với những tài liệu về cuộc tìm vàng ở miền Tây nước Mĩ giữa thế kỉ trước để tạo ra nhân vật Lê Kim (quê ở Phú Thọ Bắc Việt), người đầu tiên trôi nổi qua Mĩ, theo một đoàn đi tìm vàng, trải nhiều gian nan; và khi tìm được rồi thì chán, trở về Nam Việt lập gia đình, khai hoang và giúp Thiên Hộ Dương “Bình Tây sát tả” trong Đồng Tháp Mười.

Ý nghĩa chuyện đó ở trong đoạn cuối, lời tôi nói với một người chắt của cụ Lê Kim ở Gia Định vào khoảng 1950:

“Cụ Lê Kim có phải là người Việt đầu tiên qua Mĩ không, điểm đó không quan trọng gì đối với chính sự. Vậy mà tìm ra được đủ chứng cứ và ít nhiều chi tiết, bác (tức người kể chuyện) đã phải bỏ ra… tới nay là non bốn chục năm đấy, và phải nhờ vài sự ngẫu nhiên lạ lùng với mấy người giúp sức nữa.

Trong khi tìm tôi có những lúc cũng chán nản mà cũng có những lúc phấn khởi say mê, tìm ra được rồi rất mừng, nhưng chỉ được một lúc… cũng như cụ Lê Kim mạo hiểm đi hết con đường Thiên lý, tới miền có mỏ vàng thì chán nản, trở về nước khai hoang, kháng chiến. Vàng là cái mà cụ coi thường nhất – danh vọng cũng vậy – cụ chỉ muốn tìm ý nghĩa cho cuộc sống “và sự say mê trong hành động”.

Truyện đó tôi đặt cho nhan đề: “Con đường thiên lí” vì hồi trẻ tôi muốn viết một tập Du kí từ Nam ra Bắc mang nhan đề đó, mà không có cơ hội thực hiện được.

Tôi viết xong năm 1972, định dăm năm sau sẽ giao cho nhà Lá Bối xuất bản. Ông giám đốc nhà Lá Bối và vài người nữa khen truyện rất hấp dẫn. Chưa kịp xuất bản thì miền Nam được giải phóng. Truyện dài khoảng 250 trang, ghi được một số hồi kí của tôi, như cảnh ngã ba Bạch Hạc, cảnh đền Hùng, tình hình hồi đầu thời kháng Pháp ở thôn quê miền Nam…

(Trích Hồi kí Nguyễn Hiến Lê)

VÀI NÉT VỀ NHÀ VĂN NGUYỄN HIẾN LÊ

CON ĐƯỜNG THIÊN LÍ

Nguyễn Hiến Lê hiệu là Lộc Đình, sinh ngày 8-1-1912 tại Hà Nội (giấy khai sinh ghi ngày 8-4-1912), quê làng Phương Khê, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay vẫn thuộc tỉnh Sơn Tây).

Ông xuất thân trong một gia đình Nho học yêu nước. Thân phụ, Bác ruột tham gia phong trào Duy tân ở trường Đông kinh nghĩa thục bị thực dân Pháp truy lùng phải vào lưu trú ở Nam Kì (Đồng Tháp Mười).

Thuở nhỏ, ông học ở trường Yên Phụ, trường Bưởi, trường Cao đẳng công chánh Hà Nội. Năm 1934 ông tốt nghiệp và được bổ làm việc tại các tỉnh miền Tây Nam bộ, kể từ đó ông làm việc và thường trú luôn ở Miền Nam.

Năm 1935 bắt đầu viết kí sự, du kí, tiểu luận, rồi dịch thuật các tác phẩm văn chương, đến năm 1945 có được cả chục bản thảo, nhưng đã mất trong kháng chiến chống Pháp. Từng làm nhân viên Sở Công chánh thuộc ngành Thủy lợi (Hyraulique) thường đi thực địa ở các tỉnh miền Hậu giang, nên biết nhiều về đất đai và con người ở các địa phương thuộc khu vực này.

Cách mạng Tháng tám thành công, rồi Toàn quốc kháng chiến, ông bỏ đời sống công chức tản cư về Long Xuyên, rồi đi dạy học. Năm 1952 thôi dạy, lên Sài Gòn sống bằng ngòi bút và chuyên tâm vào văn hóa.

Tác phẩm đầu tay của ông là một cuốn Du kí khoa học có tên Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười tuy mỏng mà tác giả đã bỏ ra nhiều công sức. Nguyên sách được viết nhân một chuyến ra Hà Nội dự kì thi lấy bằng Kỹ sư theo đề nghị của chủ nhiệm báo Thanh Nghị (Vũ Đình Hòe), sách viết xong nhưng gửi ra Hà Nội không được (vì chiến tranh), bản thảo bị thất lạc ở Đồng Tháp Mười, năm 1954 viết lại, xuất bản năm 1954 và được tái bản nhiều lần. Từ đó hàng năm ông có đôi ba tác phẩm ra mắt công chúng.

Ngòi bút Nguyễn Hiến Lê đề cập đến nhiều lĩnh vực, mà ở lĩnh vực nào cũng có căn cứ khoa học, am tường cặn kẽ, sâu sắc về các vấn đề được nhắc tới và không thiếu tính nghệ thuật.

Tác phẩm của ông gồm mấy chủ đề chính:

1. VĂN HỌC: gồm một số tác phẩm đặc sắc và công phu như: Hương sắc trong vườn văn, 2c (1962), Luyện văn, 3c (1953), Đại cương văn học sử Trung Quốc, 3c (1966), Tô Đông Pha (1970)…giới thiệu được những tinh hoa của văn học Trung Quốc cũng như nghệ thuật văn chương Việt Nam.

2. NGÔN NGỮ HỌC: Để hiểu văn phạm (1952), Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam (1963), Chúng tôi tập viết tiếng Việt… có nhiều phát kiến mới về ngôn ngữ học Việt Nam, đồng thời vận dụng được những tiến bộ mới nhứt của ngữ học hiện đại vào ngữ pháp tiếng Việt.

3. TRIẾT HỌC: Đại cương triết học Trung Quốc, 2c (1966), Nho giáo một triết lí chính trị (1958), Liệt tử và Dương tử (1972), Một lương tâm nổi loạn (1970), Bertrand Russell (1971), Mạnh Tử (1973)… trình bày được một hệ thống lớn triết học cổ điển Trung Hoa, cùng những tấm gương lớn về chân dung các triết gia Tây phương hiện đại.

4. SỬ HỌC: gồm một số tác phẩm về lịch sử và văn minh sử thế giới như: Lịch sử thế giới, 4c (1955), Bài học Israel (1968), Bán đảo Ả Rập (1969), Bài học của lịch sử (1972), Nguồn gốc văn minh (1974), Văn minh Ả Rập(1969), Sử kí Tư Mã Thiên (1970), Chiến quốc sách (1968), Đông Kinh nghĩa thục (1954, Sử Trung Quốc 3c…

5. GƯƠNG DANH NHÂN: gồm một số quyển nói về Gương hi sinh (1962), Gương kiên nhẫn (1964), Gương chiến đấu (1966), Ý chí sắt đá (1971), Những cuộc đời ngoại hạng (1970), Eintein (1971)… là những bài học cho nhiều lớp người, nhất là thành phần thanh thiếu niên đang ở ngưỡng cửa cuộc đời.

6. GIÁO DỤC: trình bày những quan điểm về giáo dục về các lớp tuổi trong đời sống gia đình Việt Nam. Loại này gồm: Thế hệ ngày mai (1953), Tìm hiểu con chúng ta (1966), Tự học để thành công (1954), Làm con nên nhớ (1968), Sống Hai mươi bốn giờ (1956)…

7. TỰ LUYỆN ĐỨC TRÍ: Tác giả vừa dịch vừa nghiên cứu về các chuyên đề giáo dục con người có tính xã hội, như: Tương lai ở trong tay ta (1962), Luyện lí trí (1965), Rèn nghị lực (1956), Tình cao ý đẹp (1967)… loại này có trên hai mươi quyển có giá trị. Trước năm 1975, số ấn bản có đến hàng vạn cuốn. Hiện nay các nhà xuất bản ở các tỉnh Miến Nam đang tiếp tục tái bản.

8. CẢO LUẬN: là một số chuyện đề về văn chương, văn hóa, văn nghệ như: Nghề viết văn (1956), Vấn đề xây dựng văn hóa (1967), Mười câu chuyện văn chương (1975), Con đường hòa bình (1971)… là những đóng góp sáng giá của ông về việc trau giồi văn chương, đạo đức và cảm thụ học thuật cho độc giả yêu mến văn nghệ.

9. TIỂU THUYẾT Dịch: Nguyễn Hiến Lê có một khả năng dịch thuật rất sung mãn. Từ khi bắt đầu cầm bút cho đến cuối đời, ông có hàng chục công trình dich thuật sáng giá, nhất là các tiểu thuyết lớn phương Tây như: Chiến tranh và hòa bình, 4c (1968), Cầu trên sông Drina (1972), Câu chuyện thương tâm, Kiếp người (1962), Một mùa hè vắng bóng chim (1990)…

10. DU KÍ: gồm một số quyển ghi chép lại các lần đi khảo sat thực địa ở các địa phương. Loại này không phải là những tác phẩm thuần túy văn chương mà là những đóng góp thiết thực cho khoa học tự nhiên, xã hội, văn học nữa, như: Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười (1954), Đế Thiên Đế Thích (1943)… cùng một số sách về Quản trị công nghiệp, Kinh tế. Bên cạnh đó ông còn viết hơn ba trăm chuyên đề trên các tạp chí chuyên ngành.

Tính đến năm 1975, ông đã xuất bản được Một trăm tác phẩm về các thể loại vừa kể. Từ năm 1975 cho đến khi qua đời, ông còn viết được hơn hai chục quyển khác như: Tourguéniev, Gogol, Tchékhov, Để tôi đọc lại, Đời nghệ sĩ, Sử Trung Quốc, Mặc học, Trang Tử, Kinh Dịch…

Những năm trước 1975 tại Sài Gòn, ông là một trong vài người cầm bút được giới trí thức quí mến về tài học, nhân cách đối với xã hội cũng như trong học thuật. Do thành quả lao động nghiêm cẩn của mình, ông được nhiều người trân trọng kể cả học sinh, sinh viên. Những năm 60, chính quyền Sài Gòn đã tặng ông (cùng với ông Giản Chi) Giải thưởng văn chương toàn quốc với danh hiệu cao quí đương thời cùng một ngân phiếu lớn (tương đương mấy chục lượng vàng). Và năm 1973 Hội đồng xét duyệt đề nghị ông nhận giải Tuyên dương sự nghiệp văn học nghệ thuật ông đều công khai từ chối với lí do “dùng tiền ấy để giúp nạn nhân chiến tranh” và bản thân tác giả không hề tranh giải.

Tác phẩm của Nguyễn Hiến Lê là những đóng góp không nhỏ vào học thuật Việt Nam.

Năm 1980, ông về ẩn cư ở Long Xuyên (nay thuộc tỉnh An Giang), đến ngày 22-12-1984 ông bệnh mất tại Sài Gòn, thi hài được hỏa táng ở Thủ Đức để lại sự thương tiếc trong lòng nhiều người làm văn hóa và bạn đọc.

Ngoài các tác phẩm vừa kể, Con Đường Thiên Lí là tiểu thuyết duy nhất trong đời cầm bút của ông.

Đây là tác phẩm viết về một nhà Nho thời Tự Đức (1829-1883) gốc quê làng Xuân Lũng, huyện Sơn Vi, tỉnh Phú Thọ (nay vẫn thuộc tỉnh Phú Thọ). Nhà Nho này vì xã hội đương thời mà phải giết người để trả thù cho vợ, rồi phiêu lưu khắp thế giới để tìm ý nghĩa cuộc đời! Tình cờ ông làm thủy thủ cho một tàu biển đến Hoa Kì, ở đây ông gia nhập vào một đoàn người có nhiều quốc tịch đến tìm vàng tại miền Tây Hoa Kì.

Đoàn người vượt hàng ngàn cây số đường đất, qua các sa mạc phèn nóng bỏng, những đồi núi trùng điệp đầy thác ghềnh, tiếp xúc với các thổ dân Da Đỏ và bọn cướp rồi đến San Francisco, California và cuối cùng tìm được khá nhiều vàng. Nhưng tại “thế giới vàng” đã làm nhà nho mạo hiểm này đâm ra ghê tởm vì cảnh hỗn độn, cướp bóc của bọn người săn vàng. Chán nản, ông trở lại California làm nhân viên cho toà soạn báo Daily Evening. Vì chán cảnh vô luật pháp, vô đạo đức, trụy lạc của xứ vàng đó, nhất là nhớ quê hương, tổ quốc… nhân một chuyến tàu, ông trở về Hương Cảng, nhập tịch Trung Hoa, rồi cùng một vài người Trung Quốc về lại Việt Nam khai khẩn đất hoang, định cư ở Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp).

Tại đây (làng Hòa An) ông sống một cuộc đời bình thường, nhưng các năm 1860-1862, giặc Pháp xâm chiếm Nam Kì, ông bỏ nhà cửa, ruộng vườn cùng Võ Duy Dương (Thiên Hộ Dương) phất cờ khởi nghĩa kháng chiến chống Pháp ở Đồng Tháp Mười… trở nên một anh hùng dân tộc.

Bên cạnh nhân vật chính này, sách còn cho chúng ta biết được những nhân vật lạ lùng và rất đổi bình dị trong thời kháng chiến chống Pháp, những người trí thức, những nông dân, những tuyệt thế giai nhân… cùng nhiều nhân vật khác xuất hiện trên những khung cảnh hoặc nên thơ ở Miền Bắc, Miền Nam, hoặc hoang vu rùng rợn của châu Mĩ…

Độc giả từng biết giọng văn dịch thuật, biên khảo, cảo luận của Nguyễn Hiến Lê, nay được biết thêm lối viết tiểu thuyết của ông…

Nhưng quyển này có phải là tiểu thuyết hay không, mà đây là tiểu thuyết gì? Lịch sử, kí sự, hồi kí hoặc tự truyện… Hay hoặc không hay, xin bạn đọc tự nghiệm, nhưng nhất định là rất đặc biệt và hấp dẫn.

(Theo Từ điển NHÂN VẬT LỊCH SỬ VIỆT NAM,

Nxb KHXHVN, Hà Nội, 1991)

Nguyễn Q. Thắng

THAY LỜI GIỚI THIỆU

Tiến >>

Đánh máy: Wanderer , Tạo lại: Goldfish (Có sửa chữa và bổ sung) Ngày hoàn thành: 23/06/2013
Nguồn: Nhà xuất bản: Văn hoá Thông tin
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 20 tháng 10 năm 2019