Đối với Dawson Cole, những ảo giác bắt đầu xuất hiện sau vụ nổ trên giàn khoan, vào cái ngày anh suýt chết.
Trong suốt mười bốn năm làm việc trên các giàn khoan dầu, anh tưởng mình đã chứng kiến đủ mọi chuyện. Năm 1997, anh đã thấy một chiếc trực thăng mất điều khiển ngay khi đang chuẩn bị hạ cánh. Nó đâm sầm vào bệ đáp, nổ tung thành những quả cầu lửa rừng rực, và anh đã phải nhận những vết bỏng độ hai trên lưng khi cố gắng cứu người. Mười ba người thiệt mạng, đa phần trong số đó đang ở trong trực thăng lúc xảy ra va chạm. Bốn năm sau, khi một cái cần trục trên giàn khoan bị sập, một mảnh kim loại vỡ to cỡ quả bóng rổ văng ra suýt nữa thì cắt bay đầu anh. Năm 2004, anh là một trong số ít công nhân còn ở lại trên giàn khoan khi cơn bão Ivan ập đến với sức gió hơn trăm dặm một giờ, những cơn sóng lớn đến mức khiến anh tự hỏi liệu có nên đi tìm một chiếc dù phòng khi giàn khoan bị sập hay không. Nhưng trên đó còn có những mối nguy hiểm khác. Công nhân trượt tay, trượt chân, máy móc hỏng hóc, còn chảy máu, bầm giập thì là chuyện xảy ra như cơm bữa ở đây. Dawson không thể đếm xuể số lần người ta bị gãy xương, chưa kể đến hai vụ ngộ độc thực phẩm khiến toàn bộ công nhân bị ốm, và hai năm trước, năm 2007, anh chứng kiến một tàu tiếp tế chìm dần khi nó vừa mới tách khỏi giàn khoan, may mà được tàu tuần tra bờ biển gần đó cứu hộ vào phút cuối.
Nhưng vụ nổ lại là một chuyện khác. Bởi vì không hề có rò rỉ dầu - trong trường hợp này, các thiết bị an toàn và các thiết bị dự phòng đã ngăn chặn được phần lớn lượng dầu tràn - câu chuyện được đưa lên bản tin quốc gia nhưng chỉ sau vài ngày đã bị phần lớn mọi người quên bẵng đi. Nhưng với những người có mặt ở đó, bao gồm anh, vụ nổ ấy là một cơn ác mộng. Cho tới thời điểm vụ nổ xảy ra, buổi sáng hôm đó mọi việc vẫn diễn ra như thường lệ. Anh đang giám sát trạm bơm thì một trong những kho chứa dầu đột nhiên nổ tung. Anh còn chưa kịp hiểu chuyện gì xảy ra thì sức ép từ vụ nổ đã hất văng anh vào nhà kho bên cạnh. Sau đó, lửa bốc lên khắp nơi. Toàn bộ giàn khoan bị phủ trong dầu, nhanh chóng biến thành một địa ngục rực lửa nhấn chìm toàn bộ tòa kết cấu. Hai vụ nổ lớn tiếp theo làm khu giàn khoan rung chuyển càng dữ dội hơn nữa. Dawson nhớ rằng mình đã kéo được vài người ra xa khỏi đám cháy nhưng rồi vụ nổ thứ tư, lớn hơn cả ba vụ trước, hất tung anh lên không trung thêm lần nữa. Anh nhớ mang máng mình bị rơi xuống mặt nước, cái chết cầm chắc trong tay.
Nhưng rồi sau đó, anh đã thấy mình đang trôi dạt trên vịnh Mexico, cách vịnh Vermilion, Louisiana khoảng chín mươi dặm về phía Nam.
Giống đa số nhưng người khác, anh không có thời gian mặc áo phao hay vớ lấy một thiết bị cứu hộ nào, nhưng giữa những cơn sóng cồn, anh nhìn thấy một người đàn ông tóc đen đang vẫy tay từ phía đằng xa, tựa như đang ra hiệu cho anh hãy bơi về phía anh ta. Dawson lao về hướng đó, đánh vật với những cơn sóng biển, kiệt sức và choáng váng. Quần áo và ủng của anh kéo anh chìm xuống, đến khi chân tay bắt đầu mệt rã rời, anh biết mình sẽ chết. Anh tưởng đã đến gần đích lắm rồi, dù những đợt sóng biển khiến việc ước lượng khoảng cách trở nên vô cùng khó khăn. Ngay thời khắc ấy, anh phát hiện ra một chiếc phao cứu hộ đang trôi giữa những mảnh vỡ gần đó. Dùng hết sức lực còn lại, anh bám vào nó. Sau này anh mói biết được rằng mình đã ở dưới nước gần bốn tiếng đồng hồ và bị trôi dạt đi gần một dặm khỏi khu giàn khoan trước khi được một chiếc tàu tiếp tế cứu trợ hiện trường vớt lên. Anh được kéo lên tàu, được khênh xuống dưới boong và gặp lại những người sống sót khác. Anh run lẩy bẩy vì thân nhiệt giảm mạnh và choáng váng. Dù thị lực của anh giảm sút - sau này anh được chẩn đoán là bị chấn động não nhẹ - anh vẫn biết rõ mình đã may mắn đến thế nào. Anh thấy người thì bị những vết bỏng nghiêm trọng trên cánh tay và vai, người thì bị chảy máu tai hay có người đang phải cố định những chỗ bị gãy xương. Anh biết tên phần lớn bọn họ. Trên giàn khoan chỉ có một số nơi để cho mọi người lui tới - về bản chất thì giàn khoan giống như một ngôi làng nhỏ giữa đại dương - và sớm hay muộn thì mọi người cũng biết nhau ở phòng ăn, phòng giải trí hay phòng tập thể thao. Tuy nhiên có một người trông không quen lắm, dường như đang nhìn anh chằm chằm từ phía bên kia căn phòng đông đúc. Tóc đen và khoảng bốn mươi tuổi, anh ta mặc một chiếc áo gió màu xanh, có lẽ ai đó trên tàu đã cho mượn. Dawson nghĩ anh ta trông rất khác lạ, giống một nhân viên văn phòng hơn là công nhân giàn khoan. Người đàn ông vẫy tay, khiến anh đột nhiên nhớ lại hình ảnh anh đã thấy trước đó khi vẫn ở dưới nước - chính và người đàn ông đó - và ngay lập tức, Dawson cảm thấy tóc gáy anh dựng đứng. Anh còn chưa kịp tìm ra lý do khiến mình bứt rứt thì một cái chăn đã được khoác lên vai anh và anh bị dẫn về phía góc phòng, ở đó có một nhân viên y tế đang chờ để khám cho anh.
Đến lúc anh trở lại chỗ cũ thì người đàn ông tóc đen kia đã biến mất.
Trong những giờ tiếp theo, có thêm nhiều người sống sót được đưa lên thuyền, nhưng khi cơ thể dần ấm lại, Dawson bắt đầu băn khoăn về số phận của những người còn lại trong nhóm. Không hề thấy bóng dáng những người anh đã làm việc cùng trong nhiều năm. Sau này anh mới biết được rằng hai mươi tư người đã thiệt mạng. Phần lớn - nhưng không phải là tất cả - các thi thể cuối cùng cũng được tìm thấy. Khi dần bình phục trong bệnh viện, Dawson không thể ngừng nghĩ rằng có những gia đình còn không kịp nói lời vĩnh biệt người thân của họ.
Anh bị mất ngủ kể từ sau vụ nổ, không phải vì gặp ác mộng mà là vì không thể tống khứ được cái cảm giác mình đang bị theo dõi. Dù nghe qua có vẻ nực cười, nhưng anh cảm thấy như bị... ma ám. Cả ngày lẫn đêm, từ khóe mắt thỉnh thoảng anh bắt gặp có bóng dáng lướt qua, nhưng mỗi khi anh quay lại nhìn thì đều không có ai hay thứ gì ở đó để lý giải cho thoáng cử động kia. Anh tự hỏi không biết có phải mình mất trí rồi không. Bác sĩ cho rằng đây là phản ứng sau chấn thương, và rằng bộ não của anh có lẽ vẫn đang hồi phục từ cơn chấn động. Nghe có vẻ hợp lý, nhưng Dawson vẫn cảm thấy cách lý giải đó không đúng. Dẫu sao anh vẫn gật đầu đồng ý. Bác sĩ đã kê đơn thuốc ngủ cho anh, nhưng anh chẳng buồn mua thuốc để uống.
Anh được nghỉ phép sáu tháng ăn lương trong khi các thủ tục pháp lý diễn ra. Ba tuần sau đó, công ty đề nghị trả cho anh một khoản bồi thường và anh đồng ý ký các giấy tờ. Cho tới thời điểm đó, gần chục luật sư đã liên lạc với anh, tất cả bọn họ đều tranh đua để được là người đầu tiên đưa đơn kiện đại diện cho tập thể công nhân, nhưng anh không muốn rắc rối. Anh chấp nhận đề nghị bồi thường và gửi tiền vào ngân hàng ngay hôm nhận được séc. Số tiền anh có trong tài khoản đủ để một số người cho rằng anh là người giàu có, anh tới ngân hàng chuyển phần lớn số tiền vào một tài khoản ở quần đảo Cayman. Từ đó, tiền được chuyển tới tài khoản một công ty tại Panama đã được mở với yêu cầu tối thiểu về giấy tờ, rồi được chuyển tới điểm đến cuối cùng. Tiền, như mọi khi, gần như không để lại dấu vết nào để có thể lần theo.
Anh chỉ giữ lại một khoản đủ để trả tiền thuê nhà và một số chi phí khác.
Anh không cần nhiều, cũng không muốn nhiều. Anh sống trong một căn nhà lưu động nhỏ ở cuối con đường đất ở ngoại ô New Orleans, và những người nhìn thấy căn nhà có lẽ sẽ cho rằng ưu điểm chính của nó là không bị ngập lụt trong cơn bão Katrina năm 2005. Với lớp ván ốp tường bằng nhựa đã bị nứt và phai màu, căn nhà lưu động nằm kê trên những khối gạch xi măng, lớp móng tạm thời bằng cách nào đó đã trở thành vĩnh viễn theo thời gian. Căn nhà có một phòng ngủ kèm nhà tắm, một phòng khách chật hẹp và nhà bếp chỉ đủ chỗ để kê một chiếc tủ lạnh mini. Khả năng cách nhiệt gần như không có, và theo năm tháng độ ẩm đã làm nền nhà bị cong vênh, khiến anh luôn có cảm giác dường như đang đi trên một mặt nghiêng. Lớp lót sàn trong bếp bị nứt ở các góc nhà, cái thảm nhỏ thì cũ sờn, và anh đã bày trong không gian chật hẹp đó những đồ mua được từ các cửa hàng tiết kiệm trong những năm qua. Không hề có một bức ảnh nào tô điểm cho bức tường. Dù anh đã sống ở đó được gần mười lăm năm, nó giống một nơi để anh ăn, ngủ và tắm rửa hơn là nơi để anh gọi là tổ ấm.
Bất chấp tuổi đời, căn nhà gần như lúc nào cũng sạch sẽ giống như những ngôi nhà ở quận Garden. Dawson vốn là người rất gọn gàng ngăn nắp. Mỗi năm hai lần, anh sửa chữa các vết nứt và trám lại những khe hở để chống động vật gặm nhấm và côn trùng, và mỗi khi chuẩn bị trở lại giàn khoan, anh đều cọ rửa sàn bếp và sàn phòng tắm bằng chất khử trùng và dọn sạch những thức ăn có thể bị hỏng hay mốc khỏi tủ bếp. Anh thường làm việc liền ba mươi ngày rồi nghỉ ba mươi ngày, nên bất cứ thức ăn gì không thuộc dạng đồ hộp đều sẽ bị hỏng trong vòng chưa đến một tuần, đặc biệt là vào mùa hè. Khi trở về, anh lại lau dọn khắp nơi thêm một lần nữa và mở cửa thông khí để loại bỏ mùi ẩm mốc.
Dẫu vậy, căn nhà vẫn rất yên tĩnh, và đó thật sự là tất cả những gì anh cần. Nó cách đường cái khoảng bốn trăm mét, và nhà hàng xóm gần nhất thậm chí còn cách xa hơn thế. Sau một tháng trên giàn khoan, đó chính xác là điều anh muốn. Một trong những điều mà anh không bao giờ có thể quen được khi ở trên giàn khoan, đó là tiếng ồn không dứt. Tiếng ồn nhân tạo xuất phát từ những cái cần cẩu liên tục vận chuyển đồ tiếp tế, những chiếc trực thăng, máy bơm, tiếng kim loại đập vào nhau, nhưng tạp âm đó không bao giờ ngừng lại. Giàn khoan bơm dầu suốt ngày đêm, điều đó có nghĩa là ngay cả khi Dawson cố gắng ngủ, thì tiếng ồn inh tai kia vẫn tiếp tục vang lên. Anh đã cố gắng bỏ ngoài tai tiếng ồn khi ở trên giàn khoan, nhưng mỗi khi trở về căn nhà lưu động, anh vẫn ngỡ ngàng trước sự yên tĩnh gần thư không thể bị phá vỡ khi mặt trời lên cao. Sáng ra, anh có thể nghe thấy tiếng chim hót vọng vào từ những tán cây, và đến tối, vài phút sau khi mặt trời lặn, anh sẽ được nghe tiếng những chú dế và ếch đôi khi hòa nhịp cùng nhau. Âm thanh đó thường khiến anh thư thái, nhưng thỉnh thoảng nó khiến anh nghĩ về quê nhà, và khi điều đó xảy ra, anh thường đi vào nhà, cố xua đi những ký ức ấy. Thay vào đó, anh cố gắng tập trung vào những việc đơn giản thường ngày vốn chiếm trọn cuộc sống của anh mỗi khi trở về đất liền.
Anh ăn, ngủ, chạy bộ, nâng tạ và lái xe đi đây đó. Anh thường lái xe đi lang thang rất xa, không có đích đến cụ thể. Thỉnh thoảng anh đi câu cá. Mỗi đêm anh đều đọc sách và thỉnh thoảng viết một lá thư cho Tuck Hostetler. Chỉ có vậy. Anh không có ti vi hay radio, và mặc dù anh có điện thoại di động, nhưng trong danh bạ chỉ có những số điện thoại công việc. Mỗi tháng một lần anh đi mua đồ ăn và nhu yếu phẩm rồi ghé qua hiệu sách, nhưng ngoài những dịp đó ra anh chưa bao giờ đi lại khám phá New Orleans. Trong suốt mười bốn năm, anh chưa bao giờ tới đường Bourbon hoặc tản bộ qua khu phố Pháp; anh chưa bao giờ nhấm nháp cà phê tại quán Café Du Monde hoặc ghé qua quán bar Laffite’s Blacksmith Shop. Thay vì đến phòng tập, anh tập thể dục sau căn nhà lưu động, dưới mái che bằng vải bạt cũ sờn mà anh căng lên giữa căn nhà và nhưng cái cây. Anh không đi xem phim hay tụ tập ở nhà bạn bè khi đội Saints chơi vào các buổi chiều Chủ nhật. Anh đã bốn mươi hai tuổi nhưng chưa từng hẹn hò kể từ khi còn là thanh niên.
Hầu hết mọi người sẽ không sống hoặc không thể sống theo cách đó, nhưng họ không biết anh. Họ không biết con người anh trước đây ra sao hoặc anh đã làm những gì, và anh muốn mọi chuyện cứ giữ nguyên như thế.
Rồi đột nhiên vào một buổi chiều ấm áp giữa tháng Sáu, anh nhận được một cú điện thoại, và những kỷ niệm trong quá khứ lại trỗi dậy. Dawson nghỉ phép đã được gần chín tuần. Lần đầu tiên trong gần hai mươi năm, cuối cùng anh cũng trở về quê nhà. Ý nghĩ đó làm anh bứt rứt, nhưng anh biết mình không có lựa chọn nào khác. Tuck đối với anh không chỉ là một người bạn, mà còn như một người cha. Và trong không gian yên ắng, khi hồi tưởng lại cái năm đánh dấu bước ngoặt cuộc đời mình, anh lại thấy cái gì đó thoáng chuyển động. Khi anh quay lại, không hề có gì ở đó, và anh lại tự hỏi không biết có phải mình điên rồi không.
• • •
Cuộc gọi đến từ Morgan Tanner, một luật sư ở Oriental, Bắc Carolina, ông ta thông báo với anh rằng Tuck Hostetler đã qua đời. “Có một số vấn đề tốt nhất là nên trực tiếp xử lý,” Tanner giải thích. Phản ứng đầu tiên của Dawson sau khi gác máy là đặt vé máy bay và phòng tại một nhà nghỉ địa phương, rồi gọi cho cửa hàng hoa để đặt lịch giao hoa.
Sáng hôm sau, sau khi khóa cửa trước dẫn tới căn nhà lưu động, Dawson đi vòng ra đằng sau về phía nhà kho nơi anh đỗ ô tô. Hôm đó là thứ Năm, ngày mười tám tháng Sáu năm 2009, anh mang theo bộ vest duy nhất anh có và một chiếc túi vải buộc dây đựng đồ đạc mà anh đã gói ghém lúc nửa đêm khi không thể ngủ được. Anh mở khóa và cuốn cửa lên, nhìn ánh mặt trời chiếu vào chiếc xe mà anh đã phục hồi và sửa chữa kể từ khi học trung học. Đó là một chiếc Fastback đời 1969, kiểu xe từng khiến người ta phải ngoái đầu nhìn và thời Nixon làm tổng thống và ngày nay người ta vẫn phải ngoái nhìn nó. Trông nó như thể mới vừa lăn bánh ra khỏi dây chuyền lắp ráp, và trong những năm qua, có vô số người lạ đã đề nghị mua nó, nhưng Dawson đều từ chối. “Nó không chỉ là một chiếc xe,” anh nói với họ như vậy mà không giải thích gì thêm. Tuck sẽ hiểu chính xác anh ngụ ý điều gì.
Dawson ném túi vải vào ghế lái phụ và đặt bộ vest lên trên, đoạn luồn người vào sau tay lái. Khi anh xoay chìa khóa, tiếng máy khởi động ầm ầm vang lên, và anh lái xe lên con đường rải sỏi rồi mới nhảy ra khỏi xe để khóa nhà kho. Cùng lúc, anh điểm qua một danh sách trong đầu, để đảm bảo mình đã chuẩn bị đầy đủ tất cả mọi thứ. Hai phút sau, anh đã ra đến đường cái, và nửa tiếng sau đó anh đã đỗ xe trong bãi gửi xe dài hạn tại sân bay New Orleans. Anh ghét phải để xe lại nhưng không còn lựa chọn nào khác. Anh nhặt đồ lên rồi bắt đầu đi ra sân ga, một chiếc vé đang chờ anh tại quầy vé của hãng hàng không.
Sân bay đông nghẹt. Đàn ông và phụ nữ đi lại tay trong tay, những gia đình đi thăm ông bà hay tới công viên Disney World, sinh viên đi đi về về giữa nhà và trường học. Các doanh nhân tay kéo đống hành lý phía sau, miệng nói liến thoắng vào điện thoại di động. Anh đứng vào dòng người di chuyển chậm chạp và chờ cho đến khi tới lượt mình tại quầy vé. Anh xuất trình giấy tờ nhận dạng và trả lời các câu hỏi an ninh cơ bản rồi mới được nhận vé. Chuyến bay chỉ tạm nghỉ một lần tại Charlotte trong khoảng hơn một tiếng. Cũng không tệ. Một khi đã hạ cánh ở New Bern và nhận chiếc xe đã thuê, anh sẽ lái xe trên đường thêm bốn mươi phút nữa. Nếu không có bất kỳ sự chậm trễ nào, anh sẽ có mặt tại Oriental vào chiều muộn.
Đến khi ngồi vào ghế trên máy bay, Dawson mới nhận ra mình mệt mỏi đến vậy. Anh không rõ đêm qua mình đã ngủ thiếp đi vào lúc nào - lần cuối anh xem đồng hồ, lúc đó đã gần bốn giờ - nhưng anh tính là mình sẽ ngủ bù trên máy bay. Ngoài ra, cũng không hẳn là anh có nhiều việc để làm khi tới thị trấn. Anh là con một, mẹ anh đã bỏ đi khi anh ba tuổi, và bố anh đã giúp thế giới bằng cách uống say đến chết.
Đã nhiều năm Dawson không nói chuyện với bất kỳ ai trong gia đình, và giờ anh cũng không có ý định nối lại quan hệ với họ.
Đây là một chuyến đi ngắn, chỉ cần đến rồi đi. Anh sẽ làm việc phải làm và không định ở lại lâu hơn mức cần thiết. Có thể anh đã lớn lên ở Oriental, nhưng anh chưa bao giờ thực sự thuộc về nơi đó. Thị trấn Oriental mà anh biết không hề giống cái hình ảnh quảng cáo tươi vui của phòng du lịch địa phương. Đối với hầu hết những du khách trải qua một buổi chiều ở đó, Oriental là một thị trấn nhỏ quanh co, nổi tiếng với những nghệ sĩ, nhà thơ và những người về hưu, những người không muốn gì hơn là dành những năm tháng xế chiều để bơi thuyền trên sông Neuse. Trung tâm thị trấn có đủ vẻ cổ kính, với những cửa hàng đồ cổ, phòng trưng bày nghệ thuật, các quán cà phê, và những lễ hội hằng tuần nhiều hơn mức có thể có ở một thị trấn với dân số chưa được một nghìn người. Nhưng thị trấn Oriental thực sự, như anh biết khi còn là một đứa trẻ và khi là thanh niên, là nơi sinh sống của các gia đình có tổ tiên đã cư ngụ tại đây kể từ thời thuộc địa. Những người như thẩm phán McCall và cảnh sát trưởng Harris, Eugenia Wilcox, nhà Collier và nhà Bennett. Họ từ bao đời nay đã luôn sở hữu đất đai, trồng trọt canh tác, bán gỗ và thành lập các doanh nghiệp; họ là những người nắm giữ quyền lực ngầm trong cái thị trấn vốn luôn thuộc về họ. Và họ giữ thị trấn theo cách mà họ muốn.
Có một điều Dawson đã vỡ lẽ ra khi anh mười tám tuổi, và lại vỡ lẽ ra lần nữa vào năm hai mươi ba tuổi, cái năm rốt cuộc anh cũng quyết định đoạn tuyệt với nơi này. Thật không dễ dàng khi là một người nhà Cole sống tại hạt Pamlico, đặc biệt là ở thị trấn Oriental. Theo thư anh biết, truy ngược cây phả hệ gia đình về tận đời ông cố của anh thì mọi thành viên nhà Cole đều từng có thời gian ngồi tù. Nhiều thành viên trong gia đình từng bị kết án vì những tội như hành hung, ẩu đả, phóng hỏa, mưu đồ giết người, giết người; nơi cư ngụ của đại gia đình nhà Cole - khu nhà được xây ở vùng đất có núi đá và rừng cây - giống như một chốn biệt lập với luật lệ riêng của nó. Có vài căn nhà nhỏ xiêu vẹo, các căn nhà lưu động, và các nhà kho bỏ đi lác đác trên khu đất mà gia đình anh gọi là nhà, và trừ phi không còn lựa chọn nào khác, ngay cả cảnh sát trưởng cũng tránh lui tới nơi đó. Các thợ săn cũng tránh xa khu đất, họ đã đúng khi đoán rằng tấm biển KẺ XÂM NHẬP SẼ LẬP TỨC BỊ BẮN BỎ không đơn giản chỉ là một lời cảnh báo suông. Gia đình Cole toàn những kẻ buôn rượu lậu, buôn bán ma túy, nghiện rượu, những kẻ vũ phu, những ông bố bà mẹ thích hành hạ con cái, những kẻ trộm, chủ chứa, và trên hết, và những kẻ bạo lực một cách bệnh hoạn. Theo một bài báo đã được đăng trên một tờ tạp chí hiện đã giải thể, họ từng được coi là gia đình nguy hiểm nhất, nuôi thù chuốc oán nhiều nhất ở phía Đông Raleigh. Bố của Dawson cũng không phải là ngoại lệ. Ông ta đã dành hầu hết tuổi đôi mươi và những năm đầu tuổi ba mươi trong tù vì những tội ác khác nhau, trong đó có cả việc đâm một người đàn ông bằng dùi đục đá sau khi người đó dám ngáng đường ông ta. Ông ta còn hai lần bị xét xử nhưng rồi được tha bổng tội giết người sau khi các nhân chứng biến mất, và thậm chí các thành viên còn lại trong gia đình cũng hiểu ông ta đủ rõ để không chọc vào tổ kiến lửa. Tại sao mẹ anh lại lấy ông ta là câu hỏi mà Dawson không bao giờ có thể trả lời được. Anh không trách mẹ vì đã bỏ đi. Phần lớn thời thơ ấu của mình, chính anh cũng muốn bỏ đi. Anh cũng không trách mẹ vì đã không đưa anh đi cùng. Những người đàn ông trong gia đình Cole có tính chiếm hữu một cách lạ thường đối với con cái của mình, và anh chắc chắn bố sẽ săn lùng mẹ và đoạt lại anh bằng mọi cách. Bố anh đã hơn một lần nói với Dawson như vậy, và anh biết tốt hơn và không nên hỏi bố mình xem ông ta sẽ làm gì nếu như mẹ anh từ chối trả lại anh. Dawson đã biết sẵn câu trả lời.
Anh tự hỏi có bao nhiêu thành viên trong gia đình mình vẫn còn sống trên mảnh đất đó. Khi anh bỏ đi, ngoài bố anh ra, còn có ông nội, bốn người chú, ba người cô, và mười sáu anh chị em họ. Tới giờ, các anh chị em họ đã trưởng thành và có con cái, có lẽ số người nhiều hơn, nhưng anh không có mong muốn tìm hiểu. Đó có thể là thế giới mà anh đã lớn lên, nhưng cũng như Oriental, anh chưa bao giờ thực sự thuộc về nơi ấy. Có lẽ mẹ anh, bất kể bà là ai, có thể là lý do cho chuyện đó, nhưng anh không hề giống các anh chị em họ của mình. Trong số cái đám ấy, chỉ có mình anh là không bao giờ đánh lộn ở trường, và điểm số của anh cũng khá. Anh tránh xa ma túy và rượu, và khi còn là thiếu niên, anh cũng không đi cùng các anh chị em họ của mình khi họ và thành phố để kiếm chuyện, anh thường nói với họ rằng anh phải kiểm tra thiết bị chưng cất rượu hoặc giúp tháo rời một chiếc xe mà ai đó trong gia đình đã đánh cắp được. Anh ít nói và cố hết sức để càng ít gây chú ý càng tốt.
Đó là một việc khó khăn. Nhà Cole có thể là một băng nhóm tội phạm, nhưng thế không có nghĩa là họ ngu ngốc, và theo bản năng Dawson biết rằng anh phải cố hết sức để che giấu sự khác biệt của mình. Anh có lẽ là học sinh duy nhất trong lịch sử của trường đã học hành chăm chỉ nhưng lại cố tình trượt một bài kiểm tra, và anh đã tự học cách làm giả phiếu điểm để cho điểm số trông có vẻ kém hơn thực tế. Anh đã học cách bí mật đổ hết bia trong lon khi người khác quay lưng đi bằng cách dùng dao chọc vào lon, và khi dùng công việc như một cái cớ để lẩn tránh các anh chị em họ, anh thường làm việc vất vả đến tận nửa đêm. Cách đó có hiệu quả trong một thời gian, nhưng cái kim trong bọc rồi cũng có ngày lòi ra. Một trong những giáo viên của anh đã nói với một người bạn nhậu của bố anh rằng anh là học sinh giỏi nhất lớp; cô dì chú bác của anh bắt đầu chú ý thấy rằng trong số các anh chị em họ thì chỉ có anh là còn theo khuôn khổ pháp luật. Trong một gia đình đánh giá cao lòng trung thành và sự tuân thủ hơn hết thảy, anh lại khác biệt, và không có tội lỗi nào tồi tệ hơn thế.
Điều đó khiến bố anh tức giận. Mặc dù anh vẫn bị đánh đập thường xuyên kể từ khi mới biết đi - bố anh thích dùng thắt lưng và dây đai vào các mục đích khác nhau - nhưng đến khi anh mười hai tuổi, những trận đòn giáng xuống anh đã mang một tinh thần khác. Bố Dawson thường đánh anh cho đến khi lưng và ngực của anh thâm tím, rồi một tiếng sau đó lại quay lại và chuyển hướng sang mặt và chân anh. Các giáo viên biết chuyện, nhưng vì lo sợ cho gia đình của mình nên họ lờ đi. Cảnh sát thường vờ như không thấy những vết thâm tím và lằn roi khi Dawson đi bộ từ trường về nhà. Những người còn lại trong gia đình thì thấy chuyện đó chẳng sao cả. Abee và Ted Điên, hai người anh họ của anh đã hơn một lần bất thần xông vào đánh anh cũng nặng tay giống bố anh vậy - Abee đánh anh vì hắn nghĩ anh đáng bị đánh, Ted Điên đánh anh chỉ vì gã muốn thế. Abee cao lớn và vạm vỡ, có nắm đấm to khỏe, và kẻ bạo lực và nóng tính nhưng thông minh hơn những gì hắn để lộ ra bên ngoài. Ted Điên, trái lại là kẻ hung ác bẩm sinh. Ở lớp mẫu giáo, gã đã đâm bạn học bằng bút chì khi đánh nhau để giành một gói bánh, và trước khi rốt cuộc cũng bị đuổi học khỏi lớp năm, gã đã kịp khiến một bạn học khác phải nằm viện. Thiên hạ đồn rằng gã đã giết một con nghiện trong khi vẫn còn là một thiếu niên. Dawson nhận ra là tốt nhất không lên đánh lại, thay vào đó anh học cách che chắn khi chịu đòn, cho đến khi các anh họ của anh cuối cùng không chán thì cũng mệt lử, hoặc cả hai.
Tuy nhiên anh không chịu nối nghiệp gia đình và ngày càng quyết tâm là sẽ không bao giờ theo cái nghiệp đó. Theo thời gian, anh nhận ra rằng anh càng kêu la, bố anh càng đánh nhiều hơn, thế nên anh im lặng. Bố anh không chỉ bạo lực, mà còn thích ngược đãi, và theo bản năng Dawson biết rằng những kẻ thích ngược đãi chỉ đánh khi họ biết mình có thể thắng. Anh biết rồi sẽ đến lúc anh đủ mạnh mẽ để đánh lại, sẽ đến lúc anh không còn sợ bố mình nữa. Trong khi chịu những cú đòn giáng xuống, anh cố tưởng tượng ra sự dũng cảm mà mẹ anh đã thể hiện khi bà cắt đứt mọi quan hệ với gia đình.
Anh đã cố hết sức để đẩy nhanh quá trình. Anh buộc một bao chứa đầy vải vụn bên cây và đấm nó hàng giờ mỗi ngày. Anh nâng đá và các bộ phận máy móc thường xuyên nhất có thể. Anh tập xà, tập chống đẩy và gập bụng suốt ngày. Anh đã tăng được khoảng bốn cân rưỡi trước khi tròn mười ba tuổi, và tăng thêm khoảng chín cân nữa khi tròn mười bốn tuổi. Anh cũng cao hơn. Đến khi mười lăm tuổi, anh đã gần cao bằng bố mình. Vào một đêm, một tháng sau khi anh tròn mười sáu tuổi, sau khi nhậu nhẹt, bố anh tiến về phía anh với một chiếc thắt lưng, anh liền đứng thẳng dậy và giật nó khỏi tay bố mình. Anh nói với bố rằng nếu ông ta còn động vào anh lần nữa, anh sẽ giết ông ta.
Đêm đó, không còn nơi nào khác để đi, anh đã tạm trú tại gara của Tuck. Khi Tuck tìm thấy anh vào sáng hôm sau, Dawson đã xin ông cho một công việc. Ông không có lý do gì phải giúp Dawson, vì anh không những là một người lạ mà còn là một người nhà Cole. Tuck lau tay vào chiếc khăn nhét ở túi quần sau, và chăm chú thăm dò vẻ mặt anh trước khi lấy thuốc lá ra. Lúc đó, ông đã sáu mươi mốt tuổi, góa vợ đã được hai năm. Khi ông lên tiếng, Dawson có thể ngửi lấy mùi rượu trong hơi thở của ông, và giọng ông khàn khàn, hậu quả của việc hút thuốc lá không có đầu lọc hiệu Camel kể từ khi còn là một đứa trẻ. Khẩu âm của ông, cũng giống như Dawson, đặc chất đồng quê.
“Ta đoán cậu có thể tháo rời ô tô, nhưng cậu có biết gì về việc lắp chúng lại như cũ không?”
“Có, thưa ông,” Dawson đáp.
“Hôm nay cậu có phải đi học không?”
“Có, thưa ông.”
“Vậy thì hãy trở lại đây ngay sau khi tan học và ta sẽ xem cậu có thể làm những gì.”
Dawson đã trở lại và làm hết sức để chứng minh khả năng của mình. Sau khi anh làm xong việc, cả tối đó gần như mưa suốt, và lúc anh lẻn lại vào gara để tránh cơn bão thì thấy Tuck đã chờ sẵn.
Tuck không nói gì. Thay vào đó ông rít mạnh điếu thuốc hiệu Camel, nheo mắt nhìn Dawson mà không thốt một lời, và cuối cùng ông đi vào trong nhà. Từ đó Dawson không bao giờ ở thêm một đêm nào nữa trên mảnh đất của gia đình anh. Tuck không bắt anh trả tiền thuê nhà và Dawson tự mua thức ăn cho mình. Nhiều tháng trôi qua, và lần đầu tiên trong đời, anh bắt đầu nghĩ về tương lai. Anh ra sức tiết kiệm tiền, chỉ phung phí để mua chiếc Fastback từ một bãi phế liệu và mua những bình trà ngọt lớn từ quán ăn. Buổi tối sau khi xong việc, anh vừa sửa chữa chiếc xe của mình vừa uống trà, và mơ về việc đi học đại học, điều mà chưa một người nhà Cole nào từng mơ. Anh nghĩ đến việc nhập ngũ hoặc chỉ đơn giản là thuê một nơi cho riêng mình, nhưng anh còn chưa kịp thực hiện bất kỳ kế hoạch nào thì bố anh đã bất ngờ xuất hiện ở gara. Ông ta đi cùng Ted Điên và Abee. Hai người họ mang theo gậy đánh bóng chày, và anh có thể thấy một con dao lấp ló trong túi Ted.
“Đưa cho tao số tiền mày đã kiếm được,” bố anh nói thẳng thừng.
“Không.” Dawson trả lời.
“Tao biết mày sẽ nói thế, thằng nhóc. Vì thế tao đã đưa Ted và Abee tới đây. Chúng có thể đánh mày cho đến khi mày chịu nôn tiền ra, và cuối cùng tao cũng sẽ lấy được tiền, hoặc mày có thể đưa cho tao số tiền mày nợ tao vì đã bỏ đi.” Dawson không nói gì. Bố anh lấy một cây tăm ra xỉa răng.
“Nghe này, tất cả những gì tao phải làm để chấm dứt cái cuộc sống nhỏ bé của mày là phạm tội gì đó trong thị trấn. Có lẽ là một vụ trộm, hoặc một vụ phóng hỏa. Ai mà biết được? Sau đó, bọn tao chỉ việc gài một số chứng cứ, gọi một cú điện thoại nặc danh cho cảnh sát trưởng, và để cho pháp luật vào cuộc. Mày ở đây có một mình vào ban đêm nên sẽ không có chứng cứ ngoại phạm, và tao cũng chẳng quan tâm, mày có thể ngồi mục xương giữa đống sắt thép và bê tông suốt đời. Tao không quan tâm. Vì thế sao mày không đưa tiền ra luôn đi?”
Dawson biết bố mình không hù dọa suông. Cố không biểu lộ cảm xúc ra mặt, anh lấy tiền trong ví ra. Sau khi bố anh đếm tiền, ông ta nhổ cây tăm xuống đất và nhe răng cười.
“Tuần tới tao sẽ quay lại.”
Dawson cố gắng xoay xở. Anh cố cất riêng một ít trong số tiền kiếm được để tiếp tục sửa chữa chiếc Fastback và mua trà ngọt, nhưng phần lớn số tiền anh kiếm được đều rơi vào túi bố anh. Anh ngờ rằng Tuck cũng biết chuyện gì đang xảy ra, nhưng ông không bao giờ nói thẳng điều gì với anh. Không phải là vì ông sợ đám người nhà Cole, mà vì đó không phải là việc của ông. Thay vào đó, ông bắt đầu nấu nhiều đồ ăn hơn cho bữa tối. “Còn thừa một chút, nếu cậu muốn ăn thì cứ việc,” ông nói thế sau khi mang một đĩa đồ ăn ra gara. Ông thường quay trở vào nhà mà không nói gì thêm. Đó là kiểu quan hệ giữa bọn họ, và Dawson tôn trọng nó. Dawson tôn trọng Tuck. Theo cách riêng của mình, Tuck đã trở thành người quan trọng nhất trong cuộc đời anh, và Dawson không thể tưởng tượng ra bất kỳ cái gì có thể thay đổi điều đó.
Cho đến ngày Amanda Collier bước vào thế giới của anh.
Dù anh đã biết đến Amanda nhiều năm - chỉ có một trường trung học ở hạt Pamlico và anh đã học chung trường với cô gần như suốt thời học sinh - nhưng đến tận mùa xuân năm đầu trung học, lần đầu tiên họ mới trao đổi nhiều hơn một vài từ. Anh luôn nghĩ rằng cô xinh đẹp, nhưng không chỉ có anh nghĩ vậy. Cô nổi tiếng, là kiểu con gái luôn có các cô bạn ngồi cùng bàn trong quán ăn trong khi các cậu trai cố thu hút sự chú ý của cô, ngoài ra cô không những là lớp trưởng mà còn là đội trưởng đội cổ vũ. Chưa kể đến việc nhà cô rất giàu có, và tiếp cận được cô khó ngang tiếp cận một nữ diễn viên truyền hình vậy. Anh chưa bao giờ nói một câu nào với cô cho đến khi họ được ghép cặp trong phòng thí nghiệm hóa học.
Khi họ miệt mài với đống ống nghiệm và cùng học ôn chuẩn bị cho các bài kiểm tra trong học kỳ đó, anh nhận ra rằng cô không hề giống với những gì anh đã tưởng tượng. Trước hết, việc cô là một người nhà Collier và anh là một người nhà Cole dường như không có gì khác biệt với cô, điều đó khiến anh ngạc nhiên. Cô thường bật cười mà không kìm nén, và khi cô mỉm cười, nụ cười cô ẩn chứa vẻ ranh mãnh, như thể cô biết điều gì đó mà không ai khác biết được. Mái tóc cô vàng như mật ong, đôi mắt cô có màu của bầu trời mùa hè ấm áp, và thỉnh thoảng khi họ viết nguệch ngoạc những phương trình hóa học vào vở, cô thường chạm vào tay anh thay vì cất tiếng gọi anh và cái cảm giác đó thường đọng lại hàng giờ sau. Vào các buổi chiều, khi làm việc trong gara, anh thường thấy mình không thể thôi nghĩ về cô. Phải đến tận mùa xuân anh mới lấy hết can đảm để hỏi xem liệu anh có thể mua kem cho cô không, và đến cuối năm học, họ bắt đầu dành nhiều thời gian hơn cho nhau.
Đó là năm 1984, anh mười bảy tuổi. Khi mùa hè kết thúc, anh biết mình đang yêu, đến khi không khí dần se lạnh, và những chiếc lá mùa thu rơi xuống mặt đất như những dải ruy băng màu vàng và đỏ, anh chắc chắn rằng mình muốn dành cả cuộc đời ở bên cô, dù điều đó nghe thật điên rồ. Họ ở bên nhau trong năm tiếp theo, ngày càng gần gũi hơn và họ gặp nhau bất cứ lúc nào có thể. Với Amanda, anh có thể dễ dàng là chính mình. Có Amanda, lần đầu tiên anh thấy hài lòng với cuộc sống. Thậm chí cho tới tận bây giờ, khoảng thời gian đó đôi khi là tất cả những gì anh có thể nghĩ tới.
Hay chính xác hơn, Amanda và tất cả những gì anh có thể nghĩ tới.
• • •
Trên máy bay, Dawson đã yên vị ở chỗ ngồi. Anh ngồi gần cửa sổ ở giữa máy bay, cạnh một phụ nữ trẻ, tóc đỏ, tầm ba mươi lăm tuổi, chân dài, cao ráo. Không hẳn là típ anh thích, nhưng đủ xinh đẹp. Cô ta nghiêng về phía anh khi tìm đai an toàn và mỉm cười vẻ xin lỗi.
Dawson gật đầu, nhưng cảm nhận được rằng cô ta sắp bắt chuyện, anh liền quay ra nhìn chằm chằm qua cửa sổ. Anh nhìn xe chở hành lý rời xa khỏi máy bay, và như thường lệ anh đắm chìm vào những ký ức xa xôi về Amanda. Anh mường tượng lại những lần họ đi bơi ở sông Neuse mùa hè đầu tiên, cơ thể họ ướt đẫm khi chạm vào nhau; hay cô thường ngồi ghé lên bàn thợ trong khi anh sửa xe của mình trong gara của Tuck, tay cô ôm lấy đầu gối lúc này đang co lên, hình ảnh đó khiến anh nghĩ mình không muốn gì hơn là được nhìn cô ngồi như thế mãi mãi. Vào tháng Tám, cuối cùng anh cũng khiến chiếc xe chạy được lần đầu tiên, anh đã đưa cô tới bãi biển. Ở đó, họ nằm trên khăn tắm, nắm tay nhau và nói về những cuốn sách ưa thích của mình, những bộ phim thú vị, những bí mật và những ước mơ cho tương lai.
Họ cũng tranh cãi, và khi đó Dawson đã thoáng thấy được nét tính cách dữ dội của cô. Họ không thường xuyên bất đồng, nhưng cũng không phải hiếm khi mới xảy ra, đáng nói và dù mọi chuyện trở nên căng thẳng nhanh đến thế nào, thì hầu như chúng cũng luôn kết thúc nhanh như thế. Đôi khi họ tranh cãi vì nhưng điều nhỏ nhặt - Amanda là người vô cùng ngoan cố - và họ sẽ tranh cãi dữ dội trong một thời gian, thường là không có cách gì để hòa giải. Ngay cả trong những lúc thực sự giận dữ, anh cũng không thể không ngưỡng mộ sự thành thật của cô, sự thành thật xuất phát từ việc cô quan tâm đến anh hơn bất cứ ai khác trong cuộc đời anh.
Ngoài Tuck ra, không ai có thể hiểu được cô thấy gì ở anh. Dù ban đầu họ cố gắng che giấu mối quan hệ, nhưng Oriental là một thị trấn nhỏ, và việc mọi người bắt đầu xì xầm là không thể tránh khỏi. Dần dần từng người một, những người bạn của cô rời xa cô, và chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi bố mẹ cô biết được. Anh là một người nhà Cole và cô là một người nhà Collier, chỉ riêng việc đó thôi cũng đủ gây thất vọng. Ban đầu, bố mẹ Amanda bám vào niềm hy vọng rằng cô chỉ đơn giản là đang trải qua giai đoạn nổi loạn, và họ cố lờ nó đi. Khi việc đó không có hiệu quả, mọi chuyện trở nên khó khăn hơn với Amanda. Họ tịch thu bằng lái của cô và cấm cô dùng điện thoại. Và mùa thu, cô bị cấm túc hàng tuần trời và bị cấm ra ngoài vào cuối tuần. Không một lần nào Dawson được phép bước vào nhà họ, và lần duy nhất bố cô nói chuyện với anh là khi ông gọi anh là “một thứ da trắng rác rưởi”. Mẹ Amanda van xin cô chấm dứt mối quan hệ với anh, và đến tháng Mười hai thì bố cô hoàn toàn không nói chuyện với cơ nữa.
Sự thù địch xung quanh họ chỉ khiến Amanda và Dawson tiến lại gần nhau hơn, và khi Dawson bắt đầu công khai nắm tay cô ở nơi công cộng, Amanda siết chặt tay anh như thể thách thức bất cứ ai dám bảo cô buông ra. Có điều Dawson không phải là người ngây thơ, dù cô có ý nghĩa rất lớn đối với anh, nhưng anh luôn luôn có dự cảm rằng thời gian họ bên nhau sẽ không kéo dài mãi. Tất cả mọi thứ và tất cả mọi người dường như đều chống lại họ. Khi bố anh biết chuyện Amanda, ông ta đã hỏi về cô khi ghé qua tịch thu tiền lương của Dawson. Dù không có gì là công khai đe dọa trong giọng nói của ông ta, nhưng chỉ cần nghe ông ta thốt ra tên cô là Dawson đã có cảm giác lo lắng bồn chồn.
Vào tháng Giêng, cô bước sang tuổi mười tám, dù bố mẹ cô vô cùng giận dữ về mối quan hệ của cô với anh, họ cũng không thể đuổi cô ra khỏi nhà. Nhưng đến khi đó, Amanda đã không còn quan tâm xem họ nghĩ gì - hay ít nhất đó là những gì cô luôn nói với Dawson. Đôi khi, sau một trận cãi vã dữ dội với bố mẹ mình, cô thường lẻn ra khỏi cửa sổ phòng ngủ vào giữa đêm và đi tới gara. Thường thì anh sẽ chờ sẵn, nhưng đợi khi anh bừng tỉnh giấc khi cô huých nhẹ vào anh lúc nằm xuống tấm thảm mà anh trải trên sàn văn phòng của gara. Họ thường lang thang xuống nhánh sông và Dawson vòng tay ôm cô khi họ ngồi trên cành cây sà thấp của một cây sồi cổ thụ. Dưới ánh trăng, như được trút bầu tâm sự, Amanda sẽ kẻ lại trận cãi vã với bố mẹ mình, đôi khi giọng cô run rẩy, và cô luôn thận trọng để không làm anh tổn thương. Anh yêu cô vì điều đó, nhưng anh biết chính xác bố mẹ cô cảm thấy thế nào về anh. Một buổi tối, khi nước mắt trào ra từ bờ mi khép chặt của cô sau một trận cãi vã, anh nhẹ nhàng đề nghị với cô rằng có lẽ sẽ tốt hơn cho cô nếu họ ngừng gặp gỡ.
“Đó là điều anh muốn ư?” cô thì thầm, giọng lạc đi.
Anh kéo cô lại gần hơn, vòng tay ôm lấy cô. “Anh chỉ muốn em hạnh phúc,” anh thì thầm.
Khi đó cô dựa vào anh, ngả đầu vào vai anh. Ôm cô trong tay, anh chưa bao giờ ghét việc mình sinh ra là một người nhà Cole đến thế.
“Em hạnh phúc nhất là khi ở bên anh,” cô thì thầm.
Đêm ấy là lần đầu tiên họ làm tình. Suốt hai thập kỷ tiếp theo và sau nữa, anh luôn mang những từ ngữ và những ký ức của đêm ấy trong tâm trí, anh biết rằng cô đã nói thay cho cả hai người họ.
• • •
Sau khi hạ cánh ở Charlotte, Dawson vắt chiếc túi vải cùng bộ vest lên vai và bước ra cửa, vừa đi vừa điểm lại những ký ức về mùa hè cuối cùng bên Amanda, gần như không chú ý đến các hoạt động xung quanh mình. Mùa xuân năm đó, cô nhận được thông báo nhập học của Đại học Duke, ngôi trường mà cô mơ được vào từ khi còn là một cô bé. Nỗi ám ảnh về việc cô sắp đi xa, cùng với sự cô lập từ gia đình và bạn bè chỉ càng làm tăng thêm niềm khao khát muốn dành nhiều thời gian bên nhau của họ. Họ dành hàng giờ ở bãi biển, họ lái xe đi xa, vừa đi vừa bật radio ồn ã, hay có khi chỉ đơn giản là quanh quẩn trong gara của Tuck. Họ thề thốt là dù cô có đi xa thì mọi thứ sẽ gần như không thay đổi; anh sẽ lái xe tới Durham hoặc cô sẽ về thăm anh. Amanda chắc chắn là họ sẽ tìm được cách gì đó để tiếp tục mối quan hệ.
Tuy nhiên, bố mẹ cô lại có nhưng kế hoạch khác. Vào một buổi sáng thứ Bảy trong tháng Tám, hơn một tuần trước khi cô phải đi Durham, họ đã dồn ép cô trước khi cô kịp ra khỏi nhà. Chỉ có mẹ cô lên tiếng nhưng cô biết rằng bố cô hoàn toàn đồng ý với những gì bà nói.
“Chuyện này kéo dài thế là đủ rồi,” mẹ cô bắt đầu bằng giọng bình tĩnh một cách đáng ngạc nhiên, bà nói với Amanda rằng nếu cô tiếp tục gặp gỡ Dawson, cô sẽ phải dọn ra khỏi nhà vào tháng Chín và tự thanh toán các hóa đơn của mình, và họ cũng sẽ không trả tiền học đại học cho cô. “Tại sao chúng ta lại phải lãng phí tiền cho con học đại học khi mà con đang vứt bỏ cuộc đời của mình đi?”
Khi Amanda bắt đầu phản đối, mẹ cô nói át đi.
“Cậu ta sẽ kìm chân con, Amanda, nhưng ngay lúc này con vẫn còn quá trẻ để hiểu được điều đó. Nên nếu con muốn có được sự tự do của một người trưởng thành, con cũng sẽ phải thực hiện những trách nhiệm của một người trưởng thành. Cứ việc hủy hoại cuộc sống của con bằng cách ở bên Dawson - chúng ta sẽ không ngăn cản con. Nhưng chúng ta cũng sẽ không giúp đỡ con đâu.”
Amanda chạy vụt ra khỏi nhà, ý nghĩ duy nhất của cô là tìm Dawson. Lúc tới được gara, cô đã khóc đến mức không thể thốt nên lời. Dawson ôm chặt cô, lắng nghe từng mảnh rời rạc của câu chuyện khi những tiếng nức nở của cô cuối cùng cũng lắng xuống.
“Chúng ta sẽ sống cùng nhau,” cô nói, má vẫn ướt nước mắt.
“Ở đâu?” anh hỏi cô. “Tại đây? Ở gara này à?”
“Em không biết nữa. Chúng ta sẽ tìm ra cách giải quyết thôi.”
Dawson vẫn im lặng, mắt nhìn chăm chăm xuống sàn. “Em cần phải đi học đại học,” cuối cùng anh nói.
“Em không quan tâm đến trường đại học,” Amanda phản đối. “Em chỉ quan tâm đến anh.”
Anh buông thõng hai tay. “Anh cũng quan tâm đến em. Và đó là lý do tại sao anh không thể tước đoạt điều này khỏi em,” anh nói.
Cô lắc đầu, ngơ ngác. “Anh không tước đoạt gì của em hết. Mà là bố mẹ em. Họ đối xử với em như thể em vẫn còn là một con bé vậy.”
“Đó là vì anh, và cả hai chúng ta đều biết điều đó.” Anh đá chân xuống con đường đất. “Nếu em yêu ai đó, em phải để họ ra đi, phải không?”
Lần đầu tiên, ánh mắt cô lóe lên. “Và nếu họ trở lại, thì đó là định mệnh. Anh nghĩ chuyện này là như thế à? Một mối quan hệ sáo rỗng sao?” Cô nắm lấy cánh tay anh, ngón tay bấu chặt vào anh. “Mối quan hệ của chúng ta không phải là sáo rỗng,” cô nói. “Chúng ta sẽ tìm ra cách giải quyết. Em có thể xin làm phục vụ bàn hay gì đó, và chúng ta có thể thuê một nơi để ở.”
Anh giữ cho giọng bình tĩnh, buộc mình không vỡ òa. “Bằng cách nào? Em nghĩ bố anh sẽ ngừng những việc ông ta đang làm à?”
“Chúng ta có thể chuyển đến nơi khác.”
“Ở đâu? Với cái gì? Anh không có gì cả. Em không hiểu điều đó à?” Anh bỏ lửng các câu hỏi, và thấy cô không trả lời, cuối cùng anh nói tiếp. “Anh chỉ cố gắng thực tế. Chúng ta đang bàn về cuộc sống của em. Và... anh không thể là một phần của nó nữa.”
“Anh đang nói gì vậy?”
“Anh đang nói bố mẹ em nói đúng.”
“Anh không thật sự có ý đó.”
Trong giọng nói của cô, anh nghe thấy một cái gì đó gần như là sợ hãi. Mặc dù khao khát được ôm lấy cô, nhưng anh cố ý lùi lại một bước. “Về nhà đi,” anh nói.
Cô tiến về phía anh. “Dawson...”
“Không!” Anh quát, bước tránh ra. “Em không nghe anh nói sao? Kết thúc rồi, hiểu chứ? Chúng ta đã thử, nhưng không được. Cuộc sống vẫn tiếp tục.”
Mặt cô trắng bệch như sáp, gần như không còn sự sống. “Thế là kết thúc sao?”
Thay vì trả lời, anh buộc mình phải quay lưng và đi về phía gara. Anh biết rằng chỉ cần liếc nhìn cô thôi là anh sẽ đổi ý, và anh không thể làm thế với cô. Anh cúi người luồn xuống mui xe đang mở của chiếc Fastback, không để cho cô nhìn thấy những giọt nước mắt của mình.
Cuối cùng, khi cô đã rời đi, Dawson nằm xuống sàn bê tông bụi bặm bên cạnh chiếc xe, và ở đó hàng giờ cho đến khi Tuck đi ra và ngồi xuống cạnh anh. Suốt một lúc lâu, ông chỉ im lặng.
“Cậu đã kết thúc mọi chuyện,” cuối cùng Tuck cũng nói.
“Cháu buộc phải làm thế.” Dawson gần như không thể cất lời.
“Phải.” Ông gật đầu. “Ta cũng nghe được điều đó.”
Mặt trời lên cao đến đỉnh đầu, trùm lên tất cả mọi thứ bên ngoài gara một sự im lặng mang lại cảm giác gần như cái chết.
“Cháu làm vậy có đúng không?”
Tuck thò tay vào túi và lấy hộp thuốc lá ra, chưa vội trả lời. Ông lấy ra một điếu Camel.
“Ta không biết. Hai đứa hợp nhau một cách kỳ lạ, không thể phủ nhận điều đó. Và như thế càng khiến người ta khó quên đi.” Tuck vỗ nhẹ vào lưng anh và đứng dậy để đi. Ông đã nói nhiều hơn những gì ông từng nói với Dawson về Amanda. Khi ông bước đi, Dawson nheo mắt dưới ánh mặt trời và những giọt nước mắt lại lăn xuống. Anh biết rằng Amanda sẽ luôn là phần tốt đẹp nhất của anh, cái phần mà anh sẽ luôn khao khát được hiểu rõ.
Điều mà anh không biết và anh sẽ không được thấy hay nói chuyện với cô nữa. Tuần tiếp theo, Amanda chuyển vào ký túc xá của Đại học Duke, và một tháng sau đó Dawson bị bắt.
Anh trải qua bốn năm tiếp theo sau song sắt.
Chương 1
Tiến >>
Nguồn: TVE 4U
Được bạn: Mot Sach đưa lên
vào ngày: 10 tháng 11 năm 2024