Patricia đang khóc.
Wallace Price ghét phải thấy người khác khóc lóc.
Nước mắt ngắn, nước mắt dài, nức nở đến run rẩy cả người, kiểu nào cũng ghét. Nước mắt chẳng giải quyết được gì, và bà chỉ đang trì hoãn một chuyện bất khả kháng mà thôi.
“Làm sao cậu biết?” bà hỏi, hai má ướt đẫm, tay với lấy hộp khăn giấy trên bàn của hắn. Bà không thấy hắn cau mày. Có khi không thấy là tốt nhất.
“Sao mà tôi không biết cho được?” hắn trả lời. Hắn đan hai tay đặt trên bàn, cái ghế kêu kẽo kẹt khi hắn ngồi thẳng lại để đối mặt với điều mà hắn tin chắc sẽ là một hồi lu loa thảm thiết, trong lúc đó vẫn cố giữ cho lỗ mũi không phập phồng, mặt không cau có vì mùi thuốc tẩy pha Windex. Một trong mấy nhân viên ca đêm hẳn đã đánh đổ gì đó trong văn phòng của hắn rồi, cái mùi ấy nồng nặc và gay mũi. Hắn thầm ghi nhớ phải gửi tin nhắc nhở mọi người rằng mình có một cái mũi nhạy cảm, và người ta không thể bắt hắn làm việc trong điều kiện này được. Thế thì quá là man rợ.
Mành xếp trên cửa sổ văn phòng hắn đã được kéo xuống chắn nắng chiều, điều hòa phả gió rõ mạnh, giữ cho hắn tỉnh táo. Ba năm trước, có người từng hỏi họ có thể tăng nhiệt lên hai mốt độ được không. Hắn đã bật cười. Cảm giác ấm áp khiến người ta lười biếng. Khi bị lạnh, con người sẽ liên tục di chuyển.
Bên ngoài phòng, công ty hoạt động như một cỗ máy được bôi trơn kỹ càng, bận rộn và tự túc mà không cần chỉ dẫn gì đáng kể, đúng như Wallace muốn. Hắn sẽ không làm ăn được lâu đến chừng này nếu phải quản lý từng nhân viên một. Dĩ nhiên, hắn vẫn để ý trông coi, những người dưới trướng hắn biết họ phải làm việc như thể đó là vấn đề sống còn. Thân chủ của họ là những người quan trọng nhất quả đất. Khi hắn ra lệnh nhảy lên, hắn mong đợi những người nghe thấy làm đúng như vậy mà không hỏi mấy câu thừa thãi như nhảy cao bao nhiêu?
Điều này khiến hắn quay lại với Patricia. Cỗ máy đã trục trặc, và dù không có ai hoàn hảo, Wallace vẫn phải thay một linh kiện mới vào. Hắn đã làm lụng quá vất vả để mặc kệ cho công ty sụp đổ vào lúc này. Năm ngoái là năm đạt lợi nhuận cao nhất trong lịch sử công ty. Năm nay đang tiến triển còn khởi sắc hơn. Dù thế giới này đang ở trong tình trạng gì đi nữa, con người luôn phải kiện ai đó ra tòa.
Patricia xì mũi. “Tôi tưởng cậu không quan tâm.”
Hắn nhìn bà chằm chằm. “Tại sao bà lại nghĩ vậy kia chứ?”
Patricia rưng rưng mỉm cười với hắn. “Cậu không phải kiểu người đó mà.”
Hắn xù lông lên. Sao bà ta có thể nói ra câu đấy, nhất là với sếp của mình nữa. Lẽ ra hắn phải nhận ra từ mười năm trước khi hắn phỏng vấn bà cho vị trí trợ lý pháp lý rằng quyết định ấy sẽ có ngày cắn ngược lại hắn. Bà vốn là một người hoạt bát, nét tính cách mà Wallace từng tin rằng sẽ thuyên giảm theo thời gian, vì văn phòng luật sư không phải chỗ để hớn hở. Hắn mới sai lầm làm sao. “Dĩ nhiên tôi—”
“Chỉ là gần đây tình hình khó khăn quá,” bà nói, như thể hắn chưa từng lên tiếng. “Tôi đã cố kìm nén, nhưng lẽ ra tôi phải biết cậu sẽ nhìn ra ngay chứ.”
“Chính xác,” hắn nói, cố gắng lái cuộc trò chuyện về đúng đường. Hắn xử lý chuyện này càng nhanh thì càng tốt cho hai bên. Patricia sẽ nhận ra điều ấy thôi, vào một ngày nào đó. “Tôi nhìn ra ngay. Giờ thì, nếu bà vui lòng—”
“Và cậu có quan tâm mà,” bà nói. “Tôi biết là có. Lúc cậu tặng tôi giỏ hoa nhân ngày sinh nhật tháng trước là tôi đã biết rồi. Cậu thật tốt bụng quá. Dù trong đó không có thiệp mừng hay gì cả, tôi vẫn biết cậu định nói gì. Cậu trân trọng tôi. Và tôi cũng trân trọng cậu nhường ấy, cậu Price ạ.”
Hắn không biết bà ta đang nói về chuyện quái gì nữa. Hắn có tặng bà cái gì đâu. Đấy hẳn là thư ký của hắn rồi. Hắn sẽ phải nói chuyện với cô ta. Không cần phải tặng hoa. Để làm gì kia chứ? Ban đầu thì đẹp đấy nhưng rồi chúng héo đi, lá và cánh hoa xoắn lại và thối rữa, bày ra một đống lộn xộn ta vốn sẽ tránh được nếu ngay từ đầu không ai gửi chúng tới. Với suy nghĩ này trong đầu, hắn cầm cây bút Mont Blanc đắt đến lố bịch lên, viết xuống một dòng ghi chú (Ý TƯỞNG VIẾT LƯU Ý: CÂY CỐI THẬT KHỦNG KHIẾP VÀ KHÔNG AI ĐƯỢC BÀY CÂY Ở ĐÂY). Vẫn không ngẩng lên, hắn nói, “Tôi không định—”
“Kyle bị cho thôi việc hai tháng trước,” bà nói, và hắn mất một lúc, lâu hơn là bản thân muốn thú nhận, để xác định ra bà ta đang nói về ai. Kyle là chồng bà. Hắn đã gặp ông ta ở một buổi tiệc của văn phòng. Kyle đã say mèm, rõ ràng đang tận hưởng chỗ sâm panh mà văn phòng Moore, Price, Hernandez & Worthington phục vụ sau một năm thành công khác. Với khuôn mặt đỏ bừng, Kyle mua vui cho bữa tiệc bằng một câu chuyện mà Wallace không tài nào quan tâm nổi tới chi tiết, đặc biệt là khi Kyle dường như tin rằng to tiếng và phóng đại tô màu là cần thiết khi kể chuyện.
“Tôi rất tiếc khi nghe tin ấy,” hắn cứng nhắc nói, đặt điện thoại lên bàn. “Nhưng tôi nghĩ chúng ta nên tập trung vào vấn đề trước—”
“Ông ấy đang gặp khó khăn khi tìm việc,” Patricia nói, vo viên khăn giấy lại rồi lấy một tờ nữa. Bà lau mắt, lớp trang điểm nhòe đi. “Và chuyện này xảy ra vào thời điểm không thể nào xấu hơn. Con trai chúng tôi sẽ kết hôn vào hè này, và chúng tôi phải trả nửa tiền làm đám cưới. Tôi không biết chúng tôi sẽ xoay sở ra sao, nhưng chúng tôi sẽ tìm được cách thôi. Sẽ luôn tìm được. Chút gập ghềnh đường đời thôi ấy mà.”
“Mazel tov[1],” Wallace nói. Hắn còn không biết bà ta có con. Hắn không phải kiểu người đào bới đời tư của nhân viên. Con cái khiến ta phân tán tư tưởng, là điều hắn chưa bao giờ thích. Chúng khiến cha mẹ - tức nhân viên của hắn xin nghỉ việc vì những chuyện như biểu diễn hay đau ốm, làm cho người khác phải xoay sở đủ đường. Và vì bên Nhân sự đã khuyến cáo rằng hắn không thể yêu cầu nhân viên tránh lập gia đình (“Anh không thể bảo họ nuôi chó đi là được, anh Price ạ!”) hắn đã phải đối phó với những ông bố bà mẹ cần nghỉ buổi chiều để đi nghe con họ ậm ọe hay ré lên những bài hát về những hình khối và mây trời và những thứ vớ vẩn khác.
Patricia lại xì mũi ầm ĩ vào khăn giấy, một âm thanh dài và ướt át khủng khiếp khiến hắn nổi gai ốc. “Và còn con gái chúng tôi nữa. Tôi tưởng con bé chẳng có định hướng gì xong cuối cùng sẽ nuôi cả bầy chồn sương, nhưng rồi văn phòng lại tốt bụng cấp học bổng cho con bé, và cuối cùng nó cũng tìm được lối đi riêng. Lại còn là học trường kinh doanh nữa. Thật tuyệt vời phải không?”
Hắn nheo mắt nhìn bà. Hắn sẽ phải nói chuyện với các đồng sự. Hắn không biết họ còn cấp cả học bổng cơ đấy. Họ quyên tiền cho các hội từ thiện, đúng vậy, nhưng khoản thuế được miễn thừa đủ để bù vào chỗ tiền ấy. Hắn không biết họ thấy được lợi lộc gì trong việc trao tiền vào mấy chỗ lố bịch như trường kinh doanh, dù chuyện này cũng có thể cho qua được. Đứa con gái hẳn sẽ muốn làm những việc ngu xuẩn như mở nhà hàng hay thành lập một tổ chức phi lợi nhuận. “Tôi nghĩ tôi và bà hiểu từ tuyệt vời theo hai nghĩa khác nhau đấy.”
Bà gật đầu, nhưng hắn nghĩ người phụ nữ này chẳng lắng nghe gì. “Công việc này rất quan trọng với tôi, lúc này còn quan trọng hơn bao giờ hết. Nhân viên ở đây như một gia đình vậy. Chúng tôi đều hỗ trợ nhau, và tôi không biết mình sẽ trụ lại đến giờ bằng cách nào nếu không có họ. Và việc cậu cảm thấy có gì đó không ổn và gọi tôi vào đây để tôi có thể trút bầu tâm sự có ý nghĩa với tôi hơn cậu tưởng rất nhiều. Tôi không quan tâm người khác nói gì, cậu Price ạ. Cậu là một người tốt.”
Bà ta nói vậy là có ý gì? “Mọi người đang nói gì về tôi vậy?”
Bà tái mét. “Ồ, không có gì xấu đâu. Cậu biết họ nói thế nào mà. Cậu sáng lập văn phòng này. Tên cậu nằm trên tiêu đề thư. Chuyện ấy... thật đáng gườm.”
Wallace thả lỏng người. Hắn thấy khá hơn rồi đấy. “Phải, chà, tôi nghĩ đó là—”
“Ý tôi là, đúng vậy, người ta xì xào về chuyện cậu có thể lạnh lùng và tính toán ra sao và nếu có việc gì không được hoàn thành vào lúc cậu muốn, cậu cao giọng tới mức đáng sợ, nhưng họ không thấy cậu theo cách tôi thấy đâu. Tôi biết đó là vỏ bọc cho một con người chu đáo bên dưới những bộ âu phục đắt tiền mà.”
“Vở bọc à,” hắn lặp lại, dù hắn hài lòng rằng bà ngưỡng mộ khiếu thẩm mỹ của hắn. Âu phục của hắn xa xỉ thật. Nói cho cùng, chỉ toàn đồ tốt nhất thôi đấy. Đó là lý do tại sao một phần trong tài liệu chào đón nhân viên mới liệt kê thành gạch đầu dòng chi tiết trang phục phù hợp là những gì. Dù hắn không yêu cầu tất cả phải mặc đồ hàng hiệu (đặc biệt vì hắn có thể châm chước cho khoản nợ học phí), nhưng nếu có ai mặc đồ gì trông rõ là mua từ dãy hàng giảm giá, họ sẽ bị giáo huấn nghiêm khắc về việc phải giữ tự trọng trong khoản ngoại hình.
“Cậu ngoài cứng nhưng trong lại mềm như kẹo dẻo,” bà nói.
Cả đời hắn chưa bao giờ thấy bị xúc phạm hơn lúc này. “Bà Ryan—”
“Mời cậu cứ gọi Patricia thôi. Trước đây tôi đã bảo cậu như vậy nhiều lần rồi mà.”
Đúng vậy. “Bà Ryan,” hắn cứng rắn nói. “Dù tôi trân trọng sự nồng nhiệt của bà, nhưng tôi tin rằng chúng ta có những chuyện khác để thảo luận.”
“Phải rồi,” bà vội vã nói. “Dĩ nhiên rồi. Tôi biết cậu không thích người ta khen mình. Tôi hứa việc này sẽ không xảy ra nữa đâu. Nói cho cùng, chúng ta không ngồi đây để nói về cậu.”
Hắn nhẹ cả người. “Chính thế.”
Môi bà run rẩy. “Chúng ta ngồi đây để nói về tôi và tình hình gần đây đã trở nên khó khăn thế nào. Đó là lý do tại sao cậu gọi tôi vào đây sau khi bắt gặp tôi khóc trong phòng kho.”
Hắn đã tưởng bà ta đang ăn trộm vật tư và bụi bặm khiến bà nổi cơn dị ứng. “Tôi nghĩ chúng ta phải tập trung lại—”
“Kyle không chạm vào tôi,” bà thì thầm. “Đã nhiều năm trôi qua từ lần cuối tôi cảm nhận bàn tay ông ấy trên người mình. Tôi đã tự nhủ rằng đó là chuyện hay xảy ra khi một cặp đôi đã bên nhau quá lâu, và sự thực là ngày nào ông ấy cũng nằm dài trên sô pha nhìn chằm chằm vào hư không, nhưng tôi không thể ngăn mình nghĩ rằng còn có lý do khác.”
Hắn nhăn nhó. “Tôi không biết chuyện ấy có hợp lý để nói không, nhất là khi bà—”
“Tôi biết chứ!” bà thốt lên. “Ông ấy còn vô lý được đến mức nào nữa? Tôi biết tôi đang làm việc bảy mươi tiếng một tuần, nhưng yêu cầu chồng tôi thực hiện nghĩa vụ vợ chồng là quá đáng lắm ư? Việc ấy có ghi trong lời thề hôn phối của chúng tôi kia mà.”
Đám cưới đó hẳn là khủng khiếp lắm đây. Có khi họ đã tổ chức tiệc ở nhà trọ Holiday Inn. Không. Còn tệ hơn. Ở một nhà trọ Holiday Inn Express. Hắn rùng mình trước suy nghĩ ấy. Hắn chắc chắn họ còn hát karaoke nữa. Từ những gì hắn nhớ về Kyle (hầu như là ít ỏi vô cùng), ông ta hẳn đã hát một liên khúc Journey và White Snake trong khi tu ừng ực thứ mà ông trìu mền gọi là Brewski.
“Nhưng tôi không ngại làm nhiều giờ như vậy,” bà tiếp tục. “Đó là một phần của công việc. Tôi đã biết điều ấy khi cậu thuê tôi rồi.”
Ồ! Có sơ hở! “Nhắc đến chuyện thuê...”
“Con gái tôi xỏ khuyên vách mũi,” Patricia nói đầy đau khổ. “Trông nó như con bò vậy. Ôi cô bé của tôi, nó muốn một gã đấu bò đeo đuổi và đâm chọc nó.”
“Trời đất ơi,” Wallace lầm bầm, đưa tay xoa mặt. Hắn không có thời gian cho chuyện này. Nửa tiếng nữa hắn có một cuộc họp mà hắn cần phải chuẩn bị.
“Tôi biết mà!” Patricia thốt lên. “Kyle nói rằng đó là một bước trong quá trình trưởng thành. Rằng chúng tôi phải để nó sải cánh bay và tự vấp ngã. Tôi đâu biết rằng làm vậy tức là để cho nó xỏ một cái khuyên chết tiệt vào mũi! Và thôi đừng bắt tôi nhắc tới con trai tôi nữa.”
“Được thôi,” Wallace nói. “Sẽ không đâu.”
“Nó muốn nhà hàng Applebee’s phục vụ cho đám cưới. Applebee’s đấy.”
Wallace há hốc mồm trong kinh hoàng. Hắn không biết việc lên kế hoạch đám cưới dở tệ còn mang tính di truyền cơ đây.
Patricia giận dữ gật đầu. “Nó làm như chúng tôi có khả năng ấy. Tiền có phải từ trên trời rơi xuống đâu! Chúng tôi đã cố hết sức mình để truyền cho lũ trẻ khả năng nắm bắt tài chính, nhưng khi còn trẻ, không phải lúc nào ta cũng nắm chắc chuyện tiền nong. Và giờ khi vợ sắp cưới của nó có bầu, nó đang quay sang chúng tôi xin giúp đỡ.” Bà thở dài đầy phóng đại. “Lý do duy nhất để tôi còn dậy được vào buổi sáng là biết rằng tôi có thể đến đây và... trốn khỏi tất cả những việc ấy.”
Hắn cảm thấy trong ngực mình co thắt một cách kỳ cục. Hắn xoa xoa xương ức. Nhiều khả năng là trào ngược. Lẽ ra hắn nên bỏ qua món thịt hầm cay. “Tôi rất vui khi chúng tôi có thể làm một nơi cho bà trốn khỏi cuộc sống của mình, nhưng đó không phải là lý do tôi gọi bà tới cuộc họp này.”
Bà sụt sịt. “Ồ?” Bà lại mỉm cười. Nụ cười lần này rạng rỡ hơn. “Vậy thì vì chuyện gì vậy, cậu Price?”
Hắn nói, “Bà bị sa thải.”
Bà chớp mắt.
Hắn chờ đợi. Chắc chắn là bây giờ bà ta đã hiểu ra, và hắn có thể quay lại làm việc.
Bà nhìn ra xung quanh, trên mặt là nụ cười hoang mang. “Đây là cái kiểu chương trình thực tế bây giờ ư?” Bà bật cười, vẻ hồ hởi ngày xưa mà hắn tưởng đã bị tống khứ từ lâu giờ thoáng hiện về. “Cậu đang ghi hình tôi đấy à? Ai đó sẽ nhảy ra và hét lên ngạc nhiên chưa à? Chương trình ấy tên là gì ấy nhỉ? Bạn bị sa thải, nhưng không phải đâu?”
“Tôi không nghĩ vậy đâu,” Wallace nói. “Tôi chưa cho phép ai ghi hình tôi hết.” Hắn nhìn xuống cái túi đặt trong lòng bà. “Hoặc thu âm lời tôi.”
Nụ cười của bà phai nhạt đôi chút. “Vậy thì tôi không hiểu. Ý cậu là gì?”
“Tôi không biết làm cách nào để giải thích rõ ràng hơn, bà Ryan ạ. Kể từ hôm nay, bà không còn làm việc cho Moore, Price, Hernandez & Worthington nữa. Khi bà ra khỏi đây, bảo vệ sẽ cho phép bà thu thập đồ đạc, rồi bà sẽ được hộ tống ra khỏi tòa nhà. Phòng Nhân sự sẽ mau chóng liên lạc về bất kỳ giấy tờ cuối cùng nào bà cần trong trường hợp bà muốn đăng ký... à, nó gọi là gì nhỉ?” Hắn lật qua những trang giấy trên bàn. “À, phải rồi. Trợ cấp thất nghiệp. Vì có vẻ như, ngay cả khi thất nghiệp, bà vẫn được chính phủ bú mớm cho bằng tiền thuế của tôi.” Hắn lắc đầu. “Vậy nên, theo một cách nào đó, việc này giống như tôi vẫn đang trả lương cho bà vậy. Chỉ là không bằng trong khi đang làm ở đây. Vì bà không làm ở đây nữa.”
Bà không còn cười nữa. “Tôi... sao cơ?”
“Bà bị sa thải,” hắn chậm rãi nói. Hắn không biết chỗ nào khó hiểu đối với bà ta đến vậy.
“Tại sao?” Bà hạch hỏi.
Giờ họ mới đang nói chuyện đây. Những câu hỏi tại sao trong mọi vấn đề là sở trường của Wallace. Hắn không có gì ngoài sự thực. “Vì đơn đệ trình amicus[2] trong vụ Cortaro. Bà nộp đơn muộn hai tiếng so với hạn chót. Lý do duy nhất khiến nó được thông qua là vì Thẩm phán Smith nợ tôi một ân tình, và ngay cả điều đó cũng suýt nữa không có tác dụng. Bà đã có thể khiến văn phòng mất hàng nghìn đô la, và khoản đó còn không đủ để bồi thường thiệt hại mà việc này sẽ gây ra cho thân chủ của chúng ta. Sai sót kiểu đó sẽ không được dung túng đâu. Tôi cảm ơn bà vì những năm tháng cống hiến cho Moore, Price, Hernandez & Worthington, nhưng tôi e rằng chúng tôi không cần tới sự phục vụ của bà nữa.”
Bà đứng bật dậy, chân ghế trượt ken két trên sàn gỗ cứng. “Tôi không nộp muộn đơn đó.”
“Có đấy,” Wallace điềm tĩnh nói. “Tôi có ghi chép thời gian từ văn phòng thư ký ở đây nếu bà muốn xem.” Hắn gõ ngón tay lên tập hồ sơ đặt trên bàn.
Mắt bà nheo lại. Ít ra bà không khóc nữa. Wallace có thể xử lý cơn giận. Vào ngày đầu tiên ở trường luật, người ta dạy hắn rằng luật sư, dẫu là ngành không thể thiếu trong một xã hội vận hành trôi chảy, sẽ luôn là tâm điểm của sự giận dữ. “Kể cả tôi có nộp muộn đi nữa, tôi chưa từng mắc lỗi nào giống vậy trước đây. Chỉ một lần đấy thôi.”
“Và bà có thể yên tâm nghỉ ngơi khi biết rằng bà sẽ không mắc lỗi nào như vậy nữa,” Wallace nói. “Vì bà không còn làm ở đây nữa.”
“Nhưng... nhưng chồng tôi. Và con trai tôi. Và con gái tôi thì sao!”
“Phải rồi,” Wallace nói. “Tôi mừng là bà đã nhắc tới chuyện ấy. Rõ ràng là, nếu con gái bà đang nhận bất kỳ loại học bổng nào từ chúng tôi, giờ học bổng ấy cũng sẽ bị hủy bỏ.” Hắn nhấn nút trên điện thoại bàn. “Shirley? Cô làm ơn nhắn với Nhân sự rằng con gái của bà Ryan không còn nhận học bổng từ chúng ta nữa được không? Tôi không biết chi tiết ra sao, nhưng tôi chắc chắn rằng họ có tờ đơn nào đó phải điền và tôi phải ký. Làm ngay đi.”
Giọng thư ký của hắn lẹt xẹt qua loa ngoài. “Vâng, anh Price.”
Hắn ngẩng lên nhìn cựu thư ký pháp lý của mình. “Đó. Thấy chưa? Tất cả đều được xử lý rồi. Giờ thì, trước khi bà đi, tôi sẽ yêu cầu bà nhớ rằng chúng ta là những người chuyên nghiệp. Không cần phải la hét hay ném đồ đạc hay buông những lời đe dọa mà chắc chắn sẽ bị coi là phạm pháp. Và, nếu có thể, xin bà hãy đảm bảo rằng mình không lấy đi bất kỳ thứ gì thuộc về văn phòng khi dọn bàn. Người thay thế bà sẽ vào làm vào thứ hai, và tôi không muốn nghĩ cô ta sẽ ra sao khi thiếu mất dập ghim hay dụng cụ cắt băng dính đâu. Bất kỳ thứ đồ linh tinh nào bà tích trữ đều là của bà, dĩ nhiên rồi.” Hắn chọc quả bóng giảm căng thẳng có in logo của văn phòng đặt trên bàn. “Mấy thứ này thật tuyệt vời, phải không nào? Hình như tôi nhớ là bà đã lấy một cái để kỷ niệm bảy năm làm việc ở văn phòng. Mang theo cái này đi, cùng với lời chúc phúc của tôi. Tôi có linh cảm rằng nó sẽ hữu ích đấy.”
“Cậu nói thật đấy à,” bà thì thầm.
“Thật như lên cơn đau tim vậy,” hắn nói. “Giờ thì, nếu bà cho phép, tôi phải—”
“Cậu... cậu... cậu là đồ ác ôn!” bà hét lên. “Tôi yêu cầu cậu xin lỗi tôi!”
Dĩ nhiên bà ta sẽ muốn vậy rồi. “Lời xin lỗi sẽ ám chỉ rằng tôi đã làm sai điều gì đó. Tôi không sai. Ngược lại, bà nên xin lỗi tôi mới phải.”
Tiếng thét gào trả lời của bà ta không chứa đựng lời xin lỗi nào cả.
Wallace vừa giữ bình tĩnh vừa nhấn nút trên điện thoại lần nữa. “Shirley? Bảo vệ đến chưa?”
“Rồi ạ, thưa anh Price.”
“Tốt. Cho họ vào trước khi bà ta ném thứ gì đó vào đầu tôi.”
Lần cuối cùng Wallace Price thấy Patricia Ryan là khi một người dàn ông to cao tên Geraldo lôi bà ra ngoài, trong lúc bà ta quẩy đạp và la hét, rõ ràng là đã lờ đi cảnh cáo của Wallace về những lời đe dọa phi pháp. Hắn buộc phải thấy ấn tượng trước việc bà Ryan một lòng một dạ muốn nhét thứ mà bà ta gọi là thanh cời nung nóng xuống họng hắn tới khi nó - theo lời bà ta - xuyên qua vùng nhạy cảm và gây ra đau đớn khôn cùng. “Bà sẽ thành công thôi!” hắn gọi với ra từ ngưỡng cửa văn phòng, thầm biết rằng cả tầng đang lắng nghe. Hắn muốn đảm bảo rằng họ biết hắn có quan tâm. “Khi một cánh cửa khép lại, một cửa sổ khác sẽ mở ra và vân vân.”
Cửa thang máy khép lại, cắt đứt tràng chửi rủa của bà.
“À,” Wallace nói. “Tốt hơn rồi đấy. Nào mọi người, quay lại làm việc thôi. Hôm nay là thứ Sáu không có nghĩa là quý vị được lười nhác đâu đấy.”
Ngay lập tức mọi người bắt đầu hoạt động.
Tuyệt vời. Cỗ máy lại vận hành trơn tru rồi.
Hắn quay vào văn phòng, đóng cửa lại sau lưng.
Hắn chỉ nghĩ tới Patricia một lần nữa vào chiều hôm đó khi nhận được email từ trưởng phòng Nhân sự, nói với hắn rằng cô ta sẽ xử lý khoản học bổng. Cơn nhức nhối trong ngực hắn lại nhói lên, nhưng không sao cả. Hắn sẽ dừng lại mua một chai Tums[3] trên đường về. Hắn không nghĩ tới cơn đau - hay Patricia Ryan - nữa. Phải luôn nhìn về phía trước, hắn vừa tự nhủ vừa chuyển email kia sang thư mục đề tên PHIỀN HÀ NHÂN SỰ.
Luôn nhìn về phía trước.
Hắn thấy vui vẻ hơn. Ít ra giờ văn phòng đã yên tĩnh rồi.
Tuần sau, trợ lý pháp lý mới sẽ bắt đầu làm việc, và hắn sẽ đảm bảo rằng cô ta biết hắn không nương tay với sai sót. Tốt hơn là gieo rắc sợ hãi từ sớm thay vì đối phó với sự kém cỏi về sau.
✽
Nhưng hắn không bao giờ có được cơ hội ấy.
Thay vào đó, hai ngày sau, Wallace Price lìa đời.
Chú thích:
[1] Mazel tov: Một câu nói của người Do Thái, dùng để chúc mừng hoặc chúc may mắn.
[2] Amicus curiae: trong tiếng latin có nghĩa là Thân Hữu của Tòa, là một loại đơn đệ trình trong hệ thống pháp lý của Hoa Kỳ, được cá nhân hoặc nhóm người thứ ba có quan tâm tới vụ kiện gửi tới tòa án để gây ảnh hưởng lên phán quyết của tòa.
[3] Một sản phẩm hỗ trợ điều trị bệnh dạ dày.
Chương 1
Tiến >>
Nguồn: NXB Thế giới - @huyetleid0907
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 7 tháng 4 năm 2025