Hòa Thân - Đại Thần Tham Nhũng (Tập II)
dịch giả: nguyễn trung tri
Chương 11 (tt)
bán tước cổ vũ lòng trung.
trở thành hàn lâm đất nước
Mẹ kiếp! Lý Thị Nghiêu rất căm, nghĩ bụng, Thường Thanh như quả cầu, dựa thế Hòa Thân. Nghĩ vậy, Lý Thị Nghiêu thở dài, lòng đầy bực tức. Lẽ nào mình cùng phải nịnh bợ hắn?
Thực tế, Hoàng đế Càn Long ngoài việc ban cho Thường Thanh quyền lớn ra, còn tăng thêm viện binh (1.000 quân Phúc Châu và Mãn Châu) và trao cho kế hoạch dùng binh. Từ 27 tháng 3 đến 1 tháng 4, Càn Long liên tục chỉ dụ Thường Thanh nên chọn những người khỏe, giỏi trong quân lính hiện có ở Đài Loan, trực tiếp dẫn họ đến sào huyệt giặc tại Đại Lý Dặc, bắt thủ phạm Lâm Sáng Văn, số còn lại sẽ tan rã. Nếu quân lính hiện có ở Đài Loan không đáng tin cậy, thì cần có tiếp viện, đợi quân ở Việt đến sẽ tấn công. Thời Khang Hy dẹp loạn Châu Nhất Quý, không đầy một tháng đã thành công, nhờ hợp đại binh thành một lộ, nhằm hướng Áo Môn tấn công, khí thế rất mạnh. Sĩ khí phấn chấn, bọn giặc khiếp sợ, dễ dàng tiêu diệt. Sau khi đến Đài Loan, Thường Thanh tập hợp quan binh ở các lộ, dồn sức càn quét bọn giặc, không cho phân tán lực lượng, không để chiến cuộc kéo dài, khiến giặc có thể phân tán kiềm chế. Càn Long đưa ra kế sách đó, có thể nói là dày ông suy nghĩ, rút ra từ kinh nghiệm của các nhà quân sự, tập trung binh lực, đánh nhanh. Sau khi Thường Thanh yêu cầu, Càn Long lại cử tám thị vệ đã từng trải chiến đấu, giỏi võ công, nhiều mưu lược, đến Đài Loan dẹp giặc, tám thị vệ này và Hòa Thân cùng lên đường một ngày.
Càn Long hy vọng ở Thường Thanh như vậy, thế nhưng Thường Thanh đã phụ lòng mong đợi đó. Thường Thanh, họ Chung Giai, người Chánh lam kỳ Mãn Châu, vốn là con trai của một hoạn quan từng làm tuần phủ một thời gian ở Giang Tây. Thường Thanh lớn lên, dựa vào quan hệ gia đình, tìm cách vươn lên qua chốn quan trường đầy bẩn thỉu, rốt cuộc cũng tìm được một chức quan nhỏ trong vương phủ Ninh Quận, nhờ vào sự am hiểu chốn quan trường và tài kết giao với tầng lớp quyền quý, dần dần lên chức Đô thống sát Cáp Nhĩ, Tướng quân Hoàng Châu, Tổng đốc Mân - Triết. Từ chức Tướng quân Hoàng Châu nhảy lên Tổng đốc Mân-Triết, chính là nhờ sự nâng đỡ của Hòa Thân. Thường Thanh thấy rất rõ, trong cái xã hội này, nếu muốn có nhiều lợi lộc, thì phải có quyết tâm, “tiếc con thì không cứu được mẹ”. Để nịnh bợ Hòa Thân, Thường Thanh vắt óc suy tính, điểm đúng huyệt. Trong chuyến tuần du phương nam lần thứ năm của Càn Long, là Tướng quân Hàng Châu, Thường Thanh cho người đi khắp thành Hàng Châu tìm mua đồ cổ, những tranh vẽ nổi tiếng trong đó có bức tranh “Đại Đường Thiên Tử Bộ Liên Đồ” của Ngô Đạo Tử đời Đường. Thường Thanh, bản thân muốn giữ kỹ những vật đó luyến tiếc chúng nhưng đành nghiến răng chịu đựng mang biếu Hòa Thân. Ngoài ra còn tìm kiếm nhiều cô gái đẹp con nhà lương thiện cống nộp cho Hòa Thân. Cuối cùng Thường Thanh có được một chỗ dựa vững chắc, dưới một người trên muôn người, nương tựa suốt đời. Sau khi đến Đài Loan, Thường Thanh thấy thế địch lớn, nhiều chiến tướng khiếp sợ, suốt ngày cố thủ trong thành phủ, chẳng ai dám bước ra đánh địch.
Thường Thanh được phong là tướng quân dẹp loạn. Nghĩ rằng, dẫu sao cũng đã mang cái tiếng này, nên đành cầm quân ra trận. Thường Thanh và Hằng Thụy dẫn mấy ngàn quân ra khỏi Thành không xa, gặp nghĩa quân Lâm Sáng Văn trên một cánh đồng. Thường Thanh ngồi trên ngựa, đưa mắt nhìn, chỉ thấy cờ dáo ẩn hiện, đội ngũ lớp lớp, tiếng thét “giết” liên hồi hết đợt này đến đợt khác, lúc này, một trận gió to thổi qua, tận cùng cánh đồng mênh mông bát ngát là dãy núi chập chùng, ẩn hiện những ngọn cờ năm màu đang phất phới tung bay. Thường Thanh ghìm ngựa, quay đầu lại nói với Hằng Thụy mặt mày đầy vẻ sợ hãi đứng bên cạnh:
- Hằng tham tán, thế địch rất mạnh, dường như phía trước có quân mai phục, ta sức yếu thế cô, nên tiến hay lui?
Hằng Thụy vội đáp:
- Thường tướng quân, quân đội chúng ta mấy năm qua không chinh chiến, hơn nữa không quen thuộc Đài Loan, chi bằng rút lui, xin thêm viện binh, như vậy mới dẹp được bọn giặc, nếu không, với mấy ngàn người, chúng ta chẳng qua là lấy trứng chọi đá, làm thế nào thắng được?
Đang nói đến đấy, tiếng hô “giết” vang lên từ gần đến xa, bao trùm khắp trời đất như triều dâng thác đổ, thế không chống nổi. Thường Thanh không kịp trả lời, giật mạnh dây cương, cho ngựa quay đầu lại, vội vàng quất roi, hét to:
- Thu quân nhanh lên!
Hằng Thụy thấy vậy cũng hối hả vỗ ngựa cùng Thường Thanh hớt hải rút lui, chỉ khổ cho quân lính nhà Thanh than trách cha mẹ sao lại chỉ sinh chúng có hai chân, nhìn thấy chủ tướng bỏ chạy bán sống bán chết vào thành, nên chúng cũng tranh nhau chạy để khỏi rơi vào tay Lâm Sáng Văn, dẫm đạp nhau, không ít tên lính bị thương vong. Thường Thanh và Hằng Thụy vừa chạy vào thành, có người đến báo:
- Tham tán Lam Nguyên Mai bị bệnh đã qua đời.
Thường Thanh, Hằng Thụy được tin, đau xót lệnh cho tổ chức mai táng, và vội vàng viết thư về triều đình xin tăng thêm nhiều viện binh.
Đối với Thường Thanh suốt đời chạy theo vinh hoa phú quý, ăn sung mặc sướng, việc lần đầu tiên đi chinh chiến bị rơi vào tình thế ấy, đã trở thành chuyện khôi hài. Vừa vào thành xong, chưa hoàn hồn, sau một hơi thở dốc, Thường Thanh cúi đầu trầm tư. Mười ngày của trận đánh đầu tiên cho biết là phải có sự chuẩn bị, vậy nên chuẩn bị thế nào cho tốt? Đầu óc của Thường Thanh như cơn lũ lồng lộn gầm réo, cảnh chiến trường khủng khiếp khiến Thường Thanh luôn hoảng sợ. Lúc ta mới bước đến Đài Loan, khí thế hừng hực, nghĩ rằng không biết lấy gì để lấp kín eo biển này, phải chăng Quách Trạng Du vừa mới bị xử trảm là hình ảnh sắp tới của ta? Tham sống sợ chết, nhát như thỏ đế, gan như gan chuột, chiếu theo thánh dụ của Càn Long, thì không những tính mạng ta không thể bảo toàn được mà còn liên lụy đến chín họ. Nghĩ đến đấy, Thường Thanh cảm thấy con đường hoạn lộ của mình trong tương lai đầy u ám, đầu óc choáng váng, ánh mắt sáng quắc của Càn Long như lưỡi gươm sắc chọc vào yết hầu, toàn thân ớn lạnh, trán vã mồ hôi, đọng thành từng giọt rơi theo làn tóc phờ phạc, cả người run rẩy, mũi cay, khoé mắt ứa vài giọt lệ đầy sợ hãi. Thường Thanh đứng dậy, đi vòng quanh nhà mấy lượt, định viết cho Hòa Thân lá thư nhờ giúp đỡ nhưng lại thấy không ổn, vì Càn Long đâu phải ngốc nghếch. Lần đầu mình giao chiến với Lâm Sáng Văn khi vừa mới đến Đài Loan, sợ đến nỗi chưa biết thế địch lớn mạnh thế nào, đã đánh trống rút lui, như vậy há không phải bôi đen bộ mặt triều đại Đại Thanh? Há không phải khuyến khích quân địch làm mất khí thế quân ta? Như vậy, lẽ nào Càn Long không có lý do buộc tội?
Cặp mày màu xám của Thường Thanh như đôi sâu róm, cặp mắt đục ngầu chuyển động cực nhanh, tưởng chừng muốn thoát ra khỏi hốc mắt, định nói gì đó, nhưng cảm thấy lưỡi ngắn lại, Thường Thanh nuốt nước bọt, cố gắng nói thật chuẩn xác không sai. Ông gọi người vệ sĩ đứng bên ngoài cửa.
- Người đâu?
- Tướng quân có gì dạy bảo? Người vệ sĩ vội vàng bước vào, đứng nép một bên hỏi.
- Đi mời ngay Tham tán Hằng Thụy! Thường Thanh rút chiếc khăn tay ra lau mồ hôi trên trán.
- Vâng ạ. Người vệ sĩ đáp.
Một lát sau, Thường Thanh ngửi thấy mùi rượu nồng nặc xông vào từ phía ngoài sân, Hằng Thụy bước lảo đảo xông vào. Thường Thanh mặt sầm lại, nghĩ bụng, quả là con người chìm ngập trong hũ rượu. Chết đã kề cổ mà cứ say rượu suốt ngày, ta làm sao mà nói chuyện với hắn được? Thét lớn:
- Hằng Thụy, lẽ nào ngài không muốn sống?
Hằng Thụy liên tục nôn ọe, mùi rượu chua nồng xông lên khiến Thường Thanh phải buồn nôn. Thường Thanh đành phải bảo bọn thuộc hạ đưa đến một ít thuốc giã rượu và buộc Hằng Thụy ngồi xuống. Hằng Thụy mặc kệ cho Thường Thanh, cũng chẳng thấy khó chịu, và chẳng tỉnh lại chút nào trong sự lo sợ của Thường Thanh, mồm lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại.
- Đại tướng quân Thường Thanh, Đại tướng quân Thường Thanh, rõ ràng chúng ta không đánh nổi Lâm Sáng Văn. Đài Loan ôi, Đài Loan đúng là đầm lầy đau khổ khó xơi. Chúng ta hết đời, hết đời rồi...
Thường Thanh không nghe tiếp, cầm lấy thuốc giã rượu từ tay người lính, đó là một bát nước giấm lâu năm, đưa bàn tay gầy guộc đỡ lấy cổ Hằng Thụy, đổ bát giấm vào mồm. Hằng Thụy nấc một tiếng, rồi nôn oẹ, phun “phì phì”, một luồng hợi rượu chua nồng khó chịu, cùng với bọt mép đầy mồm, phả vào mặt Thường Thanh. Ngày thường Thường Thanh khúm núm, sợ sệt trước mặt Hoà Thân, nhưng ngược lại thì cao ngạo với Hằng Thụy, bởi vì tư cách, tuổi tác của Thường Thanh hơn hẳn Hằng Thụy. Nét mặt Thường Thanh bỗng thay đổi tức giận quát mắng:
- Đồ khốn! Vừa nói vừa vung tay đập vỡ bát đựng giấm xuống đất, tay kia đẩy Hằng Thụy ngã xuống ghế.
Hằng Thụy sợ quá nên cũng tỉnh lại đôi phần. Lắp bắp nói:
- Tướng quân bớt giận, Tướng quân bớt giận... Tôi không cố ý như vậy... Vừa nói vừa cố vịn vào tay ghế đứng dậy.
Thường Thanh thấy Hằng Thụy vẫn chưa tỉnh rượu hẳn, cũng thương tình, bước đến ấn Hằng Thụy xuống không cho đứng dậy và nói:
- Tham tán đại thần! Tôi muốn hỏi ngài, ngài còn muốn giữ cái đầu không?
Hằng Thụy cố mở đôi mắt, chờ một lúc cho đầu óc tỉnh táo, run sợ đáp:
- Thường tướng quân lấy việc nước làm trọng, không quên ơn vua khiến hạ quan hết sức cảm phục.
- Không phải lúc nói chuyện ấy! Bọn giặc chưa bị tiêu diệt, Chư La của Sài Đại Kỷ chưa được giải vây, chúng ta làm thế nào đây? Thường Thanh giận hỏi.
Suy nghĩ một lát, dường như men rượu giúp quá trình tư duy nhanh hơn, Hằng Thuy rụt rè lên tiếng:
- Hạ quan có một kế này, có thể lừa dối để thoát nạn.
- Ngài nới ra xem nào, tham tán, tham tán! Hai mắt tôi như mờ rồi, tay bị trói chặt, không còn cách nào khác. Làm không tốt, ngài và tôi đều bị trừng phạt. Thường Thanh dậm chân dục nói, lại một giọt nước mắt rơi xuống.
- Lão tướng quân, ngài nghĩ xem, Hoàng thượng không thể đến Đài Loan. Chắc chắn phải cử Hoà Thân đến. Hoà đại nhân và tướng quân quan hệ như thế nào? Lý Thị Nghiêu cũng còn nể Hoà đại nhân cơ mà. Không làm thì thôi, đã làm thì làm đến cùng, dĩ nhiên Hoàng thượng muốn xem bản tấu hay, vậy sao không viết một bản tấu chiến công giả? Trì hoãn mấy ngày hoặc mấy tháng, tìm cớ, rồi lại bày ra kế khác.
- Vậy để ta suy nghĩ. Thường Thanh ấp úng một lúc, chậm rãi nói, mồm mím chặt, mặt co giật, thân người như cột cờ đứng đực. Ông đang rơi vào cảnh ngộ khó khăn nguy hiểm. Một cảm giác nóng cay ngọt bùi chua xót dâng lên như sóng to biển cả lay động cột cờ. Ông nghĩ bụng: báo cáo láo còn hơn không báo. Chỉ cần suy tính thật kỹ, không để sơ hở tí gì là được.
Cuối tháng tư, năm Càn Long thứ 52, một bản tấu của tướng quân dẹp loạn Đài Loan được chuyển đến tay Càn Long đang bận rộn chuẩn bị Tết Đoan Ngọ. Càn Long nhìn thấy bản tấu của Thường Thanh, vội vàng mở xem. Bản tấu như sau:
“Khởi bẩm Hoàng thượng vạn tuế, thần Thường Thanh từ khi phụng chỉ đến Đài Loan, đã cố bảo vệ thành phủ. Lâm Sáng Văn cho đến nay vẫn chưa ra mặt đánh nhau, thần đã và đang luyện lập binh mã bày binh bố trận. Đồng đảng của Lâm Sáng Văn, Trang Đại Điền đem quân xâm nhập thành phủ, thần đã mấy lần đem quân đánh lui, yên định được lòng dân. Mấy lần đưa quân ra thành dẹp giặc, tướng sĩ đều ra sức, nghĩa dân tranh nhau, hăng hái hiệp trợ giết giặc, liên tiếp mấy trận, giết chết hơn 2.000 tên giặc, bắt sống trừng trị hơn 50 tên, một tên tiểu đầu mục của bọn phỉ là Trang Tích Xá sợ tội đã vào thành đầu hàng, dẫn theo hơn 2.000 tên, và đã cùng với quân ta đánh lui quân địch. Chư La sắp được giải vây, việc bình định hải đảo không còn lâu”.
Xem xong bản tấu, Càn Long vui mừng khôn xiết, nét mặt u ám vì cuộc nổi loạn ở Đài Loan bỗng tan biến, triệu tập ngay bá quan văn võ, khen ngợi Thường Thanh, biết cách dùng binh, có tài quân sự đúng như lúc đầu đã cử Thường Thanh đi dẹp loạn, tán thưởng một hồi, cầm bút phê chỉ dụ khen thưởng Thường Thanh, nói Thường Thanh biết tính toán đề phòng, mưu trí dẹp loạn, trù tính khôn khéo, mọi việc chu toàn, tuy tuổi quá bảy mươi, vẫn hăng hái ra trận, trung dũng đáng khen.. Càn Long không chỉ đắm chìm trong niềm say sưa của mình mà còn khen ngợi Hoà Thân, A Quế đã có những lời nói thẳng thắn, đưa ra nhiều mưu sách. Một cuộc nói chuyện khiến văn võ bá quan trong triều phải cúi đầu bái phục. A Quế tuổi già sức yếu, cười chẳng ra cười, khóc chẳng ra khóc, biết rõ trong đó có vấn đề, nhưng không tiện trình bày tại chỗ với Càn Long. Xuất phát từ lòng trung thành với Hoàng thượng, A Quế định chờ đến khi Càn Long tự nhìn thấy chỗ sai trái mới tâu, nếu không vậy, đất nước Đại Thanh to lớn này biết dựa vào ai!... Mùa thu đầy biến động, không thể vì một Đài Loan biến động mà khuấy động cả một đất nước. Khi Càn Long nhìn mình với ánh mắt khen ngợi, A Quế chỉ còn cách cúi đầu đáp lại, “Hoàng thượng anh minh”. Càn Long ban bố ngay chỉ dụ tặng thưởng Thường Thanh một số vàng bạc, châu báu, gấm vóc, con trai Thường Thanh làm thị vệ bậc ba bộ Hình, cho phép đến Đài Loan thăm cha. Ban thưởng cho các tướng sĩ có công và thương vong.
Nhờ bản tấu bịp bợm về chiến công, Thường Thanh được Hoàng đế Càn Long khen thưởng, cha con được sum họp, vừa mừng vừa lo, thầm cám ơn quỷ thần. Và do đó hạ quyết tâm, định đến ngày 24 tháng 5 xuất quân dẹp loạn Lâm Sáng Văn. Dân chúng trong thành bày bàn đặt rượu dọc hai bên đường phố khao quân Thanh đang trong khí thế hừng hực, không ít quân lính uống say lảo đảo, màn đêm buông xuống, vẫn chưa về trại, mà còn gây sự trên đường phố. Thường Thanh chẳng nể nang, lệnh giết mấy tên, mới ổn định được. Xét thấy quân Thanh bê tha, không có ý chí chiến đấu, Thường Thanh đành hạ lệnh ngày hôm sau tiến quân. Ngày 25, trời vừa sáng, hai chiếc cầu treo trên mặt hào thành phủ vang lên tiếng “cọt kẹt”, quân Thanh từ từ kéo ra khỏi thành. Thường Thanh nào có biết, cũng vào ngày ấy, Lâm Sáng Văn và Trang Đại Điền dẫn một vạn quân tấn công thành phủ. Nhờ có đường dây bí mật, họ biết được hôm ấy quân Thanh xuất quân, nên cho quân mai phục dọc hai bên đường. Thường Thanh vừa dẫn quân ra khỏi thành phủ đã gặp ngay quân của Trang Đại Điền và Lâm Sáng Văn tấn công từ hai bên dọc đường. Thường Thanh hãi quá, mất hết dũng khí, bỏ chạy, nằm rạp trên lưng ngựa, y như cọng cỏ bồng bềnh trên mặt nước bị sóng đập dồn dập, choáng váng run rẩy. Thường Thanh mơ màng nhìn thấy mấy nghĩa quân lưỡi dao lấp lánh đuổi theo, không vung nổi chiếc roi ngựa trong tay, gào thét trong đám loạn quân: “Giặc lấy đầu ta! Giặc lấy đầu ta!” Vừa thét vừa quay ngược chạy về, cảnh tượng diễn ra y hệt lần trước. Các tướng sĩ thấy vậy, không còn lòng dạ nào chiến đấu, tranh nhau rút vào thành. Quân Lâm Sáng Văn reo hò, thu nhặt binh khí vật tư của quân Thanh vứt bỏ lại, vui mừng cất cao tiếng hát. Sau khi bại trận rút vào thành phủ, Thường Thanh ra lệnh đóng chặt cửa thành cố thủ, và viết tấu về kinh xin điều thêm một vạn quân tiếp viện. Trong khi Thường Thanh rụt cổ co vòi nằm im trong thành, lực lượng Lâm Sáng Văn phát triển khá mạnh, chiếm cứ nhiều thôn trang. Trang Đại Điền lợi dụng tâm lý không dám ra đánh của Thường Thanh, cắt đứt đường giao thông thuỷ bộ giữa thành phủ với huyện Chư La và Lôi Tử Cảng huyện Chương Hoá. Quân Thanh rơi vào cảnh mỗi nơi tự chiến đấu, trong đó có Tổng binh Sài Đại Kỷ với 4.000 quân cố thủ Chư La, không dám xuất quân. Nhận thấy vị trí thành Chư La vô cùng quan trọng, nằm giữa Bắc - Nam là bình phong bảo vệ thành phủ, đánh chiếm được Chư La, là có thể đánh chiếm được thành phủ, chiếm cả Đài Loan. Vì vậy, từ tháng sáu trở đi, quân khởi nghĩa Lâm Sáng Văn tập trung lực lượng, bao vây thành phủ Chư La, tấn công suốt cả ngày đêm. Sài Đại Kỷ nhiều lần cho người liều chết thoát khỏi vòng vây đến Thường Thanh cầu cứu. Thường Thanh nói rõ tình cảnh khó khăn, rầu rĩ than thở “Bản tướng chẳng khác nào Bồ-tát bùn qua sông, lo cho mình chưa xong”. Nhưng lại nghĩ nếu không cho quân đi cứu, e rằng hoạ giáng lên đầu, nên nói tiếp, thành Chư La mất, lửa cháy đến cổng thành, tai hoạ đến nơi, thành phủ của mình càng khó phòng thủ. Bí quá, đành cử Tổng binh Nguỵ Đại Bân, tướng Lam Ngọc (con trai của Lam Nguyên Mai) dẫn 2.000 quân đi cứu viện, trên đường hành quân đụng đầu với quân khởi nghĩa, nhưng không dám đánh nhau, gặp trở ngại khó khăn lại quay về. Sức ép đối với Sài Đại Kỷ đột nhiên tăng lên, khổ hết chỗ nói.
Tình hình Đài Loan càng ngày càng xấu. Quân Thanh ở vào thế bất lợi, Thường Thanh tiếp tục báo cáo láo, lừa dối Càn Long. Thường Thanh chỉ còn cách như vậy, đã dối vua một lần thì mười lần sau cũng phải dối vua. Hai ngày 8 và 10 tháng 6, Trang Đại Điền đem quân tấn công mạnh vào đại doanh trại quân Thanh, tạo thế cho nghĩa quân đánh chiếm Đông Cảng ở Phong Sơn, Bát Cảng ở Chư La và Diêm Thuỷ Cảng, cắt đứt con đường vận chuyển lương thực. Thất bại đó cũng được Thường Thanh tô vẽ như sau: “Thần phái các tướng sĩ, một mặt chia thành nhiều cánh quân đi dẹp giặc, một mặt tiến quân bịt chặt Đồng Bàn Sạn, tiêu diệt hơn một trăm tên”. Thường Thanh cố thủ trong thành phủ, hoàn toàn không dám đem quân ra đánh, tham sống sợ chết, nhưng viết bản tấu gửi cho Càn Long thì bịp bợm nhằm che dấu tội lỗi của mình:
“Quân giặc bao vây công kích Diêm Thuỷ Cảng, tưởng như muốn cắt đứt con đường tiếp tế lương thực cho Chư La, nhằm đạt mục đích chiếm cứ, nhưng mục đích thực sự lại là thành phủ Ký Du. Thần đóng quân ở phía nam thành phủ, chưa dám di chuyển chờ điều thêm quân lính đến cùng nhau diệt địch”. Thường Thanh không nghĩ rằng Càn Long còn hiểu rõ hơn ông, biết rõ ý đồ thật sự của ông. Theo bản tấu của Thường Thanh, Càn Long ra chỉ dụ mới. Ngày 12 tháng 7, Càn Long chỉ dụ yêu cầu Thường Thanh chọn trong số Tổng binh, Phó tướng một người dũng cảm đáng tin cậy, cố thủ doanh trại, bản thân Thường Thanh dẫn các tướng sĩ tiến đến thành Chư La, phối hợp với Sài Đại Kỷ, đánh vào sào huyệt địch. Càn Long không hài lòng, còn viết trong chỉ dụ rằng: Diêm Thuỷ Cảng ở phía nam Chư La, Bát Cảng ở phía bắc Chư La, đều là con đường quan trọng để vận chuyển lương thực, bây giờ bị giặc chiếm, cắt đứt đường tiếp tế lương thực, tình hình Chư La vô cùng khẩn cấp. Xem ra địch rất xảo quyệt, còn đại quân cứu viện cho Đài Loan thì cố thủ trong thành không chịu ra đánh địch, chẳng khác nào tạo điều kiện tốt cho địch. Quân ta ở Chư La thế cô sức yếu, chờ đợi thành phủ cứu viện, quan quân như bị trói tay. Thường Thanh thì không rời xa doanh trại. Ý đồ thực sự của địch là cắt đứt đường tiếp tế lương thực, đánh chiếm thành huyện Chư La. Nếu thành Chư La bị mất, thành phủ Đài Loan cùng bị cô lập, bốn bề đều là địch, vấn đề vô cùng quan trọng. Cuối chỉ dụ, Càn Long còn nói rõ: Nhất định phải ra sức tiêu diệt bọn giặc ở Diêm Thuỷ Cảng và những nơi khác, đánh thông đường tiếp tế lương thực, giải vây cho Chư La, khiến Nam - Bắc liên lạc chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau, đó là thượng sách. Thường Thanh phải tự mình cầm quân tiến lên. Theo chỉ dụ của Càn Long, Thường Thanh không thể không sắp đặt chuẩn bị. Hạ tuần tháng bảy, Thường Thanh cử Tổng binh Thái Phan Long, Phó tướng Quế Lâm đi cứu viện Chư La. Bản thân đem quân đánh vào các thôn trang lân cận, nghĩ rằng sẽ không gặp quân chủ lực của Lâm Sáng Văn, và còn có cơ hội báo tin thắng trận. Thực tế, đúng như vậy, bản thân Thường Thanh đem quân tiến đánh không ít thôn trang, đốt cháy không ít cứ điểm của nghĩa quân, phá huỷ một số nhà của dân thường. Chỉ gặp một ít toán nghĩa quân, vừa mới xung phong đã bỏ chạy. Do vậy, tình hình chiến sự được báo cáo láo về kinh. Thái Phan Long dẫn quân đến Chư La từ hạ tuần tháng bảy, trên đường hành quân bị nghĩa quân Lâm Sáng Văn tấn công dữ dội, mãi đến ngày 18 tháng 8 mới đến được Chư La. Phó tướng Quế Lâm và tướng Dương Khởi Lân bị giết, quân sĩ thương vong nặng, trả giá khá đắt. Sài Đại Kỷ đưa quân ra đón Thái Phan Long và hơn 800 quân sống sót và 3.000 dân vận chuyển lương thực vào thành.
Khách quan mà nói, thành Chư La cố thủ được trong mấy tháng trời, không bị quân Lâm Sáng Văn tấn công, là nhờ có hoàn cảnh địa lý đặc biệt. Một con đường vận chuyển lương thực rộng rãi chạy ngoằn nghèo từ Nam đến Bắc, xuyên qua cổng thành phía Bắc và phía Nam của thành Chư La nằm ở vị trí chính giữa hai đoạn đường, tựa hồ một thỏi vàng. Thành Chư La nằm trên đỉnh cao chính giữa thỏi vàng, xung quanh bao bọc bởi một dãy núi nhấp nhô, tạo thành lá chắn tự nhiên của thành Chư La, đồng thời cũng khiến cảnh Chư La rơi vào thế dễ bị uy hiếp. Nghĩa là, một khi bị bao vây, kẻ tấn công khó lợi dụng vùng đất bao la xung quanh để tiến công, kẻ giải vây cũng khó tiến đánh bởi dãy núi chập chùng ngọn này nối tiếp ngọn kia. Thành Chư La như một hòn đảo nhỏ sừng sững giữa biển, Nam - Bắc thông nhau bởi một con đường vận chuyển lương thực.
Về đêm trời mát lạnh, tiếng mưa rơi tí tách, hơi nước bốc lên mù mịt cả miền đất rộng mênh mông. Những ngọn núi nhô cao vút thẳng lên bầu trời xanh thẳm, lặng lẽ đứng im. Sương mù buổi sáng lướt nhẹ quanh sườn núi, tựa hồ mái tóc bạc được gìn giữ từ ngàn năm xa xưa. Khắp nơi bao trùm một bầu không khí thần bí ẩn hiện hư hư thực thực. Chỉ khi ánh dương xuyên qua tầng mây chiếu xuống, mới thấy được những dãy núi kéo dài nối nhau liên tiếp, đường núi chật hẹp, thế núi dựng đứng, dốc núi nghiêng gấp, đất đá lẫn lộn, dải đất bằng phẳng nhô lên những ngọn núi cao, hiểm trở. Sài Đại Kỷ ngồi trên cửa thành đốc chiến, nét mặt uể oải, nhân lúc yên tĩnh ngắn ngủi bỗng nghĩ đến quê nhà vùng chân núi Nam Long, Triết Giang, nơi ấy có cây đa cổ thụ cành lá che khuất một góc bầu trời, dưới gốc cây có giếng nước vừa trong vừa ngọt, có loại gạo thơm ngon miệng. Sài Đại Kỷ đưa đôi mắt kiên cường hằn những tia máu lướt nhìn quân lính mặc y nguyên quần áo nằm trên bờ thành, lòng không khỏi buồn đau, ruột gan như bị lửa đốt, sốt ruột không yên, đôi lúc muốn chết, nhưng tử thần chẳng đoái hoài, nhờ Hoàng thượng phù hộ, Sài Đại Kỷ đã giữ được thành Chư La với 3.000 quân yếu đuối và dân chúng đói khát đầy thành. Người lính hầu bước đến mời Sài Đại Kỷ về nghỉ. Sài Đại Kỷ vừa đứng lên, cảm thấy đầu óc choáng váng, ngã chồm lên ụ tường thành, ngay lập tức quân sĩ đang ngủ say như lò xo bật dậy, khí thế bừng bừng. Sài Đại Kỷ cảm thấy hài lòng đôi chút. Dưới chân thành một đám dân chúng yếu đuối đứng co ro dựa sát tường thành vỗ tay hoan hô khi nhìn thấy mấy người lính dìu Sài Đại Kỷ bước xuống. Con đường hành lang lát gạch lặng lẽ tiễn đưa hình bóng gầy gò của Sài Đại Kỷ. Sài Đại Kỷ mắt vẫn nhìn thẳng, ghé tai nói nhỏ mấy câu với người lính hầu. Người lính bước đi độ một lát trên mặt thành vang lên tiếng va chạm của gươm giáo. Sài Đại Kỷ từ từ bước xuống, dân chúng hai bên đường phố trong thành ùa đến, trong tiếng bước chân vội vàng hối hả mang theo cả tinh thần hoảng loạn, ánh mắt nghi hoặc tập trung vào Sài Đại Kỷ. Sài Đại Kỷ như nhìn thấy suy nghĩ thầm kín của họ, nhìn thấy họ muốn biết sự thật từ miệng ông nói ra, đứng trước những người dân thề cùng sống chết với thành Chư La. Sài Đại Kỷ có phần xúc động, nhưng thật khó nới chính xác cho họ, có thể giữ nổi thành Chư La không, có thể giữ được bao lâu Sài Đại Kỷ biết rõ, lương thực trong thành chỉ còn đủ trong nửa tháng. Hôm qua, phải trả giá khá đắt mới đón tiếp được Thái Phan Long và 3.000 người dân vận chuyển lương thực, nhờ đó có thể kéo dài thêm được một thời gian. Điều khiến Sài Đại Kỷ cảm thấy được an ủi nhất là dân chúng trong thành kiên quyết ủng hộ mình, không xảy ra chuyện lộn xộn quậy phá, ai cũng coi Sài Đại Kỷ là người bảo vệ cho mình. Sài Đại Kỷ đứng giữa đám đông dân chúng, chớp chớp đôi mắt sâu hoắm, nói rõ to: “Thưa bà con, bọn giặc ngoài thành hung hăng càn rỡ, đốt nhà, cướp của, giết người, gây bao tội ác, bà con bỏ nhà đến đây là một nghĩa cử cao quý. Bọn giặc hùng hổ nhất thời, không thể kéo dài được mãi. Chỉ cần quân dân chúng ta hợp lực đồng tâm, sống chết có nhau, cố thủ thêm một thời gian, chờ đại quân đến, bọn giặc sẽ tan rã. Mọi người sẽ được trở về với gia đình ruộng vườn, sống cuộc sống an bình. Hôm nay Hoàng thượng lại ban thánh dụ, thăm hỏi an ủi thần dân, đợi đến khi dẹp xong quân giặc, dân chúng ai có cống hiến đặc biệt trong cuộc chiến đấu này sẽ được thăng quan cấp đất, chỉ cần có hành động nghĩa cử cũng được miễn sưu thuế”. Nụ cười đã biến mất từ lâu nay chợt hiện lên trên nét mặt, Sài Đại Kỷ cất cao giọng: “Sài Đại Kỷ này quyết không phá vây bỏ trốn, thề sống chết với Chư La”, nhân dân hoan hô, có người cảm động khóc thút thít, tranh nhau nhường đường cho Sài Đại Kỷ. Sài Đại Kỷ hiên ngang đi về phủ trong tiếng hoan hô của dân chúng. Mấy tháng chiến đấu gian khổ khiến ông quá mỏi mệt. Lâm Sáng Văn và các thủ lĩnh nghĩa quân hiểu rõ vị trí quan trọng của Chư La, quyết tâm đánh chiếm Chư La. Do vậy, khí thế tiến công ngày càng mãnh liệt. Nếu để xảy ra sơ suất, thành trì có thể bị công phá, cho nên Sài Đại Kỷ, một mặt tự mình đốc chiến, ngày đêm không nghỉ; một mặt cử những quân lính dũng cảm nhiều lần đến cầu cứu Thường Thanh, nhưng Thường Thanh bỏ mặc. Sài Đại Kỷ cảm thấy tuyệt vọng, buồn giận khôn cùng, chỉ còn biết liều chết cố thủ. Lúc này, lòng Sài Đại Kỷ dâng lên niềm tự hào, chiến sự khẩn trương, cố sức gắng gượng chống đỡ.
Khi Phó tướng Thái Phan Long cưỡi ngựa từ phía bắc thành trở về, Sài Đại Kỷ đã chợp mắt được một lát bên chiếc bàn trong phủ. Thái Phan Long tay cầm roi ngựa bước thẳng vào đánh thức Sài Đại Kỷ. Sài Đại Kỷ ngáp một cái, vội lệnh cho vệ sĩ rót trà mời Thái Phan Long.
- Sài Tổng binh, hôm nọ quân lính được phái đi hôm nay mang thương tật quay về, nói rằng, những nơi hiểm yếu từ Phong Sơn đến Chương Hoá, đều bị giặc chiếm, chặn đường. Thường Thanh chỉ cử một số ít quân đến cứu viện, nhưng lại bị chặn đánh không tiến lên được. Ngài xem, chúng ta nên làm thế nào? Thái Phan Long nói.
Sài Đại Kỷ tái mặt, đôi môi run rẩy, vỗ bàn thét:
- Một lũ ham sống sợ chết. Con đường nam - bắc để giặc khống chế, quan binh mỗi người cố thủ một nơi, cách nhau xa xôi, chẳng ai dám xuất kích, để cho quân giặc hung hăng, để Chư La bị vây khốn mấy tháng trời. Khổ nỗi, ta chỉ có 3.000 tàn quân, lại phải bảo vệ cho 4 vạn dân, đáng hận Thường Thanh, trong tay có 5 vạn đại quân mà án binh bất động, ta nghĩ rằng phải tấu báo tình hình này lên Hoàng thượng, cử người khác cầm quân. Huống hồ, thành Chư La là lá chắn cho thành phủ, môi hở răng lạnh, lẽ nào Thường Thanh không hiểu được điều đó. Sài Đại Kỷ đứng lên cầm bút mực viết một lá thư, gọi người cận vệ dặn dò: - Phải mang cho được thư này đến Diêm Thủy Cảng, ở đó có trạm liên lạc trực tiếp chuyển về triều đình, nếu Hằng Thụy biết, nói là công văn hoả tốc của Sài Đại Kỷ; xin viện binh, mong ông ta nói giúp.
Người lính cận vệ gật đầu, quay mình bước đi. Một lát sau, một chiến mã phi ra khỏi thành.
Sài Đại Kỷ hỏi Thái Phan Long:
- Lâm Sáng Văn mấy lần cướp mất lương thực, cứ tiếp tục như vậy, mấy vạn người ngựa trong thành sẽ ăn gì?
- Tôi có một kế, không biết có thực hiện được không.
- Hãy nói cho ta nghe xem.
- Tổng binh có thấy sau mỗi lần công thành, bọn giặc lại lo nghĩ mấy ngày, đứng trên thành, nhìn thấy thấp thoáng trong doanh trại giặc có không ít gái đẹp lẫn lộn trong đám lính địch, chắc là bọn giặc cướp họ về để làm trò chơi tiêu khiển. Bọn lính đứng gác chỉ là cho có mặt, thỉnh thoảng vứt vũ khí vào lều hóng mát, rất là lỏng lẻo lơ là, chi bằng nhân lúc trưa trời nóng bức, đem quân ra cướp lấy lương thực của chúng để cho quân dân trong thành dùng.
Sài Đại Kỷ gật gật đầu, vỗ tay tán thưởng:
- Vậy thì trưa mai, hai chúng ta, mỗi người dẫn một cánh quân, ra thành tập kích, nhưng quyết không được phá vòng vây.
Tình thế như xoay chuyển, tối hôm Sài Đại Kỷ và Thái Phan Long tấn công vào doanh trại Lâm Sáng Văn, quan kỳ bài phi ngựa vào phủ Tổng binh báo rằng Lý Nguyệt Phu, người của Lâm Sáng Văn đến xin đầu hàng. Sài Đại Kỷ vui mừng, bước lên cổng thành, xem rõ hư thực. Quả nhiên nhìn thấy phía bên kia hào thành có một toán người ngựa, người đi đầu cưỡi chiến mã có vẻ sốt ruột, đi đi lại lại bên bờ hào thành. Sài Đại Kỷ lệnh cho quân lính thả chiếc cầu treo, để cho Lý Nguyệt Phu và đoàn người cùng đi vào thành. Sài Đại Kỷ có nghe nói về Lý Nguyệt Phu, vốn là sai dịch của phủ nha huyện Du, sau khi theo Lâm Sáng Văn; nhờ có chút ít học vấn và có võ nghệ, lại đánh thắng được mấy trận, nên được đề bạt làm tướng, hiện nay là đầu mục của một vùng núi kề cận ngoài thành, cai quản các đầu mục quân giặc ở Bố Đại Vĩ, Song Khẩu Khanh. Khi Lý Nguyệt Phu dẫn đoàn người vừa qua khỏi cầu treo, Sài Đại Kỷ nhìn thấy Lý Nguyệt Phu nhân trời tối quay lại vứt một cái gì đó. Sài Đại Kỷ giật mình, “trá hàng!” phải chăng Lâm Sáng Văn thấy đánh thành đã lâu mà không chiếm được nên nghĩ ra quỷ kế. Sài Đại Kỷ nói nhỏ với người cận vệ mấy câu, điềm nhiên nói với Lý Nguyệt Phu đang bước tới:
- Lý tướng quân cải tà quy chính, đủ thấy lòng trung thành của tướng quân đối với triều đình.
Lý Nguyệt Phu quỳ xuống đáp:
- Tiểu nhân nhất thời bị Lâm Sáng Văn cưỡng bức, thật bất đắc dĩ mới gia nhập vào hàng ngũ bọn giặc, mong đại nhân tha tội.
- Ngài làm thế nào thoát ra được, vợ con ngài ở đâu? Sài Đại Kỷ hỏi.
- Tiểu dân chưa có gia đình. Trưa hôm nay Sài đại nhân đến cướp doanh trại, mọi người sợ hãi, khiếp trước uy danh, tiểu dân tỉnh ngộ, biết đi nhầm đường.
- Quan kỳ bài, đưa họ vào phòng khách nghỉ, tiếp đãi chu đáo.
Tối đó, Lý Nguyệt Phu và những người cùng đi theo ngủ một mạch đến sáng. Vừa mở mắt, Lý Nguyệt Phu nhìn thấy lưỡi dao sáng quắc, sắc lạnh kề cổ, không thể cựa quậy được, mặt tái xám, gào to:
- Các ngươi sao lại làm thế này? Chẳng phải Hoàng đế Càn Long đã có chỉ dụ, chỉ cần quy hàng, lập công chuộc tội, đều được coi là nghĩa cử đó sao?
Quân Thanh không cần nghe phân giải, trói Nguyệt Phu lại, đánh đá túi bụi, giải đến phủ Tổng binh.
Sài Đại Kỷ ngồi uy nghiêm trên công đường, mặt lạnh như tiền, nhìn Lý Nguyệt Phu thét lớn:
- Lâm Sáng Văn là một tên xảo quyệt, dám dùng quỷ kế trá hàng lừa ta. Nói xong vung tay, một mảnh giấy bị vò nát rơi xuống trước mặt Lý Nguyệt Phu.
Lý Nguyệt Phu mặt không còn tí máu, cúi đầu không nói, mấy người khác thì lạy như tế sao xin được tha chết.
Sài Đại Kỷ cười nhạt nói:
- Kiến mà muốn rung cây, đem ra ngoài chém.
Lý Nguyệt Phu lúc này vẫn tỏ rõ khí phách anh hùng, đứng dậy, cười to:
- Chết nơi chiến trường, cái chết đó chẳng có gì đáng tiếc, ta cười ngày tận số của ngươi và bọn tham quan ô lại sắp đến rồi. Thành Chư La sắp bị đánh chiếm, dẫu các ngươi có cố thủ, cố thủ được mấy tháng, cố thủ được một năm không? Đại tướng quân Lâm Sáng Văn của chúng ta sẽ điều 20 vạn đại quân vây đánh thành. Sài Đại Kỷ, mạng của người sắp hết rồi. Lý Nguyệt Phu này, trước đây vì triều đình mà bỏ công sức, nhưng thấy khắp nơi nồng nặc hôi thối, khiến những người chính nghĩa không thể chịu nổi. Sài Đại Kỷ, người đến Đài Loan chưa đến một năm, đục khoét xương máu của dân chúng Đài Loan chưa đủ sao? Dù ta thất bại, liệu triều đình có tha cho ngươi không?
Sài Đại Kỷ cả giận, quát mắng:
- Tên phản nghịch, hàng ngày lừa dối dân chúng, muốn làm gì thì làm, giúp kẻ xấu làm bậy, đồng loã với giặc. Giả hàng để đánh chiếm thành, tội không thể tha. Chết đã đến nơi mà còn lắm mồm, người đâu, lôi hắn đi.
Lý Nguyệt Phu chẳng chút sợ hãi, bước đi vững chắc ra khỏi phủ Tổng binh. Những lời nói của Lý Nguyệt Phu đôi lúc vang vọng vào bên trong phủ đường, nhất là câu “Ngày tận số của Sài Đại Kỷ sắp đến rồi” làm đau nhói tim của Sài Đại Kỷ. Ông nghĩ, nếu thành Chư La bị thất thủ, bản thân sẽ chết, nếu cố thủ được, công lớn này sẽ át được cái tội tham ô. Nghĩ vậy, ông cầm bút viết cho Thường Thanh một lá thư cầu viện với lời lẽ tha thiết.
Thường Thanh lo lắng không phải vì bức thư cầu viện của Sài Đại Kỷ. Nếu chỉ là bức thư của Sài Đại Kỷ không thôi, Thường Thanh sẽ bỏ mặc như vừa qua. Cái chính là trong chỉ dụ, Càn Long nhận thấy việc cố thủ thành phủ, án binh bất động, không đưa quân đi giải vây Chư La là không phải lý do xác đáng. Thường Thanh tay cầm chỉ dụ như người bệnh ốm nặng cầm bức thông điệp của thần chết, cảm thấy, nếu không dẹp được cuộc khởi nghĩa của Lâm Sáng Văn thì tai hoạ sẽ ập xuống đầu. Càn Long chỉ dụ: “Nghe nói Lâm Sáng Văn kéo dài cuộc vây đánh thành Chư La. Sợ địch cố thủ thành phủ không dám đem quân ra đánh là sai lầm. Sài Đại Kỷ hiện nay bị vây đánh ở Chư La, đường tiếp tế lương thực bị cắt đứt xin thêm viện binh đến cứu. Thường Thanh phải tự mình đem đại quân đi tiếp ứng, nếu chỉ cử một ít lính tráng đi, còn mình ở lại giữ thành, vậy làm sao tiêu diệt được địch? Xem ra, các tướng quân Thường Thanh, Hằng Thụy vẫn còn mơ hồ lúng túng, hết sai lầm này đến sai lầm khác, lệnh cho khanh tiến đến Chư La, không được cố thủ ngồi chờ, để lỡ thời cơ, tự rước lấy tội”. Thường Thanh đầu nóng bốc hơi, mồ hôi toát ra, ướt đẫm cả tai và cổ nghĩ bụng, chắc chắn Sài Đại Kỷ đã bẩm báo với Hoàng thượng, may là chưa nói thật việc ta báo láo tình hình chiến sự để được khen thưởng. Cho dù như vậy, Sài Đại Kỷ nhà ngươi cũng lãnh đủ thảm hại sau một trận trầy da tróc vảy. Thường Thanh xem tiếp đoạn dưới, “trong bản tấu của Thường Thanh nói, cái gọi là giặc phá đường gây trở ngại, nên phải án binh bất động” là không có cơ sở, thử hỏi: đường hỏng, quan quân người ngựa khó đi, vậy quân giặc đi lại cũng không dễ. Thế nhưng mấy tháng qua, giặc vẫn xâm chiếm các nơi, đến nay cả một vùng núi lân cận và vùng Tam Hồ đều là sào huyệt của địch, có hàng vạn người, hay ít nhất cũng hàng ngàn người theo địch. Vậy họ đi bằng con đường nào? Quan binh lấy cớ đường sá hư hỏng không hành quân được thế thì giặc sao lại hành quân được, thật là vô lý! Phép hành quân, cốt ở chỗ linh hoạt biến đổi, quyết không thể ngồi chờ, gặp khó khăn nguy hiểm phải tìm cách mở đường tiến lên, phải chăng đường không thông thì không tiến quân? Khoảng cách giữa thành phủ của Thường Thanh với cứ điểm Nam Trạch của đầu mục giặc Trang Đại Điền không đầy năm dặm, Thường Thanh đến Đài Loan đã mấy tháng mà không nghĩ cách đánh cứ điểm của giặc ở ngay sát nách, để cho thế giặc lớn mạnh, đúng ra nhanh chóng đem đại quân tiêu diệt trước sào huyệt đầu mục Trang Đại Điền, thế mà lại cố thủ trong thành, thật khó hiểu nổi. Nếu Thường Thanh biết tìm cách tiến quân, đâu đến nỗi quân đội phải chịu khổ sở mệt nhọc lâu dài, vậy các người đáng được tin dùng không? Thường Thanh không chịu tiến quân lên phía bắc, lại không thừa thế tiêu diệt giặc ở phía nam.
Chỉ ngồi trong thành phủ cố thủ cho qua chuyện? Một tờ thánh dụ khiến Thường Thanh nghẹt thở, suy đi nghĩ lại, lại nghĩ đến Hoà Thân. Lúc này chỉ có Hoà Thân mới cứu được mình. Thường Thanh tựa vào bàn đứng dậy, xoa cặp mắt, cầm bút nhưng chẳng biết nên viết thế nào? Ông không tìm được lý do nào để biện bạch cho mình, bí quá, đành phóng bút viết: “Kính Hoà đại nhân: kẻ hậu sinh Thường Thanh từ khi đến Đài Loan, ngày đêm lo nghĩ, điều binh khiển tướng, nắm bắt tình hình, nhiều lần đánh lui quân giặc, nhưng vì thế giặc lớn mạnh, chiến sự tiến triển không thuận, đã lâu mà chưa bình định được giặc thật đáng xấu hổ, đã phụ ân đức nâng đỡ của tướng phụ... Tối qua lúc đi tuần tra doanh trại, một trận gió cát đập vào mắt, kẻ hậu sinh dùng nước rửa mặt, không ngờ bệnh cũ tái phát, nhờ thầy thuốc chữa trị mới bắt đầu nhìn thấy ánh sáng, nhưng không thể nhìn lâu, nhìn lâu đầu đau như búa bổ, không thể hành quân tác chiến, gặp gió nước mắt cứ tuôn chảy. Kẻ hậu sinh này rất muốn giết giặc, nhưng ngặt vì mắt đau, rất mong Hoà đại nhân nói khéo với Hoàng thượng, xin cử người khác đến cầm quân đánh giặc. Vì lâu chưa về kinh, nên chưa thể đến quý phủ thăm Hoà phu nhân, thật có lỗi,...” Thường Thanh viết xong, xem kỹ lại, sửa chữa một vài ngôn từ, chép sao thêm một bản, bỏ vào túi gấm, niêm phong lại, gọi người thân tín đến, ghé sát tai dặn dò hồi lâu, mới an tâm để anh ta ra đi.
Lòng trung thành của Sài Đại Kỷ được Càn Long thấu hiểu. Càn Long, trong dụ chỉ công bố trước các đại thần quân cơ, khen thưởng Sài Đại Kỷ. Đêm hè, thành Chư La như bị nhốt trong chiếc lồng nóng bức ghê người, phủ đệ của Sài Đại Kỷ cùng nằm trong cảnh ấy. Sài Đại Kỷ ngồi trong thư phòng, bên cạnh chiếc đèn lồng, xem lại một lần nữa chỉ dụ của Càn Long. Từ chiếc ao sau vườn vọng lại tiếng ếch nhái, cùng mùi thơm hoa sen thoang thoảng. Cặp mắt màu xám, nghiêm nghị của Sài Đại Kỷ cứ xem đi xem lại những lời khen ngợi của Càn Long, lòng dâng trào niềm vui sướng. Ông cảm động, đặt thánh chỉ lên chiếc bàn hướng về phía bắc, tự mình đốt ba nén nhang, mê mẩn nhìn theo ba làn khói xanh cuộn bay lên nóc nhà. Ông cung kính quỳ xuống, mặt hướng về phương bắc, khấu đầu chín lần. Ông cảm thấy công sức giữ thành của mình không hoài phí, giống như một đứa trẻ làm điều tốt nhưng bị oan, bỗng được người ta hiểu rõ và khen ngợi. Sài Đại Kỷ cảm động đến nghẹn ngào...
Thành Bắc Kinh vào tháng sáu, mặt đất như lửa đốt. Hơi nóng cuồn cuộn bốc lên trên đường phố, đốt sém những chiếc lá xanh, nung nóng những tấm biển đồng treo trước các cửa hiệu. Nhưng Hòa Thân, người được Hoàng đế Càn Long sủng ái vẫn muốn đến thăm Càn Long trong lúc khí trời cực kỳ nóng bức như thế này. Lúc này, Hòa Thân đã là Hiệp biện Đại học sĩ, Hành tẩu Cục quân cơ, kiêm Thượng thư bộ Hộ và bộ Lại, được ban Nhất đẳng Nam tước. Hòa Thân ngồi trong chiếc kiệu tám người khiêng, lòng vô cùng dễ chịu. Thường Thanh gọi ông là tướng phụ, thật hợp với ý ông. Thân hình béo phì của Hòa Thân lắc lư theo nhịp đi của phu kiệu. Lá thư của Thường Thanh đã quán triệt lời dạy bảo của Hòa Thân, và còn thực hiện khá xuất sắc. Trong kho phủ Hòa Thân lại có thêm hai vạn lạng bạc trắng và một số châu báu quý hiếm. Kiệu Hòa Thân vừa đến Ngọ Môn, đã thấy thái giám nội cung vội vàng chạy ra. Hòa Thân gọi dừng lại. Thái giám nhìn thấy kiệu Hòa Thân chạy đến báo:
- Hòa đại nhân, đại nhân đến đúng lúc. Hoàng thượng thấy khó chịu, trời nóng bức quá, vẫn bảo nô tài đi mời đại nhân vào cung. Đại nhân không biết đấy, thời gian đại nhân vắng mặt ở kinh thành, Hoàng thượng đứng ngồi không yên, suốt ngày nhắc đến đại nhân. Đại nhân mau đến Dưỡng Tâm Trai đi, Hoàng thượng đang chờ đại nhân ở đấy.
Hòa Thân đắc ý, nói với Tổng quản thái giám:
- Thần cũng không giờ phút nào không nhớ đến Đức vạn tuế. Nói xong lệnh cho kiệu đi thẳng vào Dưỡng Tâm Trai.
Dưỡng Tâm Trai là nơi nghỉ mát trong cung của Hoàng đế Càn Long và Hoàng Hậu. Do chiến sự ở Đài Loan, Càn Long không đi nghỉ mát ở Sơn Trang, Thừa Đức. Dưỡng Tâm Trai nằm dưới chân núi Đôi Tú trong Ngư Hoa Viên, hậu cung, mặt đối diện với Bắc Hải. Núi Đôi Tú nhấp nhô những tảng đá kỳ dị tắm mình trong những suối nước phun lên từ lòng đất, trông thật tươi mát. Hòa Thân xuống kiệu vội vội vàng vàng bước đi trên con đường dẫn tới Dưỡng Tâm Trai. Dưới chân tường cao màu đỏ, hai hàng thái giám đứng trực, tay xuôi, người thẳng nét mặt nghiêm trang. Hòa Thân có phần lo lắng, không rõ Càn Long muốn gặp mình có việc gì đây. Đang suy nghĩ, nghe từ trong truyền ra:
- Truyền Hòa Thân vào cung yết kiến Hoàng thượng.
Hòa Thân vội bước nhanh hơn, vừa vào Dưỡng Tâm Trai đã thấy Hoàng thượng ngồi trước bàn chất đầy những bản tấu, nét mặt giận dữ. Hòa Thân quỳ xuống tâu:
- Nô tài Hòa Thân yết kiến Hoàng thượng.
Càn Long “hừm” một tiếng rồi nói:
- Nóng bức khó chịu, chiến sự cũng khó chịu, Trẫm ăn không ngon ngủ không yên.
Hòa Thân ngẩng đầu tâu:
- Hoàng thượng cần gì phải lo lắng như vậy. Nô tài đến vùng Mân - Triết lần này, nhìn thấy sĩ khí hừng hực, nghe nói, Thường Thanh lại bắt đầu tấn công bọn giặc Lâm Sáng Văn.
Càn Long vụt đứng dậy, nghiêm giọng:
- Chớ nói hồ đồ. Thường Thanh báo láo chiến công, tình thế rõ ràng bất lợi, lại còn dối Trẫm ư, hắn là môn sinh của khanh phải không.
Hòa Thân run rẩy tâu:
- Hoàng thượng, nô tài, nô tài cũng mới chỉ nghe một phía, nô tài đáng chết.
Càn Long vẫy tay:
- Đứng dậy! Ngồi xuống! Trẫm không buộc tội khanh, Trẫm đã đọc bản tấu của Sài Đại Kỷ ở Đài Loan mới biết sự thật. Nhìn Hòa Thân đang ngồi, nói tiếp: - Việc vận chuyển lương thực tiến triển như thế nào? Mí mắt Càn Long chớp chớp.
- Có lệnh của Đức vạn tuế, công việc rất thuận lợi. Các nhà buôn muối như Phan Văn Nghiêm, Lý Niệm Đức ở Quảng Đông quyên góp được 55 vạn lạng bạc, ở Trường Lô, Sơn Đông góp được 50 vạn lạng, Hà Vĩnh Hòa ở Lưỡng Triết quyên góp được 70 vạn lạng, Giang Quảng Đạt ở Lưỡng Hòa quyên được 200 vạn lạng, để dùng vào quân nhu và thưởng ba quân.
Càn Long gật đầu không nói, nghĩ bụng: Hòa Thân làm việc khá trôi chảy. Đáng tiếc không phải là võ tướng, nếu không, cử Hòa Thân đi Đài Loan là thích hợp nhất.
Bên ngoài, tiếng ve kêu trầm bổng, bên trong khắp bốn góc nhà đầy những nước đá do các thái giám nội cung chuẩn bị sẵn. Hơi nước mát lạnh quyện lẫn với tiếng sột soạt giở xem từng trang bản tấu. Càn Long sầm mặt lại không còn vui như hôm trước. “Thường Thanh vẫn án binh bất động, Chư La sắp nguy khốn. Ánh mắt Càn Long dừng lại trên hàng chữ ấy. Vì sao có 5 vạn đại quân mà không thừa thế đánh địch, thật khó hiểu nổi. Càng nghĩ càng tức, đưa mắt liếc nhìn Hòa Thân, nghĩ bụng, Thường Thanh do Hòa Thân tiến cử, chẳng qua là một tên rượu thịt, một kẻ tham sống sợ chết, nhưng lại không đành trút giận lên Hòa Thân, cúi đầu yên lặng. Hòa Thân biết thóp được thế giới nội tâm của Càn Long lúc này. Càn Long nể mặt mình nên không tiện nói thật. Vậy tiến cử ai đây? Nếu Đài Loan không nhanh chóng được bình định, không những Thường Thanh bị trừng phạt mà cả ta cũng bị liên lụy, chi bằng sớm kết thúc có hay hơn không? Đầu óc vụt lóe sáng. Đúng rồi, lần trước chẳng phải Càn Long đã nhắc đến Phúc Khang An là gì, tuy hắn với ta bất hòa với nhau. Trước nay hắn coi thường ta, nhưng lần này đẩy hắn ra Đài Loan. Nếu thắng, trước mặt Càn Long ta cũng có công tiến cử; bại, nhân đấy thẳng tay đả kích hắn. Hòa Thân biết rõ, giữa Phúc Khang An với Càn Long có mối quan hệ khá tế nhị. Dẫu Phúc Khang An không công nhận lòng tốt của ta, Càn Long vẫn phải công nhận bụng dạ Hòa Thân này không hẹp hòi, thật sự chia sẻ lo âu với Hoàng thượng. Nghĩ như vậy, Hòa Thân tâu:
- Nô tài khi ở Mân - Triết lo việc quản lương nghe nói Thường Thanh tuổi cao, sức khỏe ngày càng suy yếu, không thể cầm quân đánh giặc.
- Sức khỏe gì, chỉ cố thủ ngồi chờ.
- Đúng đúng, theo nô tài, chi bằng thay người khác, phải cử một tướng từng trải chinh chiến. Nô tài cho rằng, Tổng đốc Thiểm - Cam, Phúc Khang An là người thích hợp, võ nghệ tài giỏi, mưu dũng song toàn, nhiều kinh nghiệm chiến đấu hơn Thường Thanh, đã từng trải qua nhiều trận ác liệt hiểm nguy, tuy rằng vùng Thiểm - Cam còn cần Phúc Khang An trấn giữ, nhưng công việc có nặng - nhẹ, nhanh - chậm, trước - sau, chính - phụ. Ý Hoàng thượng thế nào?
Nét buồn u ám trên khuôn mặt Càn Long dần dần tan biến, Càn Long nghĩ thầm: ôi Hòa Thân vẫn là Hòa Thân, ta không chỉ một lần nghe Phúc Khang An nói ra nói vào châm chọc Hòa Thân, lần trước vì chuyện trông coi sửa chữa lăng vua, hai người đã mâu thuẫn nhau, như nước với lửa. Đáng quý là, Hòa Thân bỏ qua hiềm khích trước đây. Lòng dạ khá rộng rãi. Càn Long gật đầu nói:
- Rất hợp ý Trẫm.
Hòa Thân đứng dậy, rời khỏi ghế, tâu:
- Cần triệu tập các đại thần khác không?
Càn Long khoác tay:
- Không cần, Trẫm sẽ hạ chỉ, khanh mang chỉ dụ của Trẫm truyền lại cho Cục Quân cơ, cứ thế thi hành.
Hòa Thân lại hỏi:
- Với Thường Thanh thì thế nào? Theo nô tài, nếu bây giờ hạ chỉ xét xử thì chưa thích hợp, hơn nữa, Thường Thanh chưa phạm lỗi lầm gì lớn, thế giặc lúc đầu hung hăng, ào ạt, chưa rõ hết tình hình.
Càn Long nhìn Hòa Thân, nói:
- Ý khanh, Trẫm rõ. Thường Thanh không chịu tiến quân lên bắc, lại không thừa thế diệt địch ở phía nam, chỉ muốn ngồi giữ thành phủ Đài Loan cho đến già, vậy có thể hoàn thành được nhiệm vụ không? Thường Thanh tuổi cao, ở lại quân đội, quả thực vô ích. Nhưng Trẫm không muốn xét xử y trước khi tình hình chưa ổn định, chờ Phúc Khang An đến Đài Loan, để Phúc Khang An quyết định, hoặc giữ ông ta ở lại quân đội, hoặc không dùng ông ta thì lệnh cho ông ta về kinh gặp Trẫm.
Hòa Thận không tiện nói thêm, cáo từ rút lui.
Thường Thanh không dẹp nổi quân khởi nghĩa Lâm Sáng Văn, làm mất lòng tin của Càn Long. Sau khi suy tính, Càn Long dựa vào ý kiến Hòa Thân viết chỉ dụ cử Phúc Khang An đến Đài Loan. Chỉ dụ viết rõ, lệnh Hiệp biện Đại học sĩ, Tổng đốc Thiểm - Cam, Phúc Khang An đến Đài Loan, thay Thường Thanh chỉ huy quân đội, và chỉ dụ Hải Lan Sát làm đại thần tham tán, Phổ Nhĩ Phổ làm đại thần lãnh đội, mỗi người dẫn 20 thị vệ nội cung đến Đài Loan. Tháng 8, năm Càn Long thứ 52, cử Phúc Khang An làm tướng quân, điều quân ở các nơi Hồ Nam, Hồ Bắc, Quý Châu, Tứ Xuyên, v.v... mỗi nơi 2.000 người tăng viện cho Đài Loan. Thực ra, số quân được cử đến cứu viện Đài Loan là do Hòa Thân quy định, ông ta tâu với Càn Long, quân cốt tinh chứ không cần đông, hơn nữa ở Đài Loan đã có 10 vạn đại quân rồi. Quân Lâm Sáng Văn chẳng qua là bọn ô hợp, huênh hoang là có 20 vạn, thực tế chỉ có mấy vạn người. Đại quân càng đông, nhu cầu lương thực càng nhiều, các nơi phải đóng góp, dễ sinh ra oán hờn,v.v... Sau khi chuẩn y, Càn Long lại chỉ dụ cho Tổng binh Đài Loan, Sài Đại Kỷ không nhất thiết cố thủ sống chết với thành phủ, nếu nguy cấp có thể cho quân đánh tháo bỏ thành sau sẽ tìm cách chiếm lại và phong cho Sài Đại Kỷ tước vị Thái tử Thái bảo, nhận thấy Chư La bị vây khốn lâu ngày, quân dân trong thành ra sức bảo vệ, dốc lòng vì nghĩa, nên đặc ban cho thành Chư La cái tên Thành huyện Gia Nghĩa.
Phúc Khang An từ khi chào đời, đã được Càn Long che chở, sủng ái, đến mức các hoàng tử khác cũng phải thèm thuồng ghen tỵ. Phúc Khang An từng tham gia hai chiến dịch bình định Kim Xuyên, dẹp yên cuộc khởi nghĩa của Điền Ngữ, dân tộc Hồi ở Cam Túc, qua những chiến công hiển hách càng được Càn Long sủng ái, được vẽ hình treo tại Tử Quang Các.
Tháng 8, năm Càn Long thứ 52, Phúc Khang An đứng ngồi không yên. Trước hết, Phúc Khang An không muốn đem quân đánh giặc ở Đài Loan xa xôi cách trở bởi một eo biển tách rời đại lục, thế giặc lại mạnh, địa hình không quen thuộc, rối như tơ vò, chẳng biết đâu mà lần; thứ hai, Hoàng đế Càn Long chỉ điều cho mình vẻn vẹn không quá 6.000 quân, như vậy chẳng khác nào thả một con dê giữa bầy lang sói, nhưng không thể chống lại được thánh chỉ, trên đường đi đến Đài Loan, lòng buồn rười rượi. Phúc Khang An có dáng người đoan chính, đôi mắt cú vọ, mũi nhọn tựa mỏ diều hâu, nhạy bén lạ thường, nói cách khác là một con người lòng dạ hẹp hòi, đố kỵ ghen tỵ. Khi đến mặt trận Mân - Triết, suốt ngày ngồi nhìn nước biển mênh mông, chẳng làm việc gì, viết một bản tấu gửi Càn Long: “Thần tuân chỉ, trên đường đi được xem bản tấu của Thường Thanh, biết quan binh hai lộ nam bắc chưa đến kịp, nên lực lượng chưa đủ. Hiện nay, quan binh miền Triết -Việt đang tiếp tục vượt biển, nhưng vẫn chưa ra trận, e rằng chưa thật đủ sức, quân đội Tứ Xuyên chưa đến. Sài Đại Kỷ sức yếu thế cô, bị vây khốn đã nhiều tháng, Thường Thanh có đưa quân đến cứu nhưng quân ít lại bị hao tổn dần. Tinh thần quân lính giảm sút, khó tấn công địch ngay. Nếu cho quân trong thành phủ ra cứu viện, quân giặc lại xảo trá, thấy quan binh tập trung ở Chư La, lại tấn công thành phủ, thần đang trù tính kế hoạch, khẩn khiết xin Hoàng Thượng lệnh cho các tỉnh điều ngay tất cả 8.000 quân như chỉ dụ trước đây đến Mân để tham chiến”. Viết xong, dục người chuyển gấp bản tấu về cho Càn Long, còn bản thân ở trong phủ đô đốc vui chơi hưởng lạc.
Càn Long nhận được bản tấu của Phúc Khang An, nghĩ bụng, Phúc Khang An đã phụ ân Trẫm, đứng trước đám giặc nhỏ nhoi, bản thân có nhiều kinh nghiệm chinh chiến, lẽ nào lại khiếp sợ giặc ư? Nhất định Phúc Khang An nhận thấy thế lực giặc quá mạnh, lực lượng quan binh quá yếu, nên lo sợ. Càn Long lập tức triệu tập các đại thần quân cơ bàn bạc. Hòa Thân hăng hái nói, Phúc Khang An vẫn là con nhà tướng, Hoàng thượng đối xử với Phúc Khang An như tình cha con, nhưng danh phận vua tôi rõ ràng, Phúc Khang An vẫn hăng hái dũng cảm. Nhưng, có lẽ Phúc Khang An nhiều năm không chinh chiến, dùng binh bỡ ngỡ, thiếu niềm tin, v.v... Càn Long khen Hòa Thân nói phải. Chỉ có Đại học sĩ, người đứng đầu Cục quân cơ, anh dũng mưu lược bậc nhất, A Quế đưa ra kế sách cụ thể như sau: quân giặc ngồi cao nhìn xuống, quan binh tiến vào sào huyệt, chúng ắt phải ra chặn đánh, thăm dò hư thực, Lâm Sáng Văn có thể theo dõi lúc quân lính nghỉ ngơi, thả lỏng lúc đầu rồi sau chặn đánh, tấn công bốn phía. Nếu đem quân đánh, quan quân không đủ. Chỉ có cách lệnh cho quân ở các nơi hiểm yếu như thành phủ, Chư La, Lộc Tử Cảng tiếp tục phòng thủ, rồi chọn 2-3 vạn quân tinh nhuệ chọc thẳng vào sào huyệt giặc, mới có thể thành công. Càn Long tán thành, áp dụng kế hoạch của A Quế. Hòa Thân ít nhiều cảm thấy khó chịu, nhắc lại ý mình vừa nói trên một thôi một hồi. Càn Long cũng tán thành, thế là cân bằng.
Càn Long trong ba ngày 24, 25, 26 tháng 8, liên tiếp ra ba đạo chỉ dụ, để động viên cổ vũ Phúc Khang An yên tâm đánh thắng giặc. Càn Long viết trong chỉ dụ như sau: “Chiến sự Đài Loan từ khi bắt đầu đến nay, không thể không có mối quan hệ chặt chẽ với quan lại địa phương, do trước đây không xử lý thỏa đáng, khiến dân chúng vô cùng oán hận. Sau lại không đánh dẹp được, để thế giặc lớn mạnh. Vấn đề quan trọng nhất là do Thường Thanh khiếp sợ, hoang mang không dám đánh địch, nên cử Phúc Khang An đến thay, cầm quyền đánh giặc, nay xem bản tấu của Phúc Khang An thấy Phúc Khang An có phần lo ngại. Hiện nay quân tăng viện không phải là ít, hơn nữa Phúc Khang An còn mang theo hơn trăm thị vệ Ba-đồ-lỗ đã từng chinh chiến, khỏe mạnh. Có nhiều quân, lại có tướng giỏi, Phúc Khang An không phải lo ngại. Phúc Khang An là thống soái, quan quân đều nhìn vào mình, nếu bản thân có ý lo ngại, các tướng dưới trướng ắt phải lo sợ, sĩ khí làm sao phấn chấn? Phúc Khang An phải giữ vững chính kiến, suy tính chu đáo, tùy cơ ứng biến, không nên dao động. Trẫm luôn theo dõi việc quân, đã có kế sách không ngại nói rõ để Phúc Khang An an tâm. Phúc Khang An không cần tiến quân đến thành phủ, mà nên tập trung quân lính tinh nhuệ tấn công trực tiếp vào đại bản doanh của Lâm Sáng Văn, đánh mạnh vào hang ổ giặc, giặc ở nơi khác sẽ quay về cứu, thành Chư La tự nhiên được giải vây, quân của Trang Đại Điền ở phía nam nghe tin sẽ sợ hãi, tan rã, đó là kế dương đông kích tây. Nếu địch ở Chư La quay về cầu cứu. Phúc Khang An có thể đón đánh, Sài Đại Kỷ phía sau truy kích, khiến địch đầu đuôi rơi vào thế khốn, ta có thể tóm gọn toàn bộ. Nếu địch không quay về cứu, Phúc Khang An có thể càn quét sạch doanh trại địch rồi đưa quân đánh cứu Chư La, địch thấy sào huyệt bị tan tành, sẽ tự tan rã, đó là thượng sách”. Cuối cùng Càn Long viết tiếp: “Trẫm lên ngôi được 50 năm, trải qua không biết bao nhiêu sự việc trọng đại, đều có tính toán kỹ trước các kế sách. Giờ đây cử Phúc Khang An đi dẹp loạn, đâu phải bảo Phúc Khang An mạo hiểm. Phúc Khang An cũng đã được coi là cánh tay tâm phúc. Không kể việc lớn hay nhỏ đều có liên quan quyết không thể đẩy Phúc Khang An vào nơi hiểm địa, Phúc Khang An là người thân tín của Trẫm. Trẫm đối xử với Phúc Khang An như thể cha con trong nhà, ân tình sâu đậm. Cha của Phúc Khang án, Phó Hằng cũng là tri kỷ của Trẫm, hết lòng hết sức vì Trẫm”. Những lời đó của Càn Long có thể nói là chân thành cởi mở, đúng là tăng thêm lòng tin cho Phúc Khang An, giải thoát được nổi lo lắng nghi ngờ.
Phúc Khang An quyết tâm rời khỏi phủ đô đốc, đến hải cảng Sùng Vũ Áo, vượt biển tiến về phía đông.
Phòng nghỉ của Phúc Khang An treo một bức trướng lụa màu vàng. Mỗi khi gió thổi, bức trướng khẽ rung như vẫy gọi. Phòng nghỉ rất ấm cúng, những bức rèm cửa mềm mại càng làm cho nó trở thành nơi an lạc thoải mái, ấm áp, thơm tho. Vừa bước vào doanh phòng, người lính gác ghé tai Phúc Khang An thì thầm gì đó. Phúc Khang An gật đầu hiểu ý. Ông biết, có gái đẹp do quan địa phương cống nộp. Thực ra, trên đường đi, mỗi khi Phúc Khang An đến đâu, quan phụ trách đón tiếp ở đấy đều tìm hiểu sở thích của ông, hiếu sắc. Dĩ nhiên, với thân phận, địa vị của Phúc Khang An, có nịnh bợ ông ta thì cũng chẳng thiệt. Phúc Khang An bước vào phòng nghỉ, tiện tay đóng cửa lại, chẳng đoái hoài đến cái thế giới ồn ào xáo động bên ngoài. Mắt nhìn bức trướng màu vàng, tưởng chừng nhìn thấy tất cả những gì ở phía trong. Phúc Khang An đằng hắng một cái. Quả nhiên, bức trướng lay động, một người con gái tuyệt đẹp, đang nằm trên giường, khoác chiếc áo ngủ liền váy màu xanh ngọc viền đăng-ten màu trắng giống như những sợi mây trắng lững lờ trên mái nhà dưới bầu trời trong xanh, đầu cài một vài đồ trang sức trông lộn xộn như chưa kịp lấy xuống hết, mái tóc đen nhánh búi thành một búi, vô cùng hấp dẫn. Người con gái nhìn thấy Phúc Khang An vội vàng chúc phúc, nũng nịu:
- Nô tài đến đây để hầu hạ đại nhân, mong đại nhân vui lòng.
Nghe giọng nói ấy, gân cốt Phúc Khang An mềm nhũn lại, ông vội bước tới đỡ dậy, hỏi:
- Nàng tên gì? Sao lại ăn mặc mộc mạc thế này, không giống các cô gái lầu xanh phấn son đầy người.
- Bần nữ là đứa con gái cát bụi, làm gì có tên, từ nhỏ theo mẹ lang thang kiếm sống, không may mẹ bệnh qua đời, lưu lạc đến Phúc Châu, bước vào Thúy Hồng Xuân Quán. Vì không chịu tiếp khách nên bị đuổi đi. Bần nữ đến bờ biển định tự vẫn, được một quả phụ cứu nhận làm con. Không ngờ hôm qua ra cảng khẩu bán tôm, bị người phụ trách cảng khẩu bắt, nói là có một vị quan lớn ở kinh thành muốn lấy làm thiếp, bảo bần nữ muốn sống phải đi hầu hạ.
Phúc Khang An dịu ngọt nói:
- Vậy ta đặt cho nàng cái tên là Thúy Xuân, nếu vừa lòng ta, khi về kinh ta mang nàng theo.
Thuý Xuân trông thật yểu điệu lả lơi, nói năng nhỏ nhẹ, khiến người ta càng thêm yêu chiều. Phúc Khang An lần bàn tay rút thắt lưng của Thúy Xuân. Chiếc áo liền quần tuột xuống, để lộ đôi vai và nửa thân người phía dưới. Đúng là đôi vai tuyệt đẹp, vừa trắng vừa nở nang, như phiến đá láng bóng, khiến Phúc Khang An nhỏ dãi khỏi phải nói, đây là cô gái Phúc An Khang ưng ý nhất từ khi lên đường đến đây. Phúc Khang An làm sao kiềm chế nổi, ôm Thuý Xuân vật ngã xuống giường, ngắm nghía từ đầu đến chân thân hình trần truồng của nàng. Ngược với vẻ nhu mì yếu đuối vừa rồi, Thuý Xuân ngẩng mặt lên đưa cặp môi cho Phúc Khang An hôn, ôm đầu Phúc Khang An dúi vào ngực mình, khuôn mặt dễ thương ửng đỏ, đẹp hớp hồn người. Phúc Khang An sẵn sàng chiều theo ý nàng. Lúc này, bên ngoài gió biển đã xua tan những đám mây đen để lộ vành trăng sáng và những ngôi sao lưa thưa, ánh trăng sáng vằng vặc xuyên qua mành cửa sổ rọi vào phòng ngủ. Phúc Khang An nằm yên lặng như mặt nước hồ sau trận bão táp. Một cơn mỏi mệt đầy ngọt ngào, lởn vởn trong đầu óc, xua đuổi thế nào cũng không tan biến. Ông uể oải nói với Thuý Xuân:
- Quả thật, chưa từng thấy người con gái nào có nghệ thuật cao siêu như nàng.
Thuý Xuân phì cười:
- Đại nhân, sau này đại nhân sẽ biết nô tài là ai, ai đã dám đứa nô tài đến đây cho đại nhân dùng.
- Nói như vậy, nàng cũng có đầy đủ lai lịch ư?
Người con gái cười, đưa môi mềm mại ấm áp hôn Phúc Khang An, cảm động nói:
- Nô tài là thị nữ của Hòa đại nhân. Chính do Hòa đại nhân cử đến hầu hạ đại nhân. Hòa đại nhân sợ con gái miền nam ngốc ngếch không vừa lòng đại nhân.
Phúc Khang An nghe xong, lặng yên không nói, nghĩ bụng, hôm qua nghe Hòa thân đến mặt trận Mân - Triết rồi vội vàng về kinh cơ mà? Lẽ nào ông ta đã giải quyết xong việc?
Thực ra, khi Phúc Khang An đến Mân - Triết, Hòa Thân đã mang chỉ dụ của Càn Long đến các nơi: Triết Giang, Quảng Tây, Giang Nam lệnh điều hơn một triệu thạch lương thực đến Phúc Kiến cung cấp cho quân đội và cứu tế cho nạn dân ở Đài Loan, bảo đảm cho cuộc tiến quân của Phúc Khang An. Trên đường đi gặp Hải Lan Sát và 1000 quân nên giao cho họ hộ tống đến tiền tuyến. Mặt khác, Càn Long theo đề nghị của Hòa Thân sử dụng cả tàn quân của Lâm Sáng Văn. Càn Long chỉ dụ cho các đại thần quân cơ: quân giặc chiếm đóng Chương Hóa và các nơi khác, tuy nghe nói có đến vài mươi vạn quân nhưng phần lớn là do giặc cưỡng bức đi theo, toàn là quân ô hợp, dễ hợp nhưng cũng dễ tan, nếu có cách kêu gọi, họ sẽ đua nhau quay lại đầu hàng, bọn giặc sẽ mau chóng bị tan rã. Ngày 1 tháng 11 năm Càn Long thứ 52, khi Phúc Khang An vượt biển sang Đài Loan, Càn Long lại ban chỉ dụ nói cụ thể dân chúng Quảng Đông đồng tâm vì nghĩa, coi giặc như thù. Dân chúng miền Nam Lộ thấy đại quân kéo đến, giặc tan rã, đua nhau nộp yếu bài để chứng minh là người dân lương thiện. Phúc Khang An cần cấp phát yếu bài cho dân chúng ở các nơi miền Bắc Lộ để họ an cư lạc nghiệp. Như vậy mới yên được lòng dân, hiệp lực với quan binh sau khi bình định xong giặc, tránh được nạn giặc ngầm quấy nhiễu. Dân chúng nơi nào cùng quan quân phòng thủ, có công trong thời gian đại quân tấn công dẹp giặc, dũng cảm hiệp lực đánh địch, nếu thiếu lương thực phải cung cấp đầy đủ cho họ, chăm lo cuộc sống cho họ. Sự thực sau đó chứng minh, nhiều nghĩa quân Lâm Sáng Văn quay về với quan quân, lực lượng của Trang Đại Điền cũng bị tan rã rất nhiều. Dân chúng “lầm đường” quay về với quan quân ngày càng đông, giúp đỡ quan binh tấn công diệt giặc, thay đổi hẳn cục diện bị động.
Phúc Khang An chấp hành chỉ dụ của Càn Long. Trong bản tấu hạ tuần tháng 9 đã trình bày kế hoạch tác chiến sau khi đến Đài Loan. Phúc Khang An chuẩn bị tiến đánh địch ở Lộc Tử Cảng, hợp lực tấn công hai lộ Nam - Bắc, khiến lực lượng Lâm Sáng Văn phải phân tán. Càn Long triệu tập các đại thần quân cơ bàn bạc, ý kiến không thống nhất. Càn Long là con người ngày đêm chăm lo việc quân, tính toán tỉ mỉ. Sau khi xem bản tấu của Phúc Khang An, đã thấy ngay có chỗ chưa thỏa đáng. Sài Đại Kỷ bị vây khốn đã lâu ở Chư La, lương thực vũ khí đã cạn, mệt mỏi vất vả, trong tay chỉ có 3000 quân yếu đuối, khó hiệp lực tấn công lộ Nam. Đại thần tham tán Hằng Thụy có những 5000 quân nhưng lại cố thủ lâu dài ở Diêm Thủy Cảng, Thường Thanh vẫn cố thủ thành phủ. Nếu khi Phúc Khang An mở đợt tấn công, họ không xuất quân, Phúc Khang An phải tác chiến đơn độc. Lâm Sáng Văn và Trang Đại Điền lại từ hai lộ đánh kẹp lại, Phúc Khang An sẽ rơi vào thế cực kỳ nguy hiểm. Phúc Khang An dẫu sao cũng là con của mình, không thể nào để rơi vào cảnh nguy hiểm đó. Nghĩ vậy, Càn Long phê vào bản tấu rằng, thế này chưa thỏa đáng. Cứ theo tình hình này, trước hết phải cứu viện Chư La. Sau khi đến Lộc Tử Cảng, Phúc Khang An chờ quân Tứ Xuyên, Quý Châu, Quảng Tây đến cùng tấn công Chư La. Thường Thanh phải cố thủ phủ Đài Loan, vì nếu thành phủ mất, khó thu phục lại. Càn Long còn đọc một lược bản tấu của Sài Đại Kỷ trước mặt các đại thần quân cơ: Chư La nằm chính giữa nam - bắc Đài Loan, bốn phía thành huyện có lũy đất trồng tre, xung quanh có hào sâu, tường thành vững chắc; nếu bỏ thành mà đi, để giặc chiếm đóng, thế giặc sẽ mạnh, con đường vận chuyển Diêm Thủy Cảng sẽ khó bảo vệ, dân nội thành Chư La và người các nơi đến lánh nạn cộng có hơn 4 vạn, cùng nhau bảo vệ thành chờ viện binh, quyết không để giặc làm cỏ cả 4 vạn sinh linh. Càn Long vừa đọc vừa rơi nước mắt, ướt cả bản tấu. Hai hàng đại thần quân cơ cũng khóc thút thít, đều nói Sài Đại Kỷ thật trung dũng. Càn Long cầm bút viết: bản tấu cho thấy Sài Đại Kỷ thật trung can nghĩa đảm, đọc mà rơi nước mắt, Đại Kỷ bị vây khốn đã lâu, ý chí kiên cường, khích lệ quân dân chịu khổ chịu đói cố thủ thành trì, coi việc nước là trọng, xứng đáng là danh tướng. Đặc phong Sài Đại Kỷ tước Nhất Đẳng Bá Thế Tập Cương Thi, lệnh cho Tuần phủ Triết Giang tặng thưởng cho vợ con Sài Đại Kỷ vạn lạng bạc trắng. Lệnh Phúc Khang An gấp rút đến Đài Loan, không được chậm trễ.
Hôm ấy, gió to sóng lớn, Phúc Khang An không thể vượt qua eo bể được, rúc vào chăn ôm chặt Thuý Xuân ngủ. Ánh sáng mặt trời chiếu dọi chọc thẳng vào cặp mắt nhắm nghiền, khiến Phúc Khang An tỉnh dậy. Thần sắc mỏi mệt, tinh thần giảm sút như ánh sáng chiều tà, ông khoác áo, bước xuống giường, quay nhìn Thuý Xuân mặt đẹp như đóa hoa thủy tiên, ông lại cảm thấy phấn chấn, nghĩ rằng, Hòa Thân đưa tì nữ đến, chẳng qua muốn nịnh bợ mình, nên có phần đắc ý, thái độ của mình đối với ông ta trước đây cũng hơi quá đáng sau này xử sự với người ta nên tốt hơn. Chỉ cần người ta biết điều với mình, dẫu có chuyện lớn đến đâu cũng cho qua được. Hà tất phải làm ra vẻ kẻ cả? Phúc Khang An bỗng đưa tay vuốt nhẹ đôi má Thuý Xuân đắm nhìn nàng hồi lâu, say sưa mơ màng, sờ nắn bộ ngực nõn nà mềm nhũn của nàng, ông cảm thấy đầu óc choáng váng, ông cúi người đưa đôi môi lượt nhẹ mấy lướt lên đôi má ửng hồng và đôi mắt lim dim của nàng. Thuý Xuân bừng tỉnh, nũng nịu đáng yêu, vô cùng quyền rũ. Phúc Khang An vừa định lên giường, thì nghe tiếng người lính gác báo: “Đại thần tham tán Hải Lan Sát đã dẫn quân đến đợi ngoài doanh trại”.
Hải Lan Sát họ là Đa - la - nhĩ, người Tương hoàng kỳ Mãn Châu, quê gốc ở Hắc Long Giang. Năm Càn Long thứ 20, đem quân dẹp loạn Chuẩn Cát Nhĩ bắt sống được đầu mục giặc, được ban tước Ngạch Nhĩ Khắc Ba Đồ Lỗ, sau được thăng chức thị vệ hạng nhất, tầm kỵ đô úy và vân kỵ đô úy, cha truyền con nối. Ảnh được vẽ treo tại Tử Quang Các. Năm Càn Long thứ 32 được phong làm Phó đô thống đi đánh Miến Điện, chiến cống hiển hách. Sau được thăng chức Phó đô thống Tương Hoàng Kỳ Mông Cổ, rồi Đô thống Chánh Hồng kỳ Mông Cổ, đại thần thị vệ nội cung từng tham gia đánh giặc hàng trăm trận lớn nhỏ, một mình xông vào nơi nước sôi lửa bỏng, dũng mãnh vô song, được ban thưởng tước Siêu Dũng Hầu bậc nhất. Lần này được phong làm đại thần tham tán thay cho Hằng Thụy. Hải Lan Sát dẫn hai mươi tên Ba-đồ-lỗ đi suốt ngày đêm đến Phúc Kiến, gặp đoàn xe chở lương thực do Hòa Thân cử đi, nên hợp sức áp tải do vậy hôm ấy mới gặp Phúc Khang An. Phúc Khang An vội vàng chỉnh đốn áo mũ, ra ngoài đón tiếp, có phần kính nể vì đã từng nghe tiếng anh dũng của Hải Lan Sát và phần lớn các trận ác chiến ở Đài Loan sẽ do Hải Lan Sát, đảm đương. Phúc Khang An tiếp đón Hải Lan Sát theo đúng nghi lễ chức vị cao thấp, chủ khách, qua Hải Lan Sát biết được một số tin tức sốt dẻo, theo sự bố trí của Càn Long, bắt đầu vạch ra phương án tác chiến.
Ngày 28 tháng 10 năm Càn Long thứ 50. Phúc Khang An và Hải Lan Sát thống lĩnh 5000 quân Quảng Tây và Tứ Xuyên lên 100 chiến thuyền rời Sùng Vũ Áo vượt biển, ngày 29 cập cảng Lộc Tử Cảng an toàn. Lúc này nước triều đang xuống, chiến thuyền trôi dạt ra xa bến cảng, lênh đênh trên mặt biển mênh mông. Phúc Khang An nhìn mặt biển ngang tàn, sốt ruột, tiến thoái lưỡng nan, may sao có người tì nữ của Hoà Thân bên cạnh, nên đỡ buồn chán qua hai ngày chờ đợi. Ngày 1 tháng 11, nước triều ngừng rút, mặt biển yên lặng, Phúc Khang An và đại quân mới rời chiến thuyền lên bờ. Hằng Thụy đưa quân đồn trú ở Lộc Tử Cảng ra đón, tiếng reo mừng vang lên, dân trong thành cũng hết sức phấn khởi. Đại quân vào thành xong, Phúc Khang An truyền chỉ dụ, cách chức Hằng Thụy, giải về cho Tổng đốc Mân - Triết, Lý Thị Nghiêu xét xử, bắt giam Nhiệm Thừa Ân và Hoàng Sỹ Giản.
Dãy núi Bát Quái uốn khúc nhấp nhô như một người khổng lồ da dẻ sần sùi bị thương nằm cách ba mươi tám dặm về phía nam Đại Lý Sạn. Trên núi rừng tùng bách xanh tươi, những tảng đá to như những con thú. Đây là một phần của dãy núi chập chùng kéo dài từ giữa đảo Đài Loan đến tận bờ biển. Đứng trên đỉnh cao của ngọn Bát Quái phóng mắt nhìn thấy thế núi như con rồng dài đang vươn cao chiếc đuôi. Xung quanh có tám ngọn núi được đặt theo thứ tự Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài, vì vậy gọi là núi Bát quái. Gió đập vào thành núi tạo nên tiếng gầm rú suốt ngày đêm. Rạng ngày mùng bốn, Hải Lan Sát được lệnh dẫn đầu hai mươi tên Ba-đồ - lỗ lên núi Bát Quái, xem xét tình hình hư thực của quân Lâm Sáng Văn. Theo kế hoạch tác chiến, Hải Lan Sát phô trương thanh thế, làm ra vẻ tấn công vào Đại Lý Sạn, sào huyệt của Lâm Sáng Văn; Phúc Khang An thì lặng lẽ đem đại quân đến thành Gia Nghĩa (thành Chư La). Quả nhiên, Lâm Sáng Văn dựng cờ trên núi Bát Quái, đặt pháo chuẩn bị, giới nghiêm chặt chẽ. Hải Lan Sát khoác chiếc áo giáp màu đen, đầu đội chiếc mũ sắt, tay trái cầm chiếc khiên, tay phải cầm cây dáo dài. Với bộ áo giáp đó, người thường mang vào vượt núi băng ngàn, xung trận tác chiến, cử động thật không dễ, nhưng Hải Lan Sát từ nhỏ đã luyện tập võ nghệ, sử dụng áo giáp đã quen, nhanh khoẻ như hùm beo. Qua làn khói núi, Hải Lan Sát nhìn thấy bóng người thấp thoáng trên đỉnh núi, bèn ra lệnh cho các pháo thủ đồng loạt nã pháo. Pháo nổ vang trời dội đất. Hải Lan Sát cưỡi ngựa xông lên núi, hai mươi Ba-đồ-lỗ cũng tranh nhau xông lên, khí thế hùng hổ. Quân khởi nghĩa không kịp bắn pháo, không kịp chống trả, sợ hết hồn. Quân Thanh trong ấn tượng của họ làm gì mà mạnh như vậy? Ngày thường đánh nhau, chỉ cần hét lên mấy tiếng, quân Thanh đã bỏ chạy như điên, ta chỉ có đuổi giết, đâu như hôm nay bị quân Thanh truy giết, chạy tán loạn, run như cầy sấy. Không mấy chốc, Hải Lan Sát đã chiếm lĩnh dãy núi Bát Quái, tuyên bố với dân chúng thôn xóm rằng sẽ tấn công sào huyệt Lâm Sáng Văn. Nói xong lặng lẽ rút quân, tiến thẳng đến thành Gia Nghĩa.
Đầu bên kia, nghe tin nửa số dân khởi nghĩa đang bao vây thành Gia Nghĩa được Lâm Sáng Văn điều đi bảo vệ Đại Lý Sạn, đầu bên này, phúc Khang An tập trung 5000 quân Quảng Tây, Tứ Xuyên và 6000 quân được chọn lọc tại chỗ và hơn 1000 nghĩa dân. Cả hơn một vạn đại quân ấy ào ạt tấn công Gia Nghĩa. Phúc Khang An được các thị vệ đại nội bảo vệ cho quân tiến lên, chỉ huy linh hoạt, chia quân thành 5 cánh, và nghĩa dân thành hai cánh.
Sáng ngày mùng tám, quân Thanh tiến đến Thương Tử Đỉnh, bị phục kích. Quân hai bên đánh nhau. Phúc Khang An đứng trên cao đốc chiến, nhìn thấy quân hai bên đánh nhau dữ dội. Quân khởi nghĩa như từ dưới đất chui lên, ngày càng đông, la hét tứ phía, khiến thế trận quân Thanh hơi rối loạn, một số quân lính bắt đầu hoang mang bỏ chạy, phía sau chẳng rõ đầu đuôi, cho rằng quân Thanh đã thua, cũng tán loạn. Phúc Khang An thét lên một tiếng, tí chút nữa ngã rơi khỏi ngựa, sợ toát mồ hôi. Ngồi vững lại trên chiến mã, Phúc Khang An thét to: “Ai lùi sẽ chém không tha!”, rồi lệnh tiếp: “ Tướng sĩ các cánh quân, cố giữ những nơi hiểm yếu, bịt chặt hai bên, nghĩa dân chia ra chặt đốt các rừng tre, ruộng mía, lau lách xung quanh để có một khoảng trống rộng”.
Quân Thanh dần dần hoàn hồn. Bỗng nhiên, khắp nơi vang tiếng reo hò, pháo bắn, quân Thanh thịt nát xương tan, cây cỏ bị đốt cháy bay tứ tung, quân khởi nghĩa la thét vang trời. Phúc Khang An cả kinh, mặt mày thất sắc, gào to: “Vì sao Hải Lan Sát vẫn chưa đến!” Nói chưa dứt lời đã thấy thế trận quân khởi nghĩa rối loạn, phía sau vang lên tiếng thét “giết”, dường như có ngàn vạn người hò reo “giết! giết!”, vô số cờ xí tung bay giữa trời, hướng về phía quân Thanh tiến tới, một lát sau, thấy Hải Lan Sát một người một ngựa xông vào trận, một lúc đã giết chết bảy tám quân khởi nghĩa, gặp một đầu mục vung tay phải lên, nhanh như chớp ném chiếc phi tiêu cắm đúng vào mặt tên đầu mục, hắn thét lên một tiếng thê thảm, rơi xuống ngựa. Các Ba-đồ-lỗ, và thị vệ chạy theo sát phía sau Hải Lan Sát, ngựa phi đến đâu là ở đó quân địch tan tác.
Phúc Khang An vui mừng khôn xiết, hô to: “Giặc đã rối loạn! giết!” Có quân cứu viện mới đến, khí thế quân Thanh hồi phục, số quân lính nhát gan bỏ chạy vừa rồi cũng quay lại hò reo chém giết quân giặc. Quân khởi nghĩa Lâm Sáng Văn lần đầu gặp quân địch mạnh, không chống cự nổi, vô cùng lo sợ, đã bị đánh thua. Quân Thanh đã đánh thông đường, nối liền các địa phương. Khi quân Thanh đến Ngưu Trù Sơn, cách Gia Nghĩa bảy dặm, Lâm Sáng Văn tập trung hơn một vạn quân bao vây.
Hải Lan Sát dẫn quân vượt qua một dòng suối lớn nước chảy xiết, xông vào trận địa địch, chiếm được ngọn núi cao, quân Thanh phía sau không dám chậm trễ, ùn ùn tiến lên. Tiếng vó ngựa, tiếng chân chạy, tiếng thét giết, tiếng va chạm binh khí, cùng lúc vang lên đinh tai nhức óc. Hải Lan Sát vượt qua chiếc cầu đá, vung đao vun vút, gạt rơi xuống đất những mũi tên bắn tới như mưa. Hải Lan Sát thấy địch có ý rút lui, tranh thủ cơ hội, chém tướng cướp ải, thúc chân vào bụng ngựa, chiến mã hí lên một tiếng, phóng như bay xuống núi. Hải Lan Sát như con báo dũng mãnh, xông vào đám dê, tả xung hữu đột, tay trái cầm khiên gạt đổ lưỡi dao, mũi dáo của đối phương, tay phải vung dáo nhanh như chớp đâm chém quân địch. Xoay mình, đỡ bên trái, đâm bên phải, quân địch lại bị đâm ngã. Mấy tên địch xông đến huơ dao đâm chém trúng phải áo giáp, mũ sắt, tiếng kêu cốp cốp, ánh lửa tóe ra như sao sa, lại một tên địch ngã chết. Hải Lan Sát đã thay 3 con ngựa chiến, máu tươi dính trên mặt mũi nhỏ xuống hòa cùng những giọt mồ hôi, mùi tanh khó chịu. Hải Lan Sát dũng mãnh đã cổ vũ sĩ khí quân Thanh, phá tan vòng vây của quân địch. Khi đến dưới chân thành Gia Nghĩa lại một trận đánh ác liệt nữa. Quân Lâm Sáng Văn chống không nổi, thua chạy. Tối đó, Phúc Khang An dẫn quân vào thành Gia Nghĩa. Thành Gia Nghĩa sau hơn 5 tháng bị vây hãm đã được giải vây. Lúc này sấm chớp nổi lên, mưa bắt đầu.
Trong cánh đồng mênh mông rộng mấy mươi dặm bao bọc thành Gia Nghĩa, đèn đuốc sáng trưng làm nổi bật bầu trời mây đen u ám, nhấp nháy như dải ngân hà trút xuống hàng vạn vì sao. Đèn đuốc tưng bừng, cảnh đó đối với người dân trong thành mà nói, không phải là không thiêng liêng. Quân dân trong thành không quản thời tiết khó chịu ùn ùn kéo ra, chen nhau đứng hai bên lề đường, hoan hô như sấm, nhiều người quỳ xuống, có kẻ khóc, người cười. Phúc Khang An đưa quân vào thành, nhìn thấy dân, quân trong thành người nào cũng gầy gò vàng võ, mỏi mệt, thảm thương, ngồi trên ngựa mà không cầm được nước mắt. Trong trận đánh này, quân Lâm Sáng Văn bị giết hơn 800 tên, sáu đầu mục bị chết tại trận. Phúc Khang An biết rằng, qua trận này, khí thế quân Thanh tăng lên, từ đó về sau chiến dịch bình định Đài Loan thay đổi căn bản, quân Lâm Sáng Văn ngày càng suy yếu, quyền chủ động nắm trong tay mình.
Sài Đại Kỷ mặt đẫm nước mưa, trông nhợt nhạt dưới ánh đèn, ra ngoài thành đón tiếp Phúc Khang An. Như trên đã nói, Sài Đại Kỷ có công giữ thành Chư La, được Càn Long ban thưởng tước vị cao, nên khi gặp Phúc Khang An, bước đến vấn an, không phải quỳ lạy. Phúc Khang An mặt lạnh như tiền, may nhờ đêm tối nhìn không rõ, và Sài Đại Kỷ cũng chẳng chú ý. Phúc Khang An không hài lòng, nhưng thấy Sài Đại Kỷ mắt sâu, người gầy gộc, thật đáng thương hại, lại nghĩ đến chuyện Càn Long đặc biệt ban thưởng cho ông ta, nên đành chịu đựng, cười nói: “Sài đại nhân vất vả, thành Chư La được Thánh thượng ban cho cái tên Gia Nghĩa là nhờ có Sài đại nhân. Mau lên ngựa, chúng ta cùng vào thành, tiếp nhận sự hoan hô”. Sài Đại Kỷ không từ chối lên ngựa dẫn đường. Theo quy định trong quân Thanh, cấp dưới phải tiếp cấp trên, không được đi ngang hàng, Sài Đại Kỷ vô tình thất lễ. Ông có biết đâu Phúc Khang An lòng dạ hẹp hòi, căm tức để bụng. Thế là, tính mạng Sài Đại Kỷ rơi vào tay Phúc Khang An. Chuyện này sẽ nói ở phần sau.
Tin Phúc Khang An thắng trận được báo về triều đình, Càn Long vô cùng phấn khởi. Ngày 4 tháng 11, sau khi xem bản tấu báo chiếm được núi Bát Quái, Càn Long chỉ dụ cho các đại thần quân cơ rằng, Hải Lan Sát cùng hơn 20 ba - đồ - lỗ và thị vệ đã tấn công thẳng vào sào huyệt địch, giết và bắt sống nhiều quân địch, khiến sĩ khí và lòng người phấn chấn, tạo thời cơ thuận lợi, là rất tốt. Ngày 14 tháng 12, Càn Long nhận được bản tấu của Phúc Khang An báo đã giải vây cho Gia Nghĩa, rất đỗi vui mừng, triệu tập ngay Hòa Thân, A Quế và các quan văn võ. Hòa Thân đề nghị, nên trọng thưởng Phúc Khang An, Hải Lan Sát và các tướng sĩ tham chiến. Càn Long ban chỉ dụ khen thưởng: Phúc Khang An, Hải Lan Sát chỉ huy quan quân, anh dũng đánh giặc, bất chấp hiểm nguy, phá tan quân giặc ở khắp thôn trong, giải vây thành phủ, cứu thoát mấy vạn con người bị vây hãm trong thành. Phúc Khang An biết cách điều binh khiển tướng, cổ vũ sĩ khí, đánh thắng được giặc, đáng được khen thưởng, Phúc Khang An, Hải Lan Sát, phong từ tước hầu lên tước công, mỗi người một chiếc mũ gắn hồng ngọc, bốn áo thêu rồng. Các tướng khác như Ngạc Huy, Mục Khắc Đăng A, Phổ Nhĩ Phổ đều được khen thưởng.
Phúc Khang An rất chi không hài lòng. Sau khi vào thành, mặc dù Sài Đại Kỷ đã năm lần bảy lượt mời ở lại nghỉ ngơi ít ngày cho lại sức, rồi tiếp tục tiến quân dẹp loạn, Phúc Khang An vẫn từ chối. Nghỉ được một ngày đêm, lệnh cho Hải Lan Sát làm tiên phong, tự mình dẫn đại quân, tiến đến sào huyệt giặc ở Đại Lý Sạn, để Sài Đại Kỷ một mình ở lại thành vỗ về dân chúng, phân phát lương thực, cứu tế nạn nhân. Sài Đại Kỷ bắt đầu cho xây ba nơi phát chẩn cơm cháo ở thành Gia Nghĩa, phục vụ cho những người dân đang đói mờ mắt. Từng đoàn người đói rét ở trong thành và các thôn trang ngoại thành lũ lượt lê tấm thân tiều tụy ốm yếu vào thành, mong được cứu đói. Trời chưa sáng, mưa phùn lất phất, bốn hàng người xếp hàng rồng rắn chờ đợt trước bốn chiếc chảo cháo to. Trời vừa hửng sáng, lại thêm từng đoàn người đói rét tiếp tục kéo đến. Trong chảo to đang nấu một loại cháo gồm gạo tẻ, cao lương, tấm và rau lẫn lộn. Mỗi chảo có chừng mấy trăm bát. Mỗi người chỉ được một bát.
Gia Nghĩa được giải vây, Lâm Sáng Văn rút về núi Tiểu Bán Thiên ở phía bắc thành Gia Nghĩa. Nơi đây vách núi dựng đứng đường đi hiểm trở, dễ thủ khó công. Ngày 18 tháng 11, Phúc Khang An dẫn các tướng sĩ chia thành các cánh quân tiến đánh, qua mấy đợt tấn công quân Thanh chiếm được núi Tiểu Bán Thiên. Lâm Sáng Văn rút quân cố thủ Lục Đấu Môn. Lục Đấu Môn là nơi thông liền với khắp nơi. Để chặn kỵ binh quân Thanh, Lâm Sáng Văn cho đào hầm chông trên các ngõ đường ở Lục Đấu Môn. Phúc Khang An lệnh cho Hải Lan Sát hành quân băng qua ruộng lúa mới gặt xong, đất bùn vừa khô. Quân Thanh tấn công bốn mặt, dùng dao dài chặt phá lũy tre, công phá hầm chông. Lâm Sáng Văn lại rút lui cố thủ ở cửa núi Thủy Sa Liên. Phúc Khang An và Hải Lan Sát chia nhau thành hai cánh quân tả hữu tiến đánh. Gia quyến của quân Lâm Sáng Văn di chuyển vào ngọn núi này, được hơn 2000 quân khởi nghĩa hộ tống trước sau, men theo sườn núi mà đi, dưới sự chỉ huy của thuộc tướng Lâm Sáng Văn là Tưởng Sơn Quốc. Quân Thanh luồn qua rừng chuối, men theo lũy tre tiến lên. Hải Lan Sát cho quân vừa tấn công vừa bắn tên. Tưởng Sơn Quốc trúng tên, bị bắt. Gia quyến quân Lâm Sáng Văn bị trúng pháo, hoảng hốt chạy dẫm lên nhau, thương vong vô số. Quân Thanh tấn công Đại Lý Sạn. Đại Lý Sạn phía đông giáp núi lớn, phía nam có sông bao bọc, thành lũy bằng đất đá, pháo đặt dày đặc, bên trong có hai lớp lũy tre, ngoài thành có hào sâu, phòng thủ rất nghiêm ngặt. Khi quân Thanh tiến đến Đại Lý Sạn, trời sắp tối, từ trong Đại Lý Sạn một toán người xông ra đánh. Hải Lan Sát đem 1000 quân lặng lẽ mai phục, chờ quân địch đến gần, đồng loạt giương cung phóng tên, tên bắn như mưa, núp bắn nên trăm phát trăm trúng, quân địch vội tắt hết lửa gào thét tấn công. Hải Lan Sát lại lệnh cho quân lính nằm im tại chỗ, đợi khi tiếng hò reo đến gần, nhắm về hướng có tiếng hò reo tấn công mạnh liên tục, Hải Lan Sát lên ngựa xông trận, khiến thế trận của quân Lâm Sáng Văn rối loạn, Đại Lý Sạn bị quân Thanh chiếm. Phúc Khang An lệnh cho quân Thanh san bằng Đại Lý Sạn, đốt phá nhà cửa, đem lương thực chia cho nghĩa dân, trâu bò vật dụng chia cho quân lính.
Lâm Sáng Văn thấy quân Thanh tiến nhanh, thanh thế ngày càng lớn, tự biết khó chống nổi, đưa gia quyến đến Tập Tập Bộ. Tập Tập Bộ nằm chếch hướng nam - bắc, giữa hai dãy núi có một dòng sông chảy xiết. Quân Lâm Sáng Văn chặn giữ con suối, xây thành đắp lũy ở những nơi hiểm yếu, bịt các ngả đường. Phúc Khang An lệnh cho pháo kích. Lâm Sáng Văn cũng nã pháo lại, trên núi dưới núi, tiếng hò reo, tiếng pháo nổ, hai bên cầm cự nhau. Hải Lan Sát dẫn mấy mươi tên ba- đồ-lỗ thị vệ cưỡi ngựa băng qua lửa đạn vượt suối, tiến lên núi. Phúc Khang An dẫn quân theo sau. Trong tiếng hò hét Hải Lan Sát xua quân đập phá thành lũy. Quân Thanh hăng tiết vung đao gặp địch là giết. Quân khởi nghĩa mệt mỏi rã rời, mất cả ý chí chiến đấu. Trong đêm tối ánh sao lấp lánh khói lửa mù trời, Lâm Sáng Văn cố sức chống đỡ nhưng không nổi, quân khởi nghĩa tan rã tranh nhau nhẩy xuống núi rơi xuống suối chết khá nhiều. Tập Tập Bộ bị mất, Lâm Sáng Văn dẫn quân độ trăm người rút vào dãy núi lớn trùng điệp. Phúc Khang An, Hải Lan Sát nhanh chóng phong tỏa đường biển, cử phó tướng truy tìm. Cuối cùng, ngày 5 tháng 1 năm Càn Long thứ 53, Lâm Sáng Văn bị quân Thanh bắt. Sau đó, Phúc Khang An, Hải Lan Sát chia quân tiến đánh Trang Đại Điền. Sau một trận đánh ác liệt tại vùng Đại Vũ Lũng, nơi có địa hình hiểm trở, suối sâu, núi cao bao bọc, quân Trang Đại Điền thế cô bị thua, lùi vào rừng rậm, cuối cùng bị quân Thanh bắt. Theo lệnh của triều đình, Lâm Sáng Văn, Trang Đại Điền và mấy mươi người bị giải về kinh thành, xử lăng trì. Đầu của họ bị treo lủng lẳng tại pháp trường đầu chợ, máu tanh lan cả một vùng, tựa hồ để cho dân chúng kinh thành được biết chiến tranh đã kết thúc, chấm dứt cuộc tàn sát của kẻ thắng đối với người thua. Lâm Sáng Văn bị giải về kinh chịu hình phạt khốc liệt, thân bị chém 3600 nhát dao, đầu bị cắt bêu thị chúng trước chợ. Lâm Sáng Văn, lãnh tụ trẻ của một đảng đã chết lúc Càn Long gần 80 tuổi. Kẻ thất bại trả giá bằng mạng sống.
Những chiếc đầu người bị bêu thị chúng đã trở thành những chiếc đầu lâu, nhưng các lãnh tụ đảng kín ở khắp nơi vẫn tồn tại. Thủ lĩnh Bạch Liên Giáo bị trấn áp nhiều lần, vẫn bí mật truyền giáo, tập hợp lực lượng, chuẩn bị cho một cuộc biến động xã hội mới với quy mô lớn hơn nhiều.
Nguyên Tổng binh Sài Đại Kỷ dẫu có nằm mơ cũng không nghĩ rằng mình sẽ bị trừng phạt, lúc này mới biết rằng chiếc đầu của mình cũng sẽ bị cắt bêu thị chúng như Lâm Sáng Văn, lòng buồn hận vô hạn. Ông nửa tỉnh nửa mê, đã năm ngày đêm không ăn uống, mà vẫn không chết. Thân xác mềm yếu, nặng nề, đi đứng khó khăn, nhưng hồn phách thì tự do bay lượn trong thế giới như mơ màng như mộng như không. Giếng nước trong của quê hương không còn trông thấy đáy, mà chỉ một màu đen ngòm gợn lên làn sóng lăn tăn lấp lánh như ánh sáng đom đóm.
Đây chỉ là một bị kịch do Phúc Khang An đạo diễn, được Hòa Thân xúi dục.
Hôm ấy, tại thành huyện Gia Nghĩa, Phúc Khang An nghe thấy toàn là những lời ngợi khen lòng trung dũng của Sài Đại Kỷ, trong lòng sẵn không vui lại như đổ thêm dầu vào lửa, nên bí mật sai người mang bản tấu về kinh, nói, Sài Đại Kỷ lừa dối, tấu báo sai sự thật, đặc biệt là những lời khai của quân giặc bị bắt, nguyên nhân của cuộc nổi loạn ở Đài Loan là do Sài Đại Kỷ xử lý công việc không thỏa đáng, tham ô tư lợi, hối lộ, khiến dân chúng căm phẫn. Càn Long đoán chừng rằng Phúc Khang An ỷ mình chức vụ cao, Sài Đại Kỷ vừa được khen, có phần tự mãn, thất lễ với Phúc Khang An, nên mới bị hạch tội, Sài Đại Kỷ bị vây hãm trong thành đã lâu; Thái Phan Long cũng vậy, có lẽ cả hai người không giữ đúng lễ nghi đối với Phúc Khang An, khiến Phúc Khang An giận để bụng. Phúc Khang An cứ chiếu theo quy chế đại thần mà buộc tội. Phúc Khang An được lệnh của Càn Long, đâu cam chịu, gửi liền mấy bản tấu, liệt kê cụ thể của cải tham ô của Sài Đại Kỷ trong thời gian hai năm nhận nhiệm vụ ở Đài Loan, đến nỗi kho phủ trống rỗng, thu không đủ chi, còn nhiều việc làm không rõ ràng, v.v... Càn Long định lờ đi không điều tra nhưng sợ ảnh hưởng đến tinh thần tiến công diệt địch của Phúc Khang An, do vậy một mặt lệnh cho Phúc Khang An ra sức dẹp loạn, một mặt cử Hòa Thân đến Mân - Triết điều tra việc hai vị Hoàng, Nhiệm và cả Thường Thanh, Hằng Thụy. Hòa Thân chộp được dịp cứu nguy cho Thường Thanh và Hằng Thụy tâu rằng: “Sài Đại Kỷ tham nhũng, lơ là công việc, cho Tôn Cảnh Toại phóng lửa đốt nhà dân để Đài Loan xảy ra biến cố, hàng ngày ỷ quyền ỷ thế, tác oai tác phúc, chiếm đoạt ruộng đất của dân chúng, nên bọn Lâm Sáng Văn mới nổi dậy chống lại, đề nghị Đức Vạn Tuế vừa trấn áp bọn giặc, vừa cách chức trừng trị Sài Đại Kỷ, thanh trừng bọn tham quan ô lại, cách làm này trước đây Thánh tổ Khang Hy đã từng thực hiện. Sự thật mà Hòa Thân nói, phần trên đã đề cập Càn Long từ chỗ không tin đến chỗ nửa tin nửa ngờ, nhưng không thể không tin, bèn lệnh cho Tổng đốc Triết - Mân Lý Thị Nghiêu thẩm tra tấu báo. Lý Thị Nghiêu vì sợ Phúc Khang An và Hòa Thân nên cũng phụ họa theo. Càn Long lại cho đưa Nhiệm Thừa Ân, Hằng Thụy đến hỏi. Nhiệm Thừa Ân, Hằng Thụy cùng một ngàn phạm nhân, được Hòa Thân mớm lời, như chết đuối vớ phải cành cây, nắm lấy cơ hội tốt tố cáo Sài Đại Kỷ để giảm nhẹ tội của mình. Họ đồng thanh tâu, Đài Loan sở dĩ xảy ta đại loạn, tội ở Đại Kỷ. Sài Đại Kỷ đâu có anh dũng, các tấu chương đều do nô tài chuyển, đều là dối trá. Càn Long giáng chỉ cách chức Sài Đại Kỷ.
Sài Đại Kỷ dù thế nào cũng không thừa nhận chuyện như vậy. Sau khi bình định Đài Loan, ai ai cũng được khen thưởng, thậm chí một lũ ham sống sợ chết trước đó cũng được tha tội, còn mình trở thành con dê thế tội. Mồm cứ lẩm nhẩm, khi về kinh để hỏi tội, luôn mồm gào thét. Càn Long tự mình hỏi cung Sài Đại Kỷ, có cả Hòa Thân và Đại học sỹ A Quế ngồi hai bên bồi thẩm. Sài Đại Kỷ nhìn thấy Càn Long, lệ rơi lã chã, khóc tâu:
- Nghĩ rằng, khi Chư La bị rơi, thần đem tấm lòng trung kiên không tiếc máu xương ra chống đỡ, mới có được câu chuyện thần thoại về Chư La không bị phá. Thánh chỉ Hoàng thượng gửi cho thần, thần đọc đi đọc lại đến thuộc lòng, Hoàng thượng cho thần về kinh gặp mặt không ngờ cuộc gặp mặt hôm nay như thế này? Ôi Đức vạn tuế, thần quả thực không biết tội tận trung nằm ở điều luật nào?
Càn Long thấy Sài Đại Kỷ luôn mồm gào thét, thỉnh thoảng đọc lại chỉ dụ của mình gửi cho Sài Đại Kỷ, nên có phần ân hận, sắc mặt khi hồng khi nhạt, thầm nghĩ, có oan kêu oan, nghĩ đến câu chuyện trước đây giờ nên như thế nào? Năm ấy Trương Quảng Tử không phải là đại thần thân tín của ta ư? Sau đó dựa vào uy Thiên tử, làm nhiều điều sai trái, hãm hại những ai chống mình, kéo bè kéo cánh. Nếu không trừ khử ngay, thì đã biến thành Niên Canh Nghiêu thứ hai rồi. Bây giờ Sài Đại Kỷ, ngươi chẳng qua là một đại thần tham tán cũng lấy chỉ dụ ra để ép Trẫm. Chỉ dụ của Trẫm lẽ nào sai? Càn Long nghiêm giọng:
- Trẫm hỏi khanh, rốt cục khanh có tham ô hối lộ không, có làm tròn chức trách không?
Sài Đại Kỷ không trả lời thẳng mà chỉ kêu oan. Càn Long cả giận. Hòa Thân nói xen vào:
- Có oan kêu oan là lẽ thường tình, thế nhưng, ngài giải thích thế nào về việc ngài vu cáo Thường Thanh và Hằng Thụy. Biết kêu oan vậy có thể nói oan được không?
Hòa Thân nói lấp lửng một thôi một hồi khiến Sài Đại Kỷ câm mồm, chỉ còn oán hận nhìn Hòa Thân, nghĩ thầm, bản thân ngươi cũng thối như cứt mà còn nói mông người khác không sạch. Năm ấy, trong chuyến nam tuần đến Hàng Châu, Thường Thanh và ngươi móc ngoặc gian lận đã bỏ túi bao nhiêu tiền bạc của cải, hôm nay lại giả vờ là người quân tử chân chính, càng nghĩ càng tức, bỗng “hừm” lên một tiếng. Càn Long thấy thế, tức giận, lệnh dùng cực hình, thị vệ đứng hai bên giải Sài Đại Kỷ ra ngoài. Sài Đại Kỷ biết mình không thoát được cái chết đẩy mạnh đám thị vệ ra, chỉ vào Càn Long và Hòa Thân chửi mắng, nào là hôn quân gian thần, dối người cướp công, nào là bọn Tác-ta Mãn Châu, ngu muội tột cùng, v.v… Càn Long ngồi yên, lặng lẽ nghe, cúi đầu suy nghĩ, lệnh tống Sài Đại Kỷ vào nhà giam, đợi đến sau mùa thu sẽ xử trảm. A Quế định nói đôi lời, nhưng thấy sự việc đến nước này, biết rằng khó cứu được Sài Đại Kỷ, chỉ còn biết thương xót, cúi đầu yên lặng.
Sài Đại Kỷ cảm thấy máu thịt và linh hồn của mình đã bị cánh cửa sắt nặng nề của nhà giam nung cháy hóa thành làn khói xanh, một cảnh kỳ lạ bỗng hiện lên rồi vụt biến mất, lửa hận trong lòng càng bùng cháy, đôi mắt vừa mở ra đã nhắm lại. Ông hôn mê trong ảo ảnh mơ hồ...
Tháng 3, năm Càn Long thứ 53, Hoàng đế Càn Long chỉ dụ cho đại thần quân cơ dùng hai thứ chữ Mãn, Hán khắc ba tài liệu “Ghi chép về chuyện tiêu diệt bọn phản nghịch Đài Loan, bắt sống Lâm Sáng Văn”, “Ghi chuyện Phúc Khang An báo tin bắt sống Trang Đại Điền “, “Khen thưởng công thần có công bình định Đài Loan” lên bia đá mới dựng ở thành phủ Đài Loan và Hạ môn, để tỏ rõ lòng yêu dân yêu nước và cách dùng binh thận trọng của Hoàng đế Càn Long.
Tháng 3 năm ấy, Sơn Trang nghỉ mát không còn là Sơn Trang như trước đây. Nó đã biến thành hành cung của Càn Long thiết tiệc chiêu đãi các quan trong triều. Vừng dương vừa lên, gió thổi hiu hiu, bầu không khí tràn đầy mùi rượu và hương hoa. Ngàn vạn tia nắng xuyên qua tán lá cây chiếu vào Sơn Trang đầy thần bí, thỉnh thoảng mấy chú sóc to gan nhảy qua nhảy lại trên cành cây. Dưới ánh sáng mặt trời, những ngọn cây tùng bách cổ thụ đan chéo nhau thành một tán lá cây trong suốt như chiếc lọng ngọc lung linh che trên đầu Hoàng thượng. Trong vùng núi rừng mênh mông đó, những đám sương mù xanh lam, trôi nổi, lững lờ, từ từ tan ra theo sườn núi. Sơn Trang đang chào đón một ngày lễ trọng đại.
Đài Loan đã được bình định. Hoàng đế Càn Long bày tiệc ăn mừng, ban thưởng cho:
Phúc Khang An dải thắt lưng màu vàng, nơ bím tóc bằng vàng, san hô đính ngọc ;
Hải Lan Sát dải thắt lưng màu vàng, nơ bím tóc bằng vàng, san hô đính ngọc, vẽ hình treo tại Tử Quang Các;
Hòa Thân dải mũ tím, phong tước “Tam đẳng Trung tương bá”. Càn Long nghĩ rằng, Hòa Thân tuỵ không thân chinh đánh giặc, nhưng công lao không nhỏ, lương thực cho đại quân toàn do Hòa Thân lo liệu, đủ tỏ lòng trung của ông ta, đặt thưởng một bài thơ:
Học nhiều hiểu rộng tinh thông Thanh- Hán,
Nghiên cứu binh thư giỏi tài phán đoán,
Diệt giặc trận tiền góp phần đốc chiến,
Lòng trung tặng thưởng xứng đáng hàn lâm.
Chương 11 (tt)
Tiến >>
Đánh máy: hoi_ls
Nguồn: Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2002
VNthuquan.net - Thư viện Online
Dịch theo TRUYỆN HOÀ THÂN - NXB Nhân Sự, Trung Quốc-1996
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 26 tháng 4 năm 2022