Người Đi Trên Mây

nguyễn xuân hoàng

Giới Thiệu - Chương 1

Tác phẩm Người Đi Trên Mây của nhà văn Nguyễn Xuân Hòang có lẽ là tác phẩm được nhắc đến nhiều nhất mỗi khi người ta nói hoặc viết về Nguyễn Xuân Hòang. Thậm chí, bản thân nhà văn còn được gọi là “ Người đi trên mây “ và có người còn quả quyết rằng nhân vật chính trong truyện – Trần Lâm Thăng – là bản sao của tác giả. Sau Người Đi Trên Mây (1987), nhà văn Nguyễn Xuân Hòang cho ra đời Bụi Và Rác (1992) còn được gọi là Người Đi Trên Mây 2. Tin đồn rằng nhà văn đã hòan tất xong quyển sách thứ ba, tác phẩm này sẽ cùng với Người Đi Trên Mây, Bụi Và Rác, hợp thành bộ Trilogy để đời của ông, nhưng định mệnh đã xui khiến ông lỡ tay nhấp một cái “nhấp chuột chết người “(delete) và thế là tác phẩm thứ ba biến vào thế giới ảo mà không để lại chút dấu vết nào. Trong một dịp trò chuyện (qua điện thư), tôi có hỏi nhà văn về “tin đồn” này thì không được ông trả lời. Tôi không rõ ông không muốn trả lời câu hỏi hay chỉ đơn giản im lặng để tùy người đời suy đóan. Cho đến hôm nay,sau khi ông nằm xuống được một tuần, người ta có thể chắc chắn một điều là không có tác phẩm thứ ba. Có lẽ rồi đây, khi nỗi buồn vắng ông lắng xuống, thân nhân, thân hữu của nhà văn sẽ giúp chúng ta có câu trả lời chính xác. Còn bây giờ, để tưởng niệm một nhà văn quan trọng của văn học miền Nam ( và Việt Nam), cách hay nhất là đọc lại văn Nguyễn Xuân Hòang, nhất là hai tác phẩm Ngừơi Đi Trên Mây và Bụi Và Rác.

Về ấn bản điện tử của hai tác phẩm này, hiện lưu hành trên mạng tòan cầu chỉ có bản đăng từng kỳ ( 100 kỳ cho NĐTM và 100 kỳ cho BVR) do Người Việt Online thực hiện, được rải rác đây đó vài trang Web các cựu học sinh của nhà văn đem về nối kết (link) như một cách tưởng nhớ đến người thầy của mình. Trong tinh thần đó, TV&BH xin phép báo Người Việt Online được đăng tải lại tác phẩm NĐTM và BVR, sau khi đã gom những kỳ đăng tải rời rạc thành một bản văn và đối chiếu lại với bản in (giấy) mới nhất của nhà xuất bản Người Việt năm 2014, để gởi đến độc giả Việt Nam – trong và ngòai nước – bản điện tử trang trọng xứng tầm với vị trí của tác giả và hai tác phẩm tiêu biểu về một giai đọan lịch sử đau thương nhất của đất nước mà không ai trong chúng ta được quyền không biết đến và không ai trong chúng ta được phép quên lãng.

Kính mong được sự lượng thứ và cho phép của Cô Trương Gia Vy – phu nhân nhà văn NXH- về việc làm này của T.Vấn & Bạn Hữu.

Ngày 19 tháng 9 năm 2014

T.Vấn

Chương 1

Thực tình trong thâm tâm tôi, tôi không có ý định đến dự buổi tiệc này. Tại sao tôi cũng không hiểu. Có thể có nhiều lý do, nhưng xét cho cùng, chẳng có lý do nào là chính đáng.

Trước hết, có lẽ vì tôi không hề quen biết người đứng mời, mặc dù chủ nhân không phải là một tên tuổi xa lạ trong lúc này, giữa những ngày đầy biến cố sôi động của Sài Gòn.

Lại nữa, tôi vốn không ưa thích lắm đám đông, nhất là đám đông của những tiệc tùng đình đám. Bầu không khí của những dạ tiệc càng làm tôi lo sợ hơn. Y phục kiểu cách, lịch sự giả dối, ngôn ngữ kênh kiệu… Tất cả những thứ đó làm tôi ngộp thở. Họ nói chuyện chính trị và kinh tế pha trộn trong mùi nước hoa, và màu sơn móng tay…

Sau cùng, tôi do dự vì tấm thiệp mời đã đặt tôi trước hai thái độ của đám bạn tôi. Một đứa khi cầm trên tay giấy mời in tuyệt đẹp với dấu nổi khằn ghi rõ tên tuổi của một chức sắc cao cấp trong Hội Ðồng Nội Các đã cười cười nói nói với tôi rằng đến làm chi cái thế giới quân phiệt và tài phiệt kia, nơi chỉ có luồn cúi và bưng bợ, lò thiêu hủy nhân cách con người. “Ðến chợ Ðủi đi, bọn tao chờ mày ở đó!” Ðám khác thì khuyên tôi nên đi, đó là một cơ hội bằng vàng, phải mở rộng cánh cửa quen biết. “Cho dù mày không ưa cái xã hội thượng lưu đó, chắc chắn sẽ có lúc mày cần đến nó! Vả lại được bắt tay ông Phan lúc này đâu phải là chuyện chơi! Ði đi con ạ! Chớ có ngu!”

Tôi biết chắc là tôi sẽ lạc lõng trong cái thế giới quyền lực và hào nhoáng kia, nhưng không hiểu cái gì đã xô đẩy tôi, vô hình nhưng mạnh mẽ.

Qua khỏi cánh cổng hẹp có lính gác tôi bước vào một khu vườn rộng. Dưới mỗi gốc cây là một bàn vuông nhỏ bốn chỗ ngồi với nến ba ngọn và thức uống. Khách đến đã khá đông. Tôi thấy chủ nhân, ông bà Phan, đứng trên bực cấp cao của ngôi biệt thự.

Tôi đang lớ ngớ thì một người đàn ông cao lớn, tóc cắt cao, mặt bạnh bước về phía tôi. Chân thẳng, đầu cúi thấp, giọng kiểu cách, anh ta nói:

“Xin lỗi ông. Chúng tôi sẽ rất hân hạnh được biết quý danh!”

Tôi nhìn hắn hơi ngạc nhiên, nhưng rất kịp thời tôi trả lời:

“Thăng. Trần Lâm Thăng. Làm nghề dạy học.”

Hắn nghiêng đầu, đưa tay mời:

“Xin mời giáo sư.”

Hắn đưa tôi đến trước mặt ông bà Phan, đứng nghiêm, giọng nhỏ, nhưng rõ ràng:

“Bẩm cụ. Giáo sư Trần Lâm Thăng!”

Ông Phan đưa tay cho tôi bắt. Bàn tay ông mập và mềm, mấy ngón tay ú nhão. Ông có đôi mắt nhỏ nhưng khóe nhìn sắc sảo. Cái nheo mắt của ông như thầm hỏi người hầu cận tôi là ai. Người đàn ông cao lớn, nhắc lại một lần nữa, giọng dõng dạc:

“Bẩm cụ. Giáo sư Trần Lâm Thăng!”

“Cậu Thăng! Trời ơi! Cậu là cậu Thăng đây hả?” Giọng ông mừng rỡ.

Ông quay sang người đàn bà đứng bên:

“Bà này, đây là cậu Thăng, con của anh Thành người bạn cố tri của tôi mà tôi vẫn thường nhắc với bà đó!”

Bà Phan khoảng tuổi trung niên và là một người đàn bà đẹp. Trán vồ kiêu hãnh, đôi mắt lớn, nụ cười hiền. Bà nhìn thẳng vào mắt tôi, giọng tình cảm:

“Chúng tôi rất vui mừng được biết cậu, cậu Thăng ạ! Nhà tôi vẫn nhắc đến ba cậu và cậu luôn!”

Tôi hơi ngạc nhiên về mối liên hệ bất ngờ giữa ông bà Phan và cha mẹ tôi. Tôi là đứa con thứ mười trong một gia đình có mười hai anh em. Từ khi tôi hiểu thế nào là đồng tiền và giá trị đổi chác của nó, tôi biết gia đình tôi luôn luôn sống trong một tình trạng túng thiếu.

Cha tôi thì suốt ngày say sưa chè chén, và má tôi thì đầu tắt mặt tối, lam lũ như một người đàn bà nhà quê. Còn ông Phan từ lâu được mô tả như là một trong những khuôn mặt lớn trong sinh hoạt chính trị Việt Nam, một người đang theo đường lối chính sách của Hoa Kỳ tại bán đảo Ðông Dương. Cũng có nguồn tin nói rằng ông Phan có khuynh hướng thân Pháp. Lý do là vì người cầm đầu chính phủ Pháp hiện nay trước kia từng là “copain” của ông. Họ đã từng cùng chiến đấu dưới một màu cờ tam tài trong cùng một binh chủng và ở cùng một đơn vị. Vai trò của ông Phan vì thế được chú ý một cách đặc biệt. Ông Phan, thí sinh số một đang được choàng hoa và đánh bóng kỹ nhất ở đây trong lãnh vực chính trị, đang cầm giữ tay tôi trong tay ông. Bàn tay ông mập mềm, rịn mồ hôi làm tôi ghê sợ. Tôi muốn rút tay ra, nhưng cái bắt tay đầy nhiệt tình của ông, và nhất là đôi mắt ông sáng lên thứ ánh sáng thân ái khiến tôi vừa không nỡ vừa không dám kéo tay ra.

Tôi không biết nói gì. Sự bỡ ngỡ làm tôi câm như hến. Tôi nhìn chăm vào mắt ông.

“Thưa ông bà, thật là một vinh hạnh lớn cho tôi.” Tôi nói như một kép cải lương.

Ông Phan có vẻ không quan tâm đến điều tôi nói.

Ông thả tay tôi ra, rồi đặt cả hai bàn tay ông lên vai tôi.

“Bà thấy không, nó giống anh Thành như đúc.”

Người đàn bà không trả lời chồng, chỉ khẻ gật đầu, nhìn tôi thiện cảm.

Sau cùng ông Phan nói:

“Mời cậu Thăng vào trong nhà. Chúng tôi có câu chuyện muốn bàn với cậu.”

Ông thu hai tay lại, hất hàm về phía người cận vệ.

“Xin mời ông!”

Theo chân người nhà ông Phan, tôi băng qua một phòng khách rộng, trần nhà cao, sơn trắng. Một chùm đèn lớn chụp pha lê treo giữa phòng tỏa ra một thứ ánh sáng vàng ấm áp. Bàn ăn đặt dài ở hai góc. Một quầy rượu đặt ở góc chéo cuối phòng.

Khách khứa, như tôi có thể hình dung trong trí, ăn mặc hợp thời trang, nói năng nhã nhặn lịch sự. Tuy vậy đám trẻ chiếm đa số, và người lớn có vẻ như là phụ huynh đi theo con để canh chừng chúng hơn là chính mình tham dự. Tôi thấy mấy người đàn bà tụ thành nhóm nhỏ, cười cười nói nói. Còn đám đàn ông với thuốc lá trên môi, ly rượu trên tay đang sôi nổi trò chuyện.

Ðiều rất giống nhau nơi họ mà tôi có thể nhận ra được ngay là quần quần áo áo. Họ ăn mặc đẹp và sang. Họ nói chuyện thời sự quốc tế và những đổi thay sắp tới trong Hội Ðồng Nội Các. Tuy vậy, lẫn giữa những vấn đề trọng đại của tình hình chiến sự tôi nghe được câu chuyện về màu sắc của chiếc cà vạt, loại vải mới để may bộ veste và giá tiền của một chiếc ô tô của một hãng danh tiếng.

Ði ngang qua quầy rượu, tôi dừng lại, nhón một quả ô liu và bưng một ly. Khi tôi quay lại người nhà ông Phan đã đi đàng nào. Tôi không gặp một ai quen trong đám khách ông Phan, nhưng thấp thoáng đâu đó tôi thấy một vài khuôn mặt đã từng xuất hiện trên truyền hình báo chí. Bỗng nhiên tôi nhớ đến đám bạn tôi. Giờ này ở Chợ Ðũi, có lẽ Ký đang đọc thơ, Nghĩa đang ngó lên trời cười một mình với cái ý tưởng “kinh tế học” nào đó trong đầu hắn, Lộc đang chửi thề, nhắc lại những ngày vui ở Paris… Có lẽ ngoài quán Cái Chùa, Phùng đang ngồi trước ly cà phê, chiếc kính cận tụt xuống sống mũi, Tâm đang đốt liên tu hồ tận những điếu thuốc đen, Ðình đang bàn chuyện cá ngựa, những “tuyệt phích” của ngày mai, và Nhật đang… “Rất ân hận”. Tôi dừng lại, nâng ly rượu lên trán, chào các bạn trong trí tưởng tượng và uống một hơi cạn…

Chỉ có chừng này thôi sao? Ðổi một buổi tối họp mặt bạn bè chỉ để nhìn ngó chừng này con người xa lạ, và uống một ly rượu?

Rượu, ở đâu mà chả có. Vả lại tôi đâu phải là bợm nhậu. Tôi uống kém nếu không muốn nói là tồi, dưới mức trung bình.

Ký vẫn gọi tôi là tên phá mồi. Nhưng, thiếu một thằng phá mồi trong một bữa nhậu cũng coi như là vắng một thằng nhậu…

Tuy vậy, tôi không phải thất vọng lâu. Ở cuối phòng, tôi thấy một khuôn mặt dễ thương, hai con mắt đen, tóc chải cao để lộ một chiếc trán bướng, áo màu tím sẫm, cổ hở rộng, giữa ngực là một chuỗi hạt lấp lánh trên một làn da trắng muốt… Vây quanh cô gái là các cậu trai ăn mặc như các công tử…

Người thiếu nữ nói, và sau mỗi câu nói của cô tôi nghe rộ lên những tiếng cười. Tôi không biết cô nói gì, nhưng rõ ràng là cô đang được tán thưởng. Sắc đẹp dù ở đâu cũng được tán thưởng (!).

-Xin lỗi giáo sư. Tôi tìm ông mãi!

Người nhà ông Phan chụp lấy tôi, mừng rỡ như tìm được món đồ tưởng đã mất.

-Cụ Phan muốn nói chuyện với giáo sư.

-Ngay bây giờ?” Tôi hỏi.

Hắn đưa tay dẫn đường

-Thưa giáo sư, lối này ạ!

Tôi khó chịu khi nghe ai gọi mình là giáo sư. Danh xưng ấy không hợp với tôi trên nhiều phương diện. Tôi dạy học bởi vì tôi không có khả năng chọn một nghề nào khác như lòng tôi mơ ước, chứ không phải vì tôi có thiên chức của một nhà giáo. Tôi nộp đơn vào binh chủng không quân ngay khi vừa đậu Tú Tài hai, nhưng mẹ tôi đã than khóc trì kéo. Bà nói nhà có hai đứa con trai. Thằng anh mày đi Biệt Ðộng Quân cũng đủ rồi. Mày phải ở nhà. Tao muốn mày học bác sĩ. Tôi vâng lời mẹ ghi danh theo học y khoa và tôi thất bại. Nghề đó không dính gì đến tôi. Tôi đậu vào Quốc Gia Hành Chánh và tôi đã bỏ nó ngay sau tuần lễ đầu. Tôi học Sư Phạm bởi vì một lẽ giản dị Ðà Lạt là một thành phố đẹp. Và một phần cũng vì cái học bổng ở đó tôi có thể tự nuôi thân tôi mà không làm phiền lụy ai.

Ði theo anh ta đến cuối phòng, ngang qua chỗ cô gái, tôi thấy hình như họ đang chơi một trò chơi gì đó. Cô gái chỉ tay vào mặt một cậu trai hỏi:

-Sẽ làm gì nếu tôi nói ghét anh?

Cậu trai do dự rồi đáp:

-Ðớp ngay hai tô phở!

Thiếu nữ phá lên cười và cả đám vỗ tay cười theo. Người nhà ông Phan mở cánh cửa nhỏ đưa tôi vào căn buồng, với tay bật nút điện. Sau đó anh ta nghiêng đầu chào tôi, rồi bước lui, nhẹ nhàng khép cửa bỏ lại tôi một mình.

Phòng giống như một thư viện loại bỏ túi. Hai bức họa khá lớn chiếm gần hết một mảng tường. Một tấm sơn dầu thuộc loại sao lại, là tác phẩm Tự Họa của Van Gogh, còn bức kia là của họa sư Utamoro Kitagawa vẽ hai diễn viên Kabuki. Phần còn lại là những kệ sách cao. Nhưng những cuốn ngang tầm mắt mà tôi có thể đọc được là Hồi Ký của Winston Churchill, Charles de Gaulle, André Malraux… Và ngay kệ dưới là Sứ Quân của Niccolo Machiavelli, Cuộc Chiến Ðấu Của Tôi của Adolf Hitler, Tư Bản Luận của Karl Marx, Dân Sự Bất Phục Tùng của Henry David Thoreau,…

Thật tình mà nói loại sách này tôi đọc chỉ là vì nghề nghiệp chứ không phải là ưa thích. Trong tủ sách tôi có một chỗ trang trọng dành cho Chùa Ðàn của Nguyễn Tuân, Thác Ðổ Sau Nhà của Võ Phiến, Bếp Lửa của Thanh Tâm Tuyền, Dòng Sông Ðịnh Mệnh của Doãn Quốc Sỹ, Những Vì Sao của Alphonse Daudet, Bà Bovary của Gustave Flaubert… nhưng thiếu chỗ cho Hữu Thể và Hư Vô của Jean-Paul Sartre, hoặc Siêu Hình Học Là Gì? của Martin Heidegger, hoặc Triết Lý Ðã Ði Về Ðâu? của Trần Ðức Thảo…

Dù sao tôi đã lấy ra khỏi kệ cuốn Sứ Quân của Machiavelli. Tôi lơ đãng lật từng trang sách và tôi dừng lại ở Chương Mười Bảy, màu mực đỏ gạch dưới hai câu:

“Ðộc ác hay độ lượng? Ðể cho dân sợ hãi hơn là dân thương mến?”

Bên lề trang sách có dòng chữ cũng màu đỏ “Trong cộng đồng nhân loại uy quyền xây trên nền tảng vũ lực!”

Tôi nghĩ tới ông Phan, chánh sách nào ông đang theo đuổi, liên hệ nào ông có với gia đình tôi? Hồi còn sống cha tôi không hề nhắc đến một người nào tên Phan. Tôi cố gõ cánh cửa ký ức nhưng chỉ là vô vọng. Ông Phan không có trong ngăn kéo của những hoài niệm tôi.

Nhưng không lâu lắm tôi nghe có tiếng gõ cửa, và tiếp ngay đó, cửa xịch mở. Ông Phan hiện ra giữa phòng, mang theo ánh sáng, âm nhạc và tiếng động bên ngoài.

Tôi đứng bật dậy với cuốn sách trên tay.

-Chắc cậu chờ tôi lâu lắm, phải không?

-Thưa ông…

Tôi xếp sách lại kẹp vào nách, đứng thẳng hai tay bắt chéo.

-Cậu đừng ngại”, ông ngắt lời.

-Cứ tự nhiên như ở nhà! Bất ngờ tôi có một ông khách trong ngoại giao đoàn…

Ông quay một ô trong kệ sách, bấm một chiếc nút, cánh cửa nhỏ bật ra, và tôi thấy những chai rượu tây xếp dọc trong tủ.

-Cậu Thăng uống loại gì nào?

-Cám ơn ông…

-Ðừng nói chuyện không biết uống rượu với tôi. Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh chứ, Remy Martin hay Hennessy nào?

-Dạ! Tôi ngập ngừng.

-Ðược! Vậy là tốt. Không khách sáo thế là tốt! – Ông Phan không hiểu tiếng dạ của tôi.

-Thưa ông, tôi có điều thắc mắc!

-Thắc mắc? Thôi để qua một bên đi. Trước hết hãy uống một ly mừng ngày gặp gỡ con trai anh Thành. Rồi sau muốn gì hẳn nói!

……

-Ba cậu là tay nhậu có hạng. Còn cậu thì sao? Thôi ngồi xuống đây đi cậu Thăng!

Ông đặt chiếc ly không lên bàn, kéo hộc tủ, lui cui lục lọi hồi lâu trong đống giấy tờ rồi mang đến trước mặt tôi một tấm ảnh đã ngả màu.

-Cậu có nhận ra người này là ai không?

Ngón tay ông trỏ lên khuôn mặt một người đàn ông râu ria xồm xoàm. Ðó là một người lính mặc áo trận rộng, tay phải chống lên hông, chỗ đeo cây súng ngắn, tay trái choàng qua vai một người lính khác lùn và gầy hơn. Cả hai rõ ràng là người Á Ðông đứng giữa những tên mũi lõ… Tôi ngước mắt nhìn ông Phan và bắt gặp ông cũng đang nhìn tôi.

Thật ra không cần nhìn kỹ tôi cũng có thể biết người có râu trong ảnh là ai. Trong phòng cha tôi cũng có một tấm như thế.

Hồi xưa ông nhiều râu hơn bây giờ.

Tôi nói với ông Phan:

-Thưa ông, tôi không rõ!

Ông Phan hơi nhíu mày.

-Có thật cậu không nhận ra người trong ảnh là ai sao?

Tôi gật đầu, mắt vẫn không rời ông.

-Vậy chứ anh Thành không còn tấm ảnh nào như tấm này sao?

-Thưa ông, không, tôi chưa hề thấy!

Ông Phan không nói gì. Ông cầm tấm ảnh, mở ngăn kéo, trả lại chỗ cũ.

-Hồi đám tang anh Thành cậu ở đâu? – Ông bất ngờ hỏi tôi.

-Thưa ông…

-Thôi, không phải ông ông tôi tôi khách sáo nữa. Cứ gọi tôi là bác, bác Phan. Như vậy cho nó thân mật. Tôi ít tuổi hơn anh Thành, nhưng bọn tôi là bạn thân, rất thân.

Tôi đứng lên, để ly rượu trên bàn, trả quyển sách lại chỗ cũ.

-Thưa ông… Vâng, thưa bác, hồi đó cháu đang ở Sài Gòn. Hay tin không lành của cha cháu trễ quá thành ra…

-Nghĩa là cậu không về kịp chứ gì?

-Vâng, thưa bác, cháu về đến nhà khi mọi việc xong xuôi.

-Ðúng. Ðám tang anh Thành không có cậu. Tôi đã được xem bộ ảnh, nhưng không thấy cậu!

Ông Phan làm tôi sợ. Quả thật những giây phút cuối cùng của cha tôi đã không có tôi bên cạnh. Cha tôi, người đàn ông rượu chè be bét đã ám ảnh tôi suốt một thời tuổi trẻ.

Mẹ tôi khóc hết nước mắt vì những cơn say dữ dội của ông. Tuổi trẻ của ông ra sao? Mẹ tôi không bao giờ nói, mà ông thì lúc nào cũng chỉ có điệp khúc sau đây: “Tao, Trần Lâm Thành, sĩ quan tốt nghiệp trường Võ Bị Dar-el-Beida, chiến đấu dưới màu cờ Pháp quốc, đã theo chân Tướng Juin đổ bộ lên Ý Ðại Lợi, được ân thưởng Ðệ Ngũ Ðẳng Bắc Ðẩu Bội Tinh và được tuyên dương công trạng mười hai lần trước hàng quân. Tao, người duy nhất dám vứt bỏ chức vụ cao cấp mà Nhà Nước Pháp tưởng thưởng để dấn thân vào công cuộc tranh đấu cho nền độc lập xứ sở mà ông X. đã đứng ra đề xướng. Nhưng tao, cũng chính tao, là người đã dám đứng lên phản đối ông X. trong vụ ký hiệp ước Sáu Tháng Ba. Tao bị bọn chúng lên án tử hình và đã thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Tao, tên say rượu để sống. Rượu đã cứu tao. Rượu là ân nhân của tao. Chúng mày là đồ giả trá, ti tiện; chúng mày là một lũ đầu trâu mặt ngựa… Tao đếch sợ thằng nào. Thằng nào chê rượu là thằng tồi. Tao không chê rượu. Rượu là bạn tao. Sư cha thằng nào chê rượu. Rượu muôn năm!!!”

-Hình như mấy lúc sau này anh Thành uống rượu hơi nhiều phải không cậu?

-Thưa bác, cha cháu uống hơi nhiều từ lâu, kể từ ngày ông anh cả cháu bị thương trong trận chạm súng với Việt Cộng ở Hậu Nghĩa.

Phải, mấy năm sau này rượu trở thành nhu cầu thường trực và cấp bách của cha tôi. Rượu làm ông tiểu tụy và bạc nhược.

Tóc ông trắng toát và dài như một đạo sĩ tà phái. Hai mắt ông thất thần, đỏ ngầu những đường gân máu. Phòng ông tràn đầy khói thuốc, mùi rượu nồng nặc.

Giờ đây, khi ông Phan nhắc đến cha tôi và cho tôi xem tấm ảnh – mà tôi vẫn còn giữ lại sau cái chết của ông – tôi mới ngỡ ngàng nhận ra người đứng bên cạnh là ông Phan, một ông Phan hơi nhỏ và gầy bên cạnh một người cao lớn là cha tôi. Tôi nghĩ là tôi có thể hiểu phần nào mối liên hệ giữa ông Phan và cha tôi. Nhưng tôi vẫn không hiểu vì sao cha tôi đã không nhắc gì đến ông Phan trong suốt những ngày ông sống với vợ con ông.

-Cậu Thăng, hôm nay tôi cho mời cậu đến đây trước hết là tôi muốn giúp đỡ cậu. Cậu là con anh Thành, nên tôi xem cậu cũng là con tôi. Có phải hiện giờ cậu đang dạy học?

-Thưa bác, phải.

-Ðó là một nghề cao quí. Chọn nghề này theo tôi, là đồng nghĩa với chọn trách nhiệm và bổn phận. Làm thầy giáo có nghĩa là phải gạt bỏ tất cả mọi bon chen trong cuộc đời. Thầy giáo rất gần với thầy tu. Nhưng…”

Ông Phan dừng lại giữa chừng câu nói, ngó chăm vào mắt tôi.

-…nhưng hình như cậu lầm lẫn trong việc chọn nghề. Cậu có thấy vậy không?

Tôi đã nhận thấy điều này từ lâu, có lẽ ngay từ ngày đầu khi mới bước chân vào lớp học. Thành phố Ðà Lạt thơ mộng, và ngôi trường đại học nơi tôi theo học cũng chứa bao nhiêu điều đẹp đẽ mà bất kỳ một tuổi trẻ nào cũng thèm muốn và ao ước. Tuy vậy tôi biết rõ giáo dục không phải là ngành thích hợp của tôi. Tôi yêu kính những người thầy từng dạy dỗ tôi, nhưng tôi cũng không ngừng phẫn nộ vì sự bất công mà họ đã dành cho tôi. Tôi run sợ trước mặt những ông thầy. Tôi luôn luôn là nạn nhân chua xót của họ. Từ tiểu học, qua trung học, lên đại học, các ông thầy bà cô nhìn tôi như một đối tượng để trút lên đó những bực dọc của cuộc đời khốn nạn của họ. Tôi là tấm bia để họ bắn vào đó những mũi tên mặc cảm. Và buồn thay, đúng như câu “ghét của nào trời trao của đó” tôi đã đâm sầm vào trường Ðại Học Sư Phạm. Ðỗ tú tài hai ban toán, mất một năm rong chơi ở Y khoa, sau khi bị mẹ rút đơn ra khỏi binh chủng Không Quân, bỏ trường Quốc Gia Hành Chánh, tôi nhảy tọt vào ban Triết.

Có nhiều lý do để biện minh cho việc chọn ngành của tôi, nhưng thâm tâm tôi, tôi biết dù thế nào đi nữa, mình vẫn là tên ngụy biện. Phải, tôi đã lầm lẫn trong việc chọn nghề. Nhưng biết làm sao! Tôi giống như cây mía đã róc vỏ, bị đun đẩy vào cái máy ép. Tôi chỉ có thể ra ở đầu kia chứ không thể lui lại ở đầu này. Tuy vậy tôi vẫn hỏi ông Phan:

-Thưa bác, bác có thể cho cháu biết rõ hơn nữa về nhận xét của bác?

-Sở dĩ tôi nói như vậy là vì tất cả những gì tôi biết về cậu đều có vẻ chống lại những gì cậu đang theo đuổi một nghề mà cậu không ưa thích. Tại sao?

Như vậy là người ta đã báo cáo cho ông Phan khá nhiều về tôi. Và ông Phan đã nhìn tôi bằng cái nhìn mà mọi người đang có về tôi. Tôi là một tờ giấy trắng có nhiều vết mực bẩn chăng?

-Thưa bác, có lẽ dạy học là nghề không thích hợp với cháu. Cháu ưa một cuộc sống khác hơn là cuộc sống cháu hiện có. Ðây là một lầm lẫn tai hại, và vô phương cứu chữa.

-Tại sao?

-Tại vì cháu là một người thụ động.

-Chà! Chà!”

Tôi nghe tiếng ông Phan chặc lưỡi.

-Cậu dạy Triết mà có cái lối lý luận kỳ lạ. Theo chỗ tôi biết thì hình như cậu là một người thành công trong nghề nghiệp mà! Phải vậy không?

Thế nào là thành công trong nghề dạy học? Câu ấy khó mà trả lời. Những ngày đầu tiên khi mới ra trường, được bổ nhiệm về Biên Hòa, tôi đã gặp ngay một khó khăn lớn. Học sinh tôi và tôi không cách biệt bao nhiêu về tuổi tác. Và bài học tôi thu được của nhà trường thật khác xa với bài giảng trong lớp. Tôi càng cố gắng hòa hợp với học sinh tôi, tôi càng bị đồng nghiệp nhìn tôi bằng con mắt khó hiểu. Tôi thực sự lo lắng cho học sinh. Và tôi biết rằng họ cũng quan tâm đến sự lo lắng của tôi. Nếu trong những năm về sau, khi đổi sang một trường khác tại Sài Gòn, một trường trung học lớn nhất Việt Nam, mà tôi có được chút ít thành công, chẳng qua là vì những học sinh của tôi – hoặc là họ thông minh chăm chỉ, hoặc là họ thực sự cố gắng – khiến họ có được điểu họ quyết tâm hơn là do tôi.

-Thưa bác, xin cám ơn bác. Cháu vẫn nghĩ là chưa bao giờ cháu thành công trong lãnh vực này. Cháu chẳng qua là người may mắn.

-Khiêm tốn là điều tốt, nhưng khiêm tốn quá coi chừng sẽ có hiệu quả trái ngược. Cậu hiểu chứ? Con Uyên nhà tôi nói là nó biết cậu, biết nhiều về cậu!

Ông Phan nhấn mạnh hai chữ biết nhiều. Tôi hiểu sự ám chỉ ấy như một lời chê trách.

-Nhưng thưa bác, cô Uyên là ai, cháu chưa biết!

Ông Phan đang nhồi thuốc vào tẩu, bỗng ngừng lại ngó chăm vào mắt tôi.

-Cậu không biết Uyên là ai thật à? Tôi tưởng là cậu có quen nó chứ!

Tôi thực tình không hề quen biết cô Uyên. Nhưng theo cách nói của ông Phan tôi phải hiểu là cô Uyên nào đó biết tôi. Tôi dạy học và có thể trong đám đông học sinh tôi có một thiếu nữ tên là Uyên. Tuy vậy, tôi nghĩ biết tôi là một việc, còn biết tôi nhiều là một việc hoàn toàn khác.

Ông Phan có phần ngạc nhiên về thái độ của tôi. Ông đặt tẩu thuốc xuống bàn, bấm cái chuông điện gắn trên hộc kéo. Cửa phòng mở và người cận vệ bước vào, đứng nghiêm, mắt ngó thẳng.

-Bẩm cụ, gọi con!

-Phải. Làm ơn mời cô Uyên vào giúp tôi.

Cánh cửa khép lại, ông Phan quay sang tôi.

-Con Uyên nhà tôi nói là gia đình cậu có chuyện lục đục sao đó. Phải vậy không?

-Thưa bác, phải. Nhưng cháu vẫn không hiểu làm sao mà cô Uyên có thể biết quá nhiều về cháu như vậy!

Có tiếng gõ cửa. Và không đợi ông Phan lên tiếng tôi thấy tay nắm xoay vòng và một cô gái bước vào, mang theo mùi hương phấn rất đàn bà.

-Thưa bố, gọi con!

-Phải!

Ông Phan bập bập cái tẩu. Tôi nhận ra cái nhìn hơi khác của cô gái, một cái gì hơi khựng lại khi mắt cô đụng vào mắt tôi. Tôi cũng vậy, tôi đã nhìn ra được người thiếu nữ. Hai con mắt đen, mái tóc chải cao, chiếc trán bướng, hàm răng nhỏ, đều, trắng; áo nhung tím than hở cổ, da trắng mướt, chuỗi hạt lấp lánh giữa ngực. Cô gái mà mới vừa cách đây mấy phút, tôi thấy rực rỡ giữa các cậu trai, cuốn hút như một thỏi nam châm.

Ông Phan nhấc tẩu thuốc ra thở khói, gõ gõ tẩu thuốc lên lòng bàn tay.

“Ðể bố giới thiệu con với anh…”

Rất nhanh, cô gái nghiêng đầu về phía tôi:

“Thưa bố, con có biết ông Thăng. Chào ông!”

“Không dám. Chào cô!”

Ông Phan ngồi xuống ghế.

“Sao con nói là con có quen anh Thăng?”

“Thưa bố, con nói là con có biết ông Thăng, chứ con đâu có nói là quen ông ấy…”

“Chà! Chà!” Ông Phan chặt lưỡi. “Vậy mà bố cứ tưởng là con có quen anh ấy đấy!”

Ông vỗ tro thuốc xuống gạt tàn. Tay ông mân mê những chân tóc trắng trên trán như đang lựa đếm những suy nghĩ trong đầu mình.

Uyên đứng tựa lưng vào bức tranh Van Gogh hơi mỉm cười nhìn tôi. Tôi thấy mình thừa thãi.

“Anh Thăng là con của bác Thành, bạn nối khố của bố. Bác Thành chẳng may qua đời, anh Thăng thì đang gặp một vài rắc rối. Bố muốn con coi anh Thăng như một người anh trong gia đình. Một người anh, con nghe rõ chứ?”

“Thưa bố, con nghe rõ. Nhưng…”

“Nhưng làm sao?”

“Bố để cho con tự nhiên. Con sẽ nhớ lời bố mà!”

“Tốt!”

Ông quay sang tôi. Hình như ông định nói tiếp một điều gì đó, nhưng vừa lúc ông hắng giọng bắt đầu câu chuyện thì chuông điện thoại reo.

“A lô! Tôi nghe đây… Vâng, xin cứ nói!”

Tôi thấy cằm ông Phan bạnh ra, hai hàm răng nghiến lại, đôi mắt nhỏ dưới chiếc kính lão nheo lại và thỉnh thoảng sáng lên một thứ ánh sáng kỳ lạ.

“Phải!… Ðúng!… Ông niên trưởng ngoại giao đoàn vừa ở nhà tôi ra… Sao?… Bao giờ?… Ngay bây giờ à?… Ừ!.. Ðược!… Mọi thành viên đều có đủ mặt chứ?… Vâng, xin thông báo tôi sẽ đến ngay!”

Ông đặt ống nói xuống. Hai tay xoa vào nhau. Ông cắn một hớp rượu. Các thớ thịt ở gò má ông cuộn lại. Tôi có cảm tưởng ông đang có một quyết định quan trọng nào trong đầu.

“Cậu Thăng. Tôi rất tiếc không thể nói hết câu chuyện với cậu. Tình hình chính trị đang có nhiều biến chuyển mới. Tôi không thể vắng mặt trong một cuộc họp quan trọng và khẩn cấp. Hẹn cậu một dịp khác. Uyên sẽ thông báo cho cậu nhé!”

Ông Phan bắt tay tôi. Cái bắt tay chặt chẽ thân mật, nhưng những ngón tay mập và nhão của ông vẫn không làm tôi bớt ghê sợ.

Ông bấm chuông. Người cận vệ như núp sẵn đâu đó, mở cửa bước ngay vào, đứng nghiêm.

“Anh nói với bác tài chuẩn bị xe. Anh đi với tôi nhé!”

“Bẩm cụ, vâng!”

Người cận vệ ra, ông Phan bước tới một bước, hôn trán con gái:

“Thôi bố phải đi! Con tiếp anh Thăng hộ bố nhé!”

Uyên không trả lời cha. Cô nắm tay cha bước theo ông. Ðến thềm cửa, đôi mắt đen quay lại tôi:

“Ông Thăng chờ tôi nhé!”

Còn một mình trong căn phòng đọc sách buồn bã, tôi ngắm bức Tự Họa của Van Gogh tưởng chừng như thấy khuôn mặt của chính mình.

Tôi nghĩ đến căn phòng trống trải của tôi, nơi mà lát nữa đây tôi sẽ trở về sống một mình không một ai chờ đợi.

Mãi về sau tôi vẫn không hiểu tại sao tôi không đến chào bà Phan, hay bà Phan không muốn gặp tôi!

Giới Thiệu - Chương 1

Tiến >>


Nguồn: sites.google.com/site/gsnguyenxuanhoang
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 28 tháng 7 năm 2020