Nắng Lóa

tru sa

viết riêng cho một người

Anh trai tôi còn rất trẻ, tôi thì không. Tuổi đời tôi không nhiều hơn bất cứ ai đã vãn tuổi thanh xuân. Thế hệ của những kẻ ngã ngựa, đại loại thế, lũ người thất bại trong sinh kế và cố tìm kiếm chút hy vọng cỏn con, ai dè chỉ mua được rượu nhái, hóa chất trăm phần trăm. Hôm trước trời nắng, hôm này cũng vậy. Số ngày nắng lẫn mưa đếm nhiều không xuể. Một năm biết bao nhiêu lần trời nắng, thứ nắng hiền như mưa xuân, nắng chói mắt, nắng hong rát da, nắng lập lòe theo đám mây trắng, nắng đồng lõa với mưa khiến người đi đường lúi húi, những lần nắng oi tắm ướt người, này nữa những cuộc tàn phá không kiếm không dao giết khô bao cây cối, nấu sôi ao hồ còn con người như đàn cá ngắc ngoải dưới mặt trời. Nắng véo ngón tay vô hình khiến ai cũng cáu kỉnh, lá bàng vàng thêm, cả người lẫn chó mèo náu vào các góc khuất, sau cánh cổng gỗ hoặc quán café kéo hết kính, hít hà khí lạnh điều hòa. Người lao động giấu mình dưới gánh hàng, cố ngủ vùi với nguyện ước về một cơn mưa. Phố xá hoang đi và cũng sắc lên trong làn sáng vàng nghiệt ngã. Một quang cảnh rất lửa đang dần mờ đi trong tầm mắt mặn chát mồ hôi.

Giữa những ngày nắng vừa phải với chút gió gợn, thậm chí thiếu thốn gió miễn là khí hậu nhẹ như hơi thở, tôi rời thành phố. Bắt một chuyến xe ngắn, có lúc tôi đạp xe bởi chặng đường đến chỗ anh trai tôi không quá xa. Hơn chục cây số không nghĩa lý gì. Tôi đi tay không, trừ chút tiền lẻ dùng để mua nước uống nếu khát. Từ chỗ ở của tôi đến chỗ anh chỉ thế. Mẹ tôi luôn vào ngày này ở nhà, khoác chăn. Còn tôi rất ngẫu hứng, lúc nào muốn thì mới tìm tới chỗ anh mình. Lần trước, tôi gặp anh trai, chẳng mang theo món quà nào. Tôi đứng trước anh, nhìn thật lâu và thật chậm, cười mỉm cùng những mẩu chuyện lẻ tẻ. Tôi nói với anh rằng mình đã xóa bỏ chỗ làm hiện tại dù mọi chuyện đang suôn sẻ, các mối quan hệ tốt cùng món hời mang về cho tôi tiền là tiền. Tôi dửng dưng, chạy một chuyến xe ra biển, ngắm nhìn nắng tàn của hoàng hôn. Tôi dẫm chân xuống cát rồi đi xuống mặt nước, hít thở dòng gió ngọt mùi cá biển. Rất nhiều xác ốc trên mặt biển, tôi nhặt được một vỏ ốc lớn ai đó đánh rơi. “Tôi nghe tiếng vi vu trong vỏ ốc, định sẽ không rửa, đem làm quà cho anh.” – Tôi nói thế, rồi cướp lời mình trước mặt anh, khuôn mặt muôn tuổi mãi mãi là thằng cả của mẹ, aniki của tôi. “Đừng mơ, tôi đã ném vỏ ốc xuống biển rồi. Một tiếng bõm, vỏ ốc về với biển chứ không dành cho anh.” Anh tôi im lặng, dĩ nhiên, nhiều lâu nay anh lặng mãi như vậy. Có bao giờ anh xen lời mình khi tôi đang hăng đâu, từ bé đã thế. Tôi nhớ, anh từng gấp cho tôi một chiếc thuyền giấy. Tôi nhìn rồi hứ lại hứ, cứ thế hứ và hứ, hứ mãi cho khô đôi mắt ướt. “Xấu hoắc.” Tôi nói vậy với con thuyền, món đồ chơi đầu tiên của tôi. Không giấy màu, không giấy muốt mịn màng, con thuyền được gấp bằng giấy ô ly học sinh. Chất giấy cứng, sần sần rẻ tiền. Thuyền không thể ra khơi, nó sẽ nhàu nát khi ngấm nước. Ký ức tôi đang thui nhỏ, vẩn những bọt bóng vỡ. Đám trẻ tôi, có anh vẫn thường chơi với những rãnh nước gần miệng cống. Thả một chiếc lá xuống cống rồi nhìn nó trôi dọc theo con phố. Một lần tôi lấy con thuyền giấy, đốt cháy rồi thả xuống vùng nước cống chưa đặc đen như bây giờ. Lửa làm con thuyền lả đi, rụng xuống rồi biến mất cùng với tàn tro chẳng sủi tăm. Tôi không nhớ con thuyền anh gấp cho tôi có tan chảy trong một ngọn lửa bất kì của năm tháng cũ, hay đã thất lạc như anh trai tôi bây giờ, vẫn sờ sờ nhưng không vướng bận gì vào thế giới cả tôi lẫn anh từng sống, nhọc nhằn trong nước mắt lẫn khốn đốn già đời.

“Sao cũng được, miễn là…” Anh trai tôi nói, chỉ thế. Mắt anh nhìn tôi và xuyên qua tôi, trí não anh phác lại cảnh trí phía sau tôi, một chân trời đầy mây.

“Tao có một quyết định…” – Anh tôi nói như thế, nhiều lần trước khi thôi lẩm bẩm và dọn về con đồi nhỏ này. Một mình một cõi với cỏ cây hoa lá, sáng sáng nghe tiếng chim hót, ăn gì thì ăn hoặc nhịn nhiều ngày. Anh không về nhà thêm lần nào sau cuộc ra đi vội vã, choáng váng đến mức mẹ khóc đến điên dại. Níu kéo sao được kẻ muốn chối bỏ gia đình, tìm sự hoang đàng. Mặt anh tỉnh bơ trong ngày rút dấu chân khỏi thành phố. Anh đã từng là một con dân mẫu mực, rất nghe lời mẹ, còn tôi thì không. Tôi ngỗ ngược, sẵn tính phá hoại từ bẩm sinh. Đốt lửa vì thích lửa, xé sách vở vì thích nghe tiếng giấy rách, đánh con gái vì thích nhìn nước mắt, giết động vật nhỏ vì điều đấy làm tôi thích thú. Đổ nát của tôi, anh thu dọn cả. Anh chống chế trước mặt người khác, nhiều khi nhận mọi hậu quả tôi gây ra về phía mình. “Đừng tỏ ra cao thượng, đồ rẻ rách.” – Tôi giận dữ, mắng anh như thế. Đôi mắt tôi lửa hực không kiểm soát, còn anh điềm tĩnh và tỉnh bơ. Trước lúc tôi to xác và mạnh lên về thể chất, anh trai tôi đủ sức quật ngã tôi. Một quả đấm là tôi đo đất, một cú lên gối, ngáng chân cũng khiến tôi khốn đốn, anh thừa sức làm thế. Nhưng anh im lặng, tôi từng ghét sự câm tiếng của anh.

Ngày tôi cắt cổ con mèo hoang, anh chôn nó trước cửa nhà, dưới gốc phượng.

“Mày đã giết nó, còn nó sẽ ở trong mày.” – Anh trai tôi nói thế.

“Đồ điên, nó chỉ là một con súc sinh.” – Tôi nói.

“Và nó cũng có số phận.”

“Thế thì sao?”

“Mày sẽ biết.”

Một tuần và nhiều tuần, một năm rồi nhiều năm, tôi không còn nhớ gì đến con mèo mướp. Riêng cây phượng ngày mỗi lớn. Lá phượng xanh rồi vàng, lá tàn rồi xanh mới. Nhiều bữa nắng ráp xuống cành phượng, vàng vàng xanh xanh. Cây lớn cùng tôi, có những lần cây khô héo, tôi lấy nước tưới. Đứa anh không làm gì, ngoài việc đứng nhìn từ xa. Vẫn im lìm, lặng như tờ, lâu lâu nhoẻn cười không rõ lý do.

Giết đi một tính mạng nhưng số phận còn tiếp diễn. Anh trai tôi muốn nói vậy, vẫn thế đứng nhìn xa xôi. Tôi đọc láng máng điều này trong dòng suy nghĩ của anh, trong đầu mình và của nhiều ngày trước. Tôi băn khoăn rằng nếu thuở đấy tôi nhận cây xẻng của anh và đào xác con mèo lên, vứt béng đâu đó, mọi chuyện có khác không. Tôi nỡ hay không nỡ, dám hay không dám. Ngồi một mình, ăn thuốc lá như sái nghiện, cuộn len ký ức lăn thành mái tóc muôn trượng. Tôi không nhớ lý do gì đã thúc mình tóm cổ con mèo rồi cứa dao. Hẳn tôi đã ngụy tạo nhiều bằng chứng về một con vật hung hãn, phá phách đồ đạc, ăn vụng như chảo chớp, đã cào rách da thịt non nớt, vậy nên tôi phải tự vệ chính đáng. Mỗi lần nhìn con dao gọt hoa quả, tôi nghĩ mình đã cầm dao, lúc đánh rơi chai rượu, tôi ngờ mình đã lượm một miểng chai sắc. Một nhát cứa sâu, con mèo ngắc ngoải. Bộ hàm nó nhe nhưng không dọa được thần chết thu về mảnh lưỡi hái. Mắt mèo trắng lòng màu thế giới bên kia. Hết thuốc, tôi vẫn ngồi, định đứng dậy nhưng lười chân, muốn hút thêm thuốc nhưng lười với bật lửa. Nhìn nhúm tàn thuốc trên mặt giấy đang thủng, khét, tôi hiểu rằng mình đã không khoái chí sau khi con mèo cứng đơ trên thềm sân thượng đang nóng lên bởi nắng. Không chút sợ hãi lẫn ăn năn, tôi xuống gác như một kẻ vô can. Anh trai tôi không phải là người duy nhất nhìn thấy hiện trường, nhưng anh biết dấu vết hung thủ và bới tôi khỏi đất lầy. Chôn xác mèo cũng là chôn tôi cùng nó. Và tôi không một lần quên mỗi khi nghe tiếng mèo hoang gào trên mái nhà. Bởi vậy, tôi đã không nuôi mèo, ngay cả việc nặng lời với mẹ khi bà muốn nuôi một con mèo trong nhà. “Anh mày cứ đi suốt, mày cũng có chịu ở nhà đâu. Phải cho mẹ nuôi mèo chứ, buồn lắm.” Mẹ nói, còn tôi thật hung hăng “Không được mẹ ạ, con nói không là không. Nếu mẹ nuôi, con sẽ vứt nó.” Mẹ bảo “Mày ác lắm con.” Tôi gật, gật rồi gật gật thay tiếng nói, gật chỉ gật, như cúi đầu gật trước mẹ và như gật trước xác mèo đang cao lên, ngợp bóng râm ngoài cửa ngõ.

Thế còn những người phụ nữ tôi đã đẩy ngã, vụt thước kẻ vào người, lứa bạn thời xa vắng đã lớn cùng vết bầm…

“Em sai trái vì không được yêu.” Anh trai tôi kéo chăn khi tôi còn chưa ngủ dầu hai mắt đã nhắm nghiền giữa bóng tối.

Sài Gòn nắng những nắng giòn, mưa không giòn như nắng, mưa xóa nắng như chiếc tẩy làm sạch trang giấy, trống trơn mọi hình vẽ. Miền Nam ồn ào, mãi hai mùa mưa nắng. Đất Bắc mẹ tôi xuân hạ thu đông. Nắng miền Bắc đau hơn nắng phương Nam. Gió khó thở trong thành phố này. Những tường gạch loang lổ đã không còn, lối kiến trúc tạm bợ ngõ chui vào ngõ vẫn đó. Thuở tôi loắt choắt đã luôn nhìn thấy dây điện nhằng nhịt khắp hang cùng ngõ hẻm, tiếng rao tin giật gân từ cái loa gắn với chiếc xe đạp cũ, những ông già lấy việc thiến chó mèo làm sinh kế, tường vôi ve, người lao động nằm, ngồi la liệt như ngắc ngoải chờ ngày tên mình hết tuổi. Ngày hôm nay, dây điện nhằng nhịt thêm rối bời, cuốn lên cuốn xuống, vài sợi đứt thả mành mành xuống đường, chiếc xe đạp gắn cái loa vẫn văng vẳng, chỉ khác người, khác tuyến đường, trên các hẻm ngõ, người lao động vẫn vật vờ, có thêm một đứa trẻ háo hức nhìn cuộc sống nơi gánh hàng không biết khi nào bán hết. Thời loạn, thành phố không một giấc yên. Người người chạy cùng nhau trước khi tẽ muôn hướng. Súng đạn không có mắt, kẻ cầm súng thì khuyết một trái tim. Hết binh đao, người nhìn nhau phải phòng thủ, đạn đồng sượt qua da nhưng sẹo thì buốt đời đời. Anh em tôi không lớn lên với những chuyện kể về hồn ma như đám trẻ ở quê, cũng không ai nói với tôi về một bãi chiến trường, con dân Việt bị làm gỏi trong bàn cờ nước lớn. Sách sử thơm những chiến tích cha ông, cũng mùi hương đấy, tanh nồng và đớn đau. Tuổi thơ bọn tôi được nuôi lớn từ những lãng quên. Thằng anh với thằng em trong thành phố con người chỉ biết thương máu mủ, tuyệt không nụ cười, vòng ôm hay mối chân tình giữa những người lạ với người lạ. Tình cảm ruột thịt quan trọng và đáng quý nhưng tình thân giữa những kẻ xa lạ, không máu mủ huyết thống càng đáng quý càng quan trọng.

Anh trai tôi đứng trên đồi. Thành phố gần mà xa. Hà Nội ngày mỗi gầy.

Bữa kìa, tôi với một người bạn đứng ở cầu Long Biên nhìn tàu chạy. Đêm, đèn cầu thắp vàng nắng. Các quán nước dựa thành cầu, trải chiếu gọi chào khách vãng lai. Đường ray rỉ thép, đoàn tàu chạy vẫn ngon. Trời sáng, cây cầu như một đống phế tích thời Pháp thuộc, khác chăng thời đó chỉ có xe đạp với xe máy, bây giờ thì đủ các loại phương tiện ngược xuôi. Người đi người lại không ai ngó ai cũng không ai nhìn lớp thép rỉ rêu nấm. Đèn cầu không thắp cùng mặt trời. Hệ thống đèn đồng lõa với thời khắc nhá nhem, đoạn tang cho ngày mặt trời. Đèn cầu nhả xuống thứ ánh sáng không quá óng mượt, không hôi hổi lẫn sự chói mắt nếu nhìn quá lâu. Lúc này, cây cầu tỉnh giấc cho những chuyến tàu đêm. Mọi ngóc ngách vốn hoen rỉ, đinh ốc lung lay được vá lại bằng ánh đèn vàng mơ. Manh áo lụa này khiến cầu Long Biên bớt lạ mặt, cây cầu vàng lên tơ, những đường gấp trong nếp nhăn cổ điển.

Đứa bạn dựa vào lan can nhìn xuống Sông Hồng. Thuốc lá không cần thiết bén lửa. Chỉ khi về thành phố, xuyên vào não bộ Hà Nội, vùi mình vào những công việc những mối quan hệ những ưu phiền của mẹ đắp mãi chiếc chăn bông giã từ của con trai…chỉ những tơ vò đấy mới ép tôi hút thuốc. Bạn tôi hỏi tôi có sợ người chết không. Tôi lắc đầu. Hắn bảo chỗ tôi và hắn đang đứng từng có một cô gái liệng đời mình xuống lòng sông. Cỏ Lau, cái tên hắn đặt cho cô gái đã vùi thân xuống nước. Đứa bạn nói rằng mình không biết về cô gái, cho đến khi một tiếng tùm làm sóng tung mặt nước. Cũng một ngày tối trời như thế này, một số phận rơi đi trong tiếc nuối. Thằng bạn tôi có nét của anh trai tôi, rất loáng thoáng trong tiếng kể tỉnh bơ người quanh đấy tá hỏa, ngó nghiêng, reo hò, kẻ đang chạy xe thì dừng xe, ngoái một cái nhìn, người ngồi đấy vội trả tiền chạy thật xa. Những thân người với cái đầu loay hoay, ngó nghiêng xuống mặt sông vốn đã tối thủi sau mười hai giờ. Mặt nước đã khép lại vĩnh viễn, chẳng còn sự sủi tăm nào, trời khuya càng thêm khuya dù đèn cầu đủ sáng để không ai lạc đường về nhà. Họ tìm tiền lẻ ném xuống, lấy hương đốt, rải muối gạo, có người búng tay đếm ngày tháng cho một con đề. Cũng như tớ, chẳng ai biết gì về cô gái nhưng những con người, phải đấy, tớ gọi họ như vậy đã nói như mình biết tường tất cả. Hôm sau, tớ chạy xe lên đây và thả xuống một nhành hoa. Tôi vẫn đứng đấy, không mảy may những lần khác cùng đứa bạn lên cầu ăn gió nhìn tàu chạy. Tiếng còi tàu từ xa đã nghe thấy, nhắn trước cho một hành trình. Âm thanh rền một quãng dài, nóng bỏng như tiếng tù và triệu lệnh. Toa tàu đổ dài trước mặt, dưới lòng sông không chỉ có một cô gái, đã nhiều rất nhiều người vì lý do khác nhau đọa đời xuống nước. Thất tình hoặc bế tắc trong đời sống. Người Nhật thường giải quyết trầm uất bằng cái chết, người Việt chưa từng tồn tại văn hóa Samurai, vậy mà nhiều năm trở lại đây quá nhiều cuộc đời tự xóa tên mình. Chiến tranh dứt chưa hay vẫn. Ngọn núi lửa dẫu khô kiệt vẫn âm ỉ nham thạch. Họ được vớt lên hoặc bị nước sông thổi ra xa, rồi khi trầm sâu dưới đáy, trở thành rong rêu.

Anh trai tôi từng viết trong lòng bàn tay mình dòng chữ gì đấy, tôi không nhớ dù anh đã xòe trước mặt tôi rồi nắm lại, nhanh chóng và đột ngột như lúc xòe tay.

Tôi ngước nhìn Hà Nội từ Hà Nội, nhìn thành phố từ thành phố. Mọi cuộc đò vẫn hút tôi lại vùng đất này trong những thao thức trắng đêm, lắm lúc chỉ là tiếng thở dài hun hút khôn nguôi. Hà Nội càng đi càng hẹp, thóp đến từng bước chân, dây điện chăng tơ trên đầu, thấy vài chiếc lá khô kẹt lại, một xác dơi nhăn nhúm trong thế treo mình. Nỗi ưu tư của tôi với nơi này không hẳn là anh tôi, mẹ tôi hay những bạn bè tôi trót mang món nợ ân tình. Trí nhớ của tôi sáng những hình ảnh của các cô gái mình từng đánh chửi hơn là những mối tình sâu đậm nay đã rã tan trong lòng cát. Giữa tôi và các cô gái thuở áo trắng học trò không hiềm một thứ gì dài lâu, những đôi mắt biết cười, những miệng môi trong trẻo. Tôi gây nước mắt cho các cô bạn, cũng gây nước mắt cho những người tình. Giây phút tê dại trong cơ thể người khác không giúp tôi hoan lạc, thăng hoa bằng việc mở gói ký ức, đọc lại những tội lỗi hầu hết đến từ mặc cảm tương tư. Tôi nhớ mãi những rụt rè của xúc cảm đầu đời hơn sự chiếm hữu. Những mối tình câm, những mối tình khờ, đơn phương và đau khổ, cô độc và mướt trong. Tình dục làm con người kiệt quệ, đánh mất sự ngon miệng lẫn phương hướng, một sự đánh lừa cảm xúc không khác gì thuốc lá hay nha phiến. Thứ xúc cảm ham hố này luôn mong được thỏa mãn, kẻ hành lạc không bao giờ nhớ đến tình yêu, hắn lầm, thân thể hắn lúc đó đã không còn của hắn, hắn đã nhổ rễ trái ngọt, thiêu sống Địa Đàng, lún lầy cả xác lẫn hồn trong thứ nhựa độc trường cửu.

Anh trai tôi thích Phan Vũ, tôi thì không. Một lần trước, anh nghêu ngao những dòng ngắn trong bản trường ca được phổ và hát lên, tinh túy của dĩ vãng xa xôi. Cũng lần trước, anh đứng trên ngọn đồi và không ngâm nga, anh đòi hỏi về một tiếng hát từ tôi. Vẫn là bản thơ của ông già họ Phan, nhưng tôi không biết hát. Anh đứng đấy, mong tôi sẽ hát theo anh nhưng chính anh cũng không khiếu về nhạc, chỉ thuộc làu những dòng chữ bùa chú không mấy ai nhớ. Phan Vũ quên đường vì trong đầu ông ta đã quá nhiều đại lộ, đại lộ nào cũng khét lẹt chẳng bình yên. Anh trai tôi nói, vào lúc thời gian chưa xóa nhoà ranh giới của tuổi tác. Tôi khước từ việc hát, không ngần ngại không do dự, sự chối bỏ đã ngay tức khắc trong tâm não tôi. Hà thành từ lâu đã đổi chủ, qua tay nhiều đời chủ, viên ngọc ngàn năm đã thôi thuần khiết. Những hoài vọng, ảo tưởng mộng mơ chỉ còn trong sách vở, thi ca hoặc hội họa, những thứ từng là cấm địa trong quá khứ và ngày nay trở thành hàng hóa, tấm hoành phi vô dụng. Đám con cháu đời sau của Hà Nội, như tôi như anh như thế hệ sau này của tôi của nhiều người như tôi có còn biết gì về thành phố này ngoài một nơi mình từng sống, nhưng chỉ là tạm bợ. Chương trình văn hóa cùng các kế hoạch phục hưng văn hóa không nghĩa lý hơn một thủ đoạn ăn tiền thiên hạ. Người nghèo vẫn nghèo, kẻ giàu muốn giàu hơn và càng vô độ, tiền nhân không người kế nghiệp, chỉ ngai vàng cám dỗ kiếp người mải lao đao. Tôi cám cảnh đám người sành sỏi săn hết cuốn sách này đến cuốn sách kia, các nếp giấy có chữ ký, ấn triện, vân tay của một thời người. Họ khổ công lùng sục khắp nơi, xin xỏ, vung tiền nhưng khi có được lại giam hãm chúng trong tủ kính, khoe khoang trong những cuộc trà dư tửu hậu. Dấu tay, bút tích của cổ nhân trở thành món hàng béo bở để lũ con cháu đấu giá trong sự xâu xé. Đấy là những tủ sách gia đình mãi mãi kín cổng cao tường. Không có người đọc, không xuyên vào tiềm thức cổ nhân, thiếu đi sự mừng reo buồn bã, ngẫm ngợi lẫn tiếc nuối về những điều đã qua, dẫu hàng tấn sách cũng không thành một thư viện, có chăng chỉ là một thư viện chết, căn bệnh thương hàn vô phương cứu chữa.

Trước lúc bắt xe về thành phố, tôi háo hức, cảm thấy sốt ruột, dạ chẳng yên, máu cuộn trào xuôi ngược. Khoảnh khắc đó tôi như một gã Việt lưu vong xứ người lâu năm. Tưởng rằng mình đã thay máu thay phận, ai dè chỉ một tiếng quan họ thoắt qua tai, cả Châu Âu sụp đổ. Cốt tủy vẫn là An Nam. Đặt chân vào thành phố, đâu đâu cũng tàn mục rong rêu. Cái mới của Hà Nội chỉ như nửa chiếc áo, lớp vẩy bên trong đã rã nát. Những chung cư, nhà hàng, khách sạn thay thế những nhà cổ, băm sáu phố phường không còn là nơi vãn cảnh, đâu đâu nếu không ách tắc xe cộ cũng rặt các quán ăn nghi ngút khói. Hàng hóa nhiều quá mức, cây sưa, sao đen cùng rẽ đường xà cừ cứ mất hút, đường xá trống hoác nhưng chẳng háp được chút khí thở tự do. Người bạn của tôi từng nói thành phố không phải nơi người có thể sống được, muốn về quê quá, hắn nói thế, rồi ngần ngừ rồi chần chừ trong đôi mắt buồn đến lạnh lẽo nhưng mỗi lần về, cảnh lại khác, cây cối như bị bắt cóc, đến vườn cây nhà tớ cũng trụi lốc như hộp sọ người ung thư. Nhìn đâu cũng thấy nhà máy, công trường, xí nghiệp. Con bệnh nhan nhản khắp bệnh viện, người thoi thóp trong ống thở, kẻ khò khè chờ chết, lũ trẻ ăn mặc đẹp nhưng tâm hồn chúng rệu rã, bạc phờ trong máy móc công nghệ cao. Con sông làng tớ, nhỏ thôi nhưng trong là trong, tắm hay uống đều được. Nước sông đã gột rửa bao thế hệ người làng, chính tớ cũng uống nước sông cả tuổi thơ. Giờ thì uống một ngụm nhỏ là tớ tàn đời. Bom Mỹ không tàn phá được sông làng tớ, thế mà đến đời tớ, thiên nhiên tức tưởi quá. À, đúng rồi, nghe nhé, trong làng tớ có một cựu chiến binh ba đời chủ. Thời Pháp đóng, ông ta theo Quốc Dân Đảng, binh biến, vào Nam đầu quân Ngô Đình Diệm, lúc Diệm chết thì theo Cộng Sản. Hết chiến tranh, ông ta thành kẻ vô chủ, lặng lẽ cuốc bộ về quê. Tớ không tin lắm về thứ gọi là lý tưởng, chán lắm rồi những khẩu hiệu Vạn Tuế, Trường Cửu, Đại Đồng, ai cũng chỉ muốn sống và yêu cuộc sống. Lúc về làng, không ai nhận ra ông lính. Mình mẩy nát bươm toàn những sẹo. Huân chương chiến thắng, bằng khen lẫn những tung hô có rửa đi hết sẹo, sẹo chẳng lành. Mỗi lúc trở trời, ông ấy đau đớn vô cùng, dở sống dở chết. Người ta thương ông lính, nguyền rủa bọn giặc đã đọa đày ông ấy. Ông ta la hét, đập phá, đuổi hết người đi, bảo rằng ông ấy chỉ muốn được yên. Một thời gian vắng mặt, người làng thấy ông lính cắm lều sống ven sông. Mỗi ngày, ông ấy lội sông, tắm, bắt cá ăn, chơi với trẻ con. Tớ đã từng được ông lính dạy bơi, trèo cây, ông ấy xoa đầu tớ, bàn tay trầy trụa xù xì mà sao ấm thế. Cơ thể ông lính vẫn đầy sẹo, còn thương tật đã chết. Mãi đến khi…mãi đến khi…con sông trở thành cái hố rác vô tận của các nhà máy, xí nghiệp, con quái vật kim loại ăn không chừa gì. Sông nước muôn tuổi và vĩnh cửu nhưng không bất tử. Sông đau, ông già chiến binh đau theo, những thương tật tưởng lành bỗng trồi dậy, thế là đồng quê lại ngợp thuốc súng. Một ngày, ông lính đi dần xuống con sông sình đen, ai gọi cũng không ngoái, cứ đi mãi đi mãi, sâu xuống, mất hút luôn. Sông chết, tuổi thơ tớ chết theo. Sông độc bởi con người đã ác với sông, phải không? Tớ không biết tớ đang mất quê hương hay quê hương mất tớ. Tôi lầu bầu bảo cả hai. Dường như hắn nghe thấy và hô nhất trí, tiếc nuối cũng chỉ đến thế. Hắn nói đến nước, tôi nghĩ đến phố. Tôi ngờ rằng thơ phú chẳng nghĩa lý gì ngoài những giọt máu khói, chứng tích cho một kiếp sống, một thời đại rồi đây sẽ lãng du vào quên nhớ. Tâm tư và hồn người vùng vẫy trong sự sáng tạo hòng quên đi tiếng bom đạn, thế nhưng khi trí não say thì ký ức lại tỉnh, sự tỉnh thức khiến lòng người nát tan. Phan Vũ đã viết cho Hà Nội không bằng một tuyệt tác, mà là điếu văn. Cũng như Nguyễn Du từng dùng chữ nghĩa tế hồn người trong hồn mình. Cõi khổ đau.

“Đi thăm anh con chưa.” – Mẹ vẫn thường nói thế mỗi khi tôi về nhà hoặc chuẩn bị ra đi. Những lúc tôi ở nhà, bà không nói gì, chỉ chốc chốc giục tôi kể về anh trai, những chuyện trò giữa hai anh em. Những món ăn bà chuẩn bị để tôi mang theo, tôi không nhận. Mẹ tôi dùng dằng, còn tôi đủ cương quyết và tàn nhẫn chối bỏ. Có lần, mẹ dúi làn thức ăn quá dữ, tôi hất tay khiến tất cả đổ nhào dưới đất. Mẹ hoảng hốt, bật khóc. Trước đây, tôi thường bảo anh là đồ gỗ đá. Đến giờ, thời gian làm nhăn tuổi tác, ai lớn cũng đã già, những người già chờ đợi ngày lên kiệu trắng trong khi lòng hám sống vắt kiệt sinh khí từng ngày trong bệnh tật. Lắm lần, tôi giật mình khi thấy mẹ, mái tóc bạc mỗi bạc. Còn anh vẫn trẻ trung như vậy, anh đã thực sự là gỗ đá trên ngọn đồi không ai khác ngoài tôi là Columbos. Mẹ tôi cho đến bây giờ vẫn bảo tôi rằng mày ác lắm. Có hai điều quý giá nhất mẹ tôi vẫn thường xuyên làm, vào căn phòng của anh trai tôi đắp chăn và gọi cho tôi.

“Tại sao nó lại đi mãi thế, anh con ấy.”

“Đấy là quyết định của anh, con sao biết được.”

“Kể cho mẹ, trước lúc đi nó thế nào, gặp chuyện gì, với ai, hai anh em có xích mích gì không?”

“Đấy là lựa chọn của anh ấy, của mỗi người.”

“Mày im đi, mày ác lắm.”

“Tại sao thế, mẹ.”

“Trời đất ơi! Mày nghĩ đi, anh mày đáng lẽ đã có một đời sống hạnh phúc. Nó ngoan và hiền lành, không bao giờ mẹ phải bận lòng, biết bao nhiêu người yêu quý nó. Rồi đây, anh mày sẽ thành đạt, một công việc tử tế, lấy một cô gái tốt, yêu nó như mẹ yêu nó, nó sẽ làm cha còn mẹ có cháu…”

“Mẹ chắc mình hiểu anh chứ?”

“Mẹ là mẹ nó, lòng con mẹ hiểu hơn ai hết.”

“Vậy sao anh bỏ đi, mãi mãi đi.”

“Đúng là oan nghiệp, nợ đời, khổ đến là khổ.”

“Thế còn con, mẹ còn con mà. Đi một, còn một.”

“Mẹ ước mày đi thay cho anh mày.”

Không giờ và không một lý do, tôi ngồi đây. Thuốc lá với tách café đầy bóng tối. Ăn khói thuốc, hớp lấy vị đắng. Thuốc lá đắng, café cũng đắng nhưng người thì đắng hơn. Lần gần nhất tôi vào phòng riêng của anh trai là lúc anh đã giã biệt tất cả. Lần cuối cùng chưa biết là bao giờ nhưng lúc này tôi đang trong phòng người anh. Mẹ tôi ngã bệnh và đang trong bệnh viện. Một giấc ngủ sâu không biết có chữa mẹ lành bệnh. Trong lúc không có việc gì làm, cơ thể tôi không mệt lắm, tôi bỏ bệnh viện để về nhà. Bác sỹ đã cảnh giới mẹ không chỉ một lần rằng hãy dọn dẹp nhà cửa thường xuyên, chịu khó ra ngoài, những nơi sạch sẽ và trong lành. Ông bác sỹ có chuyên môn và giỏi bắt bệnh. Mẹ tôi, kể từ lúc anh tôi bỏ bà, đã luôn đắp cái chăn anh từng ngủ. Mẹ không giặt một lần nào, ngay cả khi thời gian đã biến mùi mồ hôi tàn dư của anh và hơi của mẹ thành chất độc. Tuổi 17, tôi ngông cuồng bỏ nhà đi bụi. Ba năm sau tôi trở về. Vào tuổi 25 thì anh tôi đi. Anh đón tôi vào nhà. Lấy đồ mới cho tôi rồi hâm nóng thức ăn còn lại sau bữa cơm. Mẹ chào tôi bằng cái gật đầu, mắt mẹ không buồn không vui. Không ai quất roi lên con mình khi nó đủ lớn và đủ khỏe, miễn nhiễm với đòn roi, chỉ còn những khiển trách và âu lo. “Sao cũng được, miễn là…” Anh trai tôi nói mãi lời cửa miệng. Phòng của anh không thay đổi so với ngày anh chưa đi. Mọi thứ nguyên xi, bao gồm cả bụi bặm lẫn mạng nhện. Mẹ không cho phép có sự dọn dẹp nào trong phòng. Khí bức bí, ngộp hơi như nhà hoang. Bệnh của mẹ cũng từ đây mà nặng. Trên ngọn đồi, anh có nhớ mẹ không. Chắc là có, dù tôi không hỏi, không nói. Đứng như vậy nhiều năm hẳn anh không đọc được gì thêm trong sổ cuộc đời. Một lần không gần không xa ngày hôm nay, tôi lên ngọn đồi, nhìn đứa anh từ góc khuất rồi gục xuống. Trước đấy tôi uống rất nhiều rượu, tâm trí muốn hoảng loạn nhưng không thể. Một cú đau điếng đời, không thể nói với ai. Tôi đành tìm tới con đồi buồn bã của anh, náu một chỗ, muốn khóc cho hả. Dự định của tôi tan nát cả, mắt tôi đau nhức nhưng không khóc nổi. Thân hình nhỏ nhắn trẻ trung đáng ghét vẫn trụ vững như bắt rễ vào đất đồi. Anh tôi biết tôi đến nhưng không nói, tôi cũng không tiết lộ hành tung của mình. Mỗi người một xó riêng, lặng lẽ quan sát nhau, chứng kiến tất cả và im lặng, giấu tiệt đi dù một tiếng thở nhẹ như lá phong rơi.

Anh trai tôi còn rất trẻ, tôi thì không. Anh giống cha. Không nhớ tôi hay mẹ đã nói thế. Tôi không để ý và không quan tâm lắm về người cha đã tuyệt tích nơi xứ người. Mày giống mẹ, anh tôi nói thế, dĩ nhiên tôi, tôi biết. Mẹ hiếm nói về cha, ngoài một tiết lộ nho nhỏ rằng cha tôi còn sống. Cây phượng trước nhà đã chết yểu trong lúc còn xuân sắc. Hôm đấy, mẹ gọi cho tôi, báo rằng “Họ đã giết anh con.” Tiếng mẹ mếu máo, tôi phải hủy chuyến công tác ở Cà Mau, hợp đồng béo bở thế là công toi. Lúc về, cây đã mất khỏi lòng đất. Trước lúc tôi đi, cây phượng vẫn um tùm hoa lá, hoa phượng rồi sẽ thắm mật trong nắng hạ. Người của công ty môi trường đã điều xe nhổ bỏ cây phượng nhà tôi. Không một lý do và không ai muốn trình bày, đôi co với đám người hùng hổ chỉ biết gật gật theo thánh chỉ. Lúc cây bị đốn hạ, từng cành lá rơi lìa trong tiếng cưa máy, mẹ gần như quỵ xuống. Rễ phượng bị kéo bật khỏi đất khi còn tươi tốt. Cửa sổ ban công nhà từ đó mãi niêm kín. Mẹ chốt cửa, dán niêm phong và ép tôi không mở dù với lý do gì chăng nữa. Tôi nghe mẹ, tôi không hay về nhà, cũng không hay nhìn cảnh vật qua cánh cửa sổ oi bức. Từ cửa sổ nhìn xuống chỉ thấy một hố đất lủng sâu. Đứng từ phần đất hoắm hoắm ngước lên thấy một cửa sổ đóng chặt.

Ngày về phố cũ bỗng quên tên. Câu thơ của Phan Vũ viết trên mặt bàn. Tôi chỉ lục được mỗi dòng viết nay của anh. Tôi biết anh có viết nhật ký, trong những quyển sổ dưới ngày tháng năm là dòng chữ sao cũng được…Trang nhất hay trang hai, trang sau và sau nữa cho đến dòng cuối cùng cũng chỉ dòng viết này. Mẹ gặn hỏi tôi mãi về lý do anh đã đi. Chắn chắn không do một hiềm khích lớn nào từ bên ngoài. Hỏi khắp nơi, khổ công nhặt lượm cũng không tìm thấy vết ố đen nào của anh. Tuổi đi của anh quá trẻ và tiếc rằng như vậy. Tôi không thuyết phục anh rời khỏi ngọn đồi ngoài thành phố. Tâm nguyện của mẹ chỉ thế chứ không phải tôi. Mẹ dặn tôi đừng nói với anh về chuyện cây phượng bị đốn còn tôi đã nói thật to và vang về án tang của cây phượng. Cây đã chết còn anh sẽ không có cơ hội viếng đám tang cho mướp. Từ ngọn đồi nhìn thế nào cũng không thấy cây phượng, hố thủng sau ngày phượng mất. Nhìn về phía thành phố thì thật mờ.

Mẹ không cho phép tôi lấy đi tấm chăn anh từng nằm. Bữa đấy, anh ngủ lần cuối cùng trong chăn, mùi cơ thể anh ngấm xuống, liệm khắp chăn. Mỗi lần đắp, mẹ được gần anh, và luôn như vậy, đắp mãi đắp mãi bất kể nắng nóng hay đêm lạnh. Tại sao thế, mẹ không lúc nào không nhớ nó, mất ăn mất ngủ vì nó, sao nó không về thăm mẹ dù chỉ trong giấc mơ. Mẹ tôi trăn trở, tóc mẹ bạc màu vì thế Còn con, sao không khuyên anh về, chỉ con mới lên được ngọn đồi. Mẹ nhiều lần nài nỉ, hạ thấp đầu gối đến mức như quỳ lạy tôi khuyên nhủ anh trở về. Với mẹ, chỉ một lần, còn tôi, có lẽ là không. Anh trai tôi còn rất trẻ, còn tôi sắp hết tuổi trẻ. Gấp mọi trang giấy, tôi lại gần phía chiếc giường nhưng không tìm thấy cái chăn. Mẹ đã mang theo tấm chăn vào viện. Bác sỹ không cho mẹ đắp, còn mẹ cương quyết không nghe. Lời của bác sỹ là mệnh lệnh trong bệnh viện, mẹ đành gấp chăn cất dưới giường. Mỗi lúc tỉnh ngủ là lần tìm cái chăn, đi dạo dưới bệnh viện cũng ôm theo chăn. Tôi muốn chôn tấm chăn nhưng tôi lắc, anh tôi vẫn còn đó, không thể tùy táng như thời Trung Cổ. Châm một ngọn lửa cũng vô nghĩa, chỉ hồn đói mới cần vật chất hóa tro. Ngọn đồi, vũ trụ của anh luôn chờ cái bóng của tôi. Con đồi này từ lâu chỉ có hai kẻ qua lại, anh trai, người luôn đứng trên ngọn và tôi, kẻ lúc lên lúc xuống khi ngủ gật lúc lại đứng đối diện với người chủ ngọn đồi. Trên này, không có gì, chỉ có anh, gương mặt muôn tuổi và còn gì nghiệt ngã hơn thế. Một bản án đóng đinh trên thập tự.

Tao có một quyết định. – Lời cuối cùng tôi nghe từ anh trước khi anh vào trong phòng, khuôn mặt tỉnh bơ gỗ một lần buồn. Một ngày rồi nhiều nhiều ngày, mẹ tìm anh khắp nơi. Ngày tôi tròn 20, tôi hỏi anh “Lúc em bỏ nhà đi, có ai đăng tin tìm trẻ lạc không, trên vô tuyến hoặc tờ rơi?” Anh lắc đầu, nói “Ai cũng đợi mày về.” Tôi nối lời tôi vào lời anh “Ngoài anh ra...” Một nụ cười, không tươi và gường gượng nhưng đúng thật là mặt anh tôi “Ngoài mày, anh còn có ai.” Tôi không nối lời mình vào lời anh và anh cũng thế. Chỉ đã đứt, diều phải bay.

Mẹ gọi cho tôi từ bệnh viện, nói rằng muốn gặp tôi, chuyện gấp. Tôi gác máy. Tôi sẽ không vào bệnh viện, chí ít trong lúc này. Khóa lại căn phòng đầy bụi, tôi xuống nhà, xuyên khỏi ngôi nhà lẫn những đường phố tôi đã thuộc làu trong dáng dấp người khách lạ.

Anh trai tôi trên đồi, đứng, tôi cũng trên đồi, không đứng. Tôi và anh nhìn nhau như hắt nắng. Khuôn mặt anh muôn tuổi, đôi mắt anh buồn muôn tuổi.

“Anh trẻ quá, anh tàn đời vì thế.” Tôi nói, không phải trong hôm nay. “Anh biết không, anh chẳng đáng để tưởng nhớ nhưng anh càng không đáng phải lạnh lẽo.” Vẫn lời tôi, không phải lúc này. Còn bây giờ…

“Tôi có một quyết định.”

“Quyết định của mày là gì?”

“Anh hỏi tôi, sao không tự vấn mình, anh đã thực sự quyết định điều gì chưa.”

Tru Sa


Nguồn: http://thuykhue.free.fr
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 20 tháng 5 năm 2024