Và Rồi Chẳng Còn Ai
dịch giả: việt hà
Chương 1
nguyên văn : and then there were none
vàcòn gọi khác là “mười người da đen nhỏ”
nguyên văn: ten little nigger
Mười tên lính nhỏ đi ăn;
Một tên chết nghẹn,
giờ còn chín tên.
Chín tên thức muộn trong đêm;
Một quên không dậy,
tám tên ngậm ngùi.
Devon du thuyền chúng chơi;
Một tên nằm lại,
bảy thời ra đi.
Bảy tên bổ củi làm chi;
Bổ đôi một đứa,
sáu tên muộn phiền.
Sáu đem tổ ong ra nghiền;
Một ong đốt chết,
còn năm sững sờ.
Đến tòa năm đứa kia chờ;
Một vào Thượng thẩm,
bốn ra biển ngồi
Bốn tên cùng ra biển trời;
Trích đỏ nuốt một,
giờ còn lại ba
Vườn thú ba đứa la cà;
Gấu to vồ một,
còn hai vẹn toàn.
Hai tên đi dưới nắng vàng;
Một khô cong chết,
một tên bơ phờ.
Còn tên lính nhỏ thẫn thờ
Hắn đi treo cổ
mình lên trần nhà.
Và rồi chẳng còn một ai.
FRANK GREEN, 1869.
Chương 1
Ở góc toa hút thuốc hạng nhất là ngài thẩm phán Wargrave, người gần đây đã rời chức về hưu. Ông vừa bập một hơi xì gà vừa đảo qua mục tin chính trị của thời báo Times với ánh mắt lộ rõ vẻ thích thú.
Để tờ báo xuống, ông đưa mắt nhìn ra cửa sổ. Lúc này tàu đã qua Somerset. Ông nhìn chiếc đồng hồ đeo tay - vẫn còn hai tiếng nữa.
Ông điểm lại trong đầu tất cả những gì liên quan tới Đảo Chiến Binh được đăng trên báo chí. Đầu tiên là tin một tay triệu phú người Mỹ say mê du thuyền đã mua đảo, rồi đến một bài viết miêu tả căn biệt thự xa xỉ tân thời mà hắn xây trên đó, ngoài khơi vịnh Devon. Chẳng may cô vợ ba mới cưới của tay triệu phú nọ lại sợ đi thuyền, thế nên mới dẫn tới việc cả cơ ngơi lẫn hòn đảo nọ bị rao bán. Một loạt quảng cáo rùm beng về hòn đảo liền xuất hiện trên báo. Rồi sau đó có một lời xác nhận khô khan rằng cả chỗ đó đã được một quý ngài tên Owen mua lại. Tiếp đến là một loạt tin đồn được những tay ký giả báo lá cải truyền đi. Đảo Chiến Binh thực ra được mua lại bởi một quý cô tên là Gabrielle Turl, một ngôi sao Hollywood! Cô ta muốn lui về đó vài tháng để thoát khỏi sự săm soi của công chúng. Tờ báo Con ong bận bịu thì lại khéo léo ám chỉ rằng chỗ đó dành cho giới Hoàng gia cư trú??! Tờ báo Quý ông Merryweather thì được rỉ tai là chỗ đó được mua lại cho tuần trăng mật - ngài Bá tước trẻ tên L - cuối cùng cũng phải chịu đầu hàng Thần tình yêu! Còn tờ Jonas thì biết chắc rằng nơi đó đã được Hải quân Anh mua lại nhằm thực hiện những thí nghiệm vô cùng bí mật.
Chuyện Đảo Chiến Binh chiếm lĩnh mục tin tức đã rõ như ban ngày!
Ngài thẩm phán Wargrave rút từ túi áo ra một lá thư. Nét chữ gần như không ai đọc nổi, chỉ trừ vài cụm từ ở chỗ này chỗ nọ là nổi bật rõ ràng đến bất ngờ. Lawrence thân mến… đã quá lâu rồi tôi không nhận được tin tức từ ông… phải đến Đảo Chiến Binh bằng được… một nơi đầy mê hoặc… nhiều điều để nói… những ngày xưa cũ… hòa mình vào thiên nhiên… tắm mình trong ánh mặt trời… 12:40 từ Paddington… gặp ông ở Oakbridge… và người gửi thư đã kết lại với một chữ ký bắt mắt: Mãi mãi thương mến, Constance Culmington.
Thẩm phán Wargrave mò lại trong trí nhớ của mình lần cuối cùng ông gặp quý cô Constance Culmington. Chắc là đã bảy - không, tám năm về trước. Lúc ấy cô đang ở Ý để hưởng ánh nắng mặt trời và giao hòa với thiên nhiên cùng những người nông dân Ý. Về sau, ông nghe nói cô đã tới Syria, nơi mà cô được tắm trong cái nắng còn gay gắt hơn, và sống với thiên nhiên cùng những người du mục.
Ông ngẫm nghĩ, Constance Culmington đích thị là loại phụ nữ có thể đi mua một hòn đảo rồi thêu dệt nên những điều kỳ bí xung quanh mình! Gật đầu nhè nhẹ tán thưởng với lối suy luận logic của mình, ông thẩm phán Wargrave mặc cho đầu mình gục xuống…
Và ông ngủ thiếp đi…
Trong một toa khách hạng ba cùng năm hành khách khác là Vera Claythorne, lúc này cô đang ngả đầu ra sau với đôi mắt nhắm nghiền. Đi tàu hỏa vào một ngày như thế này mới nóng nực làm sao! Cũng thật tuyệt khi được đi ra biển! Mà cũng may mắn lắm cô mới có được công việc này. Cứ khi nào cô muốn có một kỳ nghỉ thì hầu như luôn đồng nghĩa với việc phải đi trông nom một bầy trẻ con - mà kỳ nghỉ của một thư ký còn khó kiếm hơn nữa. Thậm chí cả cơ quan môi giới cũng chẳng đem lại nhiều hy vọng.
Và rồi lá thư đó tới.
Tôi đã nhận được lời giới thiệu về cô thông qua hãng môi giới Phụ nữ tài giỏi. Tôi cũng hiểu rằng họ có biết cô từ trước. Và tôi cũng rất thoải mái về mức lương cô yêu cầu. Rất mong cô tới bắt đầu công việc này vào ngày 8 tháng Tám. Chuyến tàu sẽ khởi hành lúc 12:40 từ ga Paddington và cô sẽ được đón tại ga Oakbridge. Tôi cũng kèm theo đây năm tờ một bảng cho khoản chi phí.
Thân ái,
Una Nancy Owen
Và ở góc trên cùng là địa chỉ đính kèm tem thư, Đảo Chiến Binh, Sticklehaven, Devon…
Đảo Chiến Binh! Chà, mấy ngày nay chẳng có gì ngoài tin đó trên báo! Đủ các thể loại manh mối và những lời đồn hấp dẫn. Mặc dù có khi phần lớn số đó là bịa đặt. Nhưng chắc chắn là căn nhà đã được một tay triệu phú xây nên và được ví như là tận cùng của sự xa xỉ.
Mệt mỏi vì một học kỳ đầy căng thẳng vừa qua ở trường, Vera Claythorne tự nhủ: “Làm một cô chủ trò ở một trường học hạng ba thật chẳng lợi lộc gì… Giá mình có được việc làm ở một trường học tử tế nào đó.”
Và rồi, một cảm giác lãnh lẽo phủ lấy tim cô, cô nghĩ: “Nhưng cũng may lắm mình mới có được việc này. Nói cho cùng, cũng chẳng ai thích cái tiếng bị điều tra, kể cả viên điều tra có cho mình trắng án đi nữa!”
Cô nhớ là ông ta thậm chí còn khen ngợi cô vì sự bình tĩnh và lòng dũng cảm. Với một cuộc điều tra thì như vậy là tốt lắm rồi. Và bà Hamilton cũng đối xử rất tốt với cô - chỉ có Hugo - nhưng cô sẽ không nhớ tới Hugo nữa!
Bỗng nhiên, người cô run lên bất chấp cái nóng bức trong toa tàu và cô ước gì mình không phải đi ra biển. Hình ảnh ấy lại hiện rõ trong tâm trí cô. Đầu của Cyril, nhấp nhô lên xuống, cố bơi ra chỗ tảng đá… Lên xuống - lên xuống… Và cô nữa, bơi những sải dễ dàng điêu luyện ở phía sau - rẽ mình qua làn nước trong lúc cô biết, quá đỗi chắc chắn, rằng cô sẽ không tới kịp…
Biển - với màu xanh sâu thẳm ấm áp của nó - những buổi sáng nằm dài trên bãi biển - Hugo - Hugo, người từng nói yêu cô…
Cô không được nghĩ tới Hugo nữa…
Cô mở mắt và cau mày xem xét người đàn ông ngồi đối diện. Đó là một người đàn ông cao lớn với khuôn mặt ngăm nâu, đôi mắt sáng màu hơi gần nhau và một vẻ ngạo mạn, gần như độc ác nơi khóe miệng.
Cô thầm nghĩ: ‘Hẳn là anh ta đã từng đến những nơi hay ho trên thế giới và đã chứng kiến nhiều thứ thú vị…’
Chỉ với một lần liếc mắt nhanh như chớp, Philip Lombard đã có thể đưa ra kết luận về cô gái ngồi đối diện và tự nhủ: ‘Khá hấp dẫn - có vẻ một cô giáo dạy học đây.’
Một khách hàng điềm tĩnh, anh tiếp tục đoán - và là một người luôn làm chủ tình thế - dù trong tình trường hay chiến trường. Anh thà khiêu chiến với cô ta còn hơn…
Anh cau mày. Không, phải dừng ngay mấy thứ đó. Đây là chuyện làm ăn. Anh phải tập trung vào công việc của mình.
Mà chính xác thì là việc gì cơ chứ, anh thắc mắc? Cái tên Do Thái nhỏ thó đó tỏ vẻ rõ là bí hiểm.
“Anh cầm lấy mà không thì thôi, đại úy Lombard.”
Anh trầm ngâm nói: “Một trăm đồng gui-nê, hử?”
Anh nói với cái giọng bình thường như thể một trăm gui-nê chẳng hề quan trọng mấy với mình. Một trăm gui-nê trong lúc anh chỉ còn đủ tiền cho đúng một bữa tử tế cuối cùng! Dù vậy, anh chắc mẩm rằng tên Do Thái nhỏ thó nọ chẳng hề bị anh qua mặt - đó chính là thứ đáng ghét nhất về dân Do Thái, chẳng ai lừa được chúng trong chuyện tiền nong bao giờ - chúng biết hết cả!
Giữ giọng bình thường, anh tiếp: “Và ông không thể cho tôi biết thêm gì hết sao?”
Isaac Morris lắc cái đầu nhẵn nhụi của lão một cách tự tin. “Không, thưa đại úy Lombard, mọi thứ chỉ có vậy. Ông chủ tôi biết rõ rằng ngài có tiếng giỏi xoay xở trong tình thế khó khăn. Tôi được giao việc gửi lại cho ngài một trăm đồng gui-nê và bù lại ngài sẽ đến Sticklehaven, ở Devon. Ga gần đây nhất là Oakbridge, sẽ có người đợi ở đó để đưa ngài đến Sticklehaven và ngài sẽ tới Đảo Chiến Binh bằng thuyền máy. Chủ nhân của tôi sẽ tiếp đón ngài tại đó.”
Lombard đột ngột ngắt lời: “Tôi phải ở đó trong bao lâu?”
“Khoảng một tuần là cùng.”
Vân vê hàng ria của mình, đại úy Lombard nói: “Ông hiểu là tôi sẽ không làm điều gì - bất hợp pháp chứ?” Vừa nói anh vừa ném một ánh nhìn sắc lẻm về phía đối diện. Một thoáng cười mỉm lướt qua khóe miệng đặc trưng Do Thái của lão Morris khi lão nghiêm trang trả lời: “Nếu có bất cứ điều gì bất hợp pháp, tất nhiên ngài hoàn toàn có quyền từ chối.”
Lão già nhỏ thó khốn kiếp, cười với lại cợt! Cứ như thể lão đã biết tỏng Lombard trước đây vốn chẳng coi pháp luật ra gì. Miệng Lombard khẽ mở ra một cái nhếch mép.
Ờ đấy, anh cũng đã có một đôi lần phạm pháp! Nhưng mọi việc rồi đều êm xuôi cả! Chẳng việc gì mà anh phải giới hạn bản thân hết…
Không, anh chẳng cần biết đến giới hạn nào sất. Anh bắt đầu hình dung đến cái cảnh tận hưởng vui thú trên Đảo Chiến Binh ra sao…
Trong một toa dành cho người không hút thuốc, cụ bà Emily Brent đang ngồi thẳng thớm như thường lệ. Cụ đã sáu mươi lăm tuổi và cụ không hề chấp thuận tác phong uể oải. Cha của cụ, một Đại tá thuộc lớp người đi trước, từng rất chú trọng về phong thái nói chung.
Lớp trẻ ngày nay thì lại dễ dãi một cách đáng xấu hổ - từ điệu bộ cho đến tất tần tật mọi việc khác…
Được bao bọc trong vầng hào quang của sự chỉn chu và những nguyên tắc bất di bất dịch, cụ Brent ngồi trong toa khách hạng ba chật chội và đánh bại cái nóng nực cũng như sự bất tiện mà nó mang lại. Thiên hạ ngày nay thì rối rít loạn xị lên vì toàn những chuyện không đâu! Nào là muốn tiêm thuốc tê trước khi nhổ răng - nào là uống thuốc ngủ nếu chẳng may mất ngủ - họ muốn những chiếc ghế bành thoải mái với gối đệm và lũ con gái thì xõa xượi nằm thượt ra đến hở cả nửa người ở những bãi biển hè.
Cụ Brent mím chặt môi. Cụ như muốn nhớ lại một vài cá nhân tiêu biểu làm ví dụ.
Cụ nhớ lại kỳ nghỉ hè năm ngoái. Dù thế, năm nay sẽ khác hoàn toàn. Đảo Chiến Binh…
Cụ rà lại bức thư mà cụ đã đọc đi đọc lại nhiều lần trong đầu.
Kính gửi bà Brent,
Mong là bà vẫn chưa quên tôi chứ? Chúng ta đã gặp nhau ở nhà nghỉ Belhaven một ngày tháng Tám mấy năm về trước, và thật có duyên khi chúng ta có nhiều điểm chung.
Tôi cũng đang mở một nhà khách của riêng mình tại đây, trên một hòn đảo ngoài khơi vịnh Devon. Thiết nghĩ sẽ thật là dễ chịu khi có một nơi như thế này, với thức ăn ngon lành và một người đáng kính ghé thăm. Sẽ không có cảnh khỏa thân hay cái loa nhạc nào vào nửa đêm nữa. Tôi rất lấy làm hân hạnh nếu bà có thể thu xếp được và đến đây vào kỳ nghỉ hè, tại Đảo Chiến Binh - hoàn toàn miễn phí - như một vị khách của tôi. Liệu đầu tháng Tám có thích hợp với bà không? Có lẽ là ngày mùng 8 chăng?
Thân mến,
U.N.O
Tên gì kia nhỉ? Chữ ký hơi khó nhìn. Cụ Emily Brent nôn nóng nghĩ: “Nhiều người có chữ ký không thể nhìn nổi.”
Cụ cố tua lại những người cụ đã gặp ở Belhaven trong óc. Cụ từng ở đó trong hai mùa hè liên tiếp. Có một người phụ nữ trung niên nào đó rất tốt - bà - bà - ôi bà ta tên gì vậy nhỉ? Cha của bà ấy từng là một vị linh mục. Và còn một bà Olton - Ormen - không, chắc chắn là Oliver! Đúng rồi - là Oliver.
Đảo Chiến Binh! Có biết bao nhiêu là tin báo đưa về Đảo Chiến Binh rồi - tin gì đó về một ngôi sao điện ảnh - hay là một tay triệu phú người Mỹ vậy nhỉ?
Tất nhiên là những nơi như vậy thường bị bán giá rẻ - những hòn đảo đâu có hợp gu tất cả mọi người. Thiên hạ nghĩ rằng nó lãng mạn nhưng đến khi ở đó thì họ lại nhận ra chỉ có mỗi sự bất tiện và rồi lại sẵn lòng rao bán.
Cụ Emily Brent thầm nhủ: “Gì thì gì mình vẫn sẽ có được một kỳ nghỉ miễn phí ở đó.”
Với số tiền lương ngày càng giảm và bao nhiêu cổ tức chưa được trả hết, thì dịp này rất đáng để suy xét. Chỉ ước gì cụ có thể nhớ thêm đôi chút về bà - hay cô - Oliver kia?
Tướng Macarthur nhìn ra ngoài cửa sổ toa xe lửa. Tàu vừa tới địa phận hạt Exeter, nơi ông cần đổi chuyến. Thật đáng nguyền rủa, mấy cái xe lửa chậm lề mề này! Cái Đảo Chiến Binh đó, tính theo đường chim bay thì lấy gì làm xa cơ chứ.
Ông còn đang lờ mờ về cái tên Owen nọ. Hình như là một người bạn của Spoof Leggard - và của Johnnie Dyer.
“- Một, hai người bạn nối khố của ông cũng đang trên đường tới - để ôn lại kỷ niệm xưa.”
Chà, ông lấy làm thích thú khi trò chuyện về quá khứ. Gần đây ông còn có cảm giác như thể đám bạn cũ đang cố tình lánh mặt mình vậy. Tất cả là vì cái tin đồn nhố nhăng ấy! Thề có đấng tối cao, mọi chuyện đã quá nặng nề - đã gần ba mươi năm rồi! Chắc là cái thằng Armitage đã phun ra. Thằng ranh khốn kiếp! Thằng nhãi đó biết cái gì cơ chứ? Ờ thì cũng chẳng mấy tốt lành gì khi cứ nghĩ đi nghĩ lại mấy cái chuyện này! Người ta cũng thi thoảng tưởng tượng ra các thứ - như việc có một tên đang nhìn mình chằm chằm chẳng hạn.
Hòn Đảo Chiến Binh này, chà, ông rất muốn được thấy nó. Đã có quá nhiều tin đồn thổi rồi. Hình như còn có cái lời đồn gì đó về việc Hải quân Anh hay Bộ Quốc phòng hay Không quân đã nắm quyền sở hữu hòn đảo.
Tay triệu phú trẻ người Mỹ nọ, Elmer Robson, mới thực là người xây ngôi nhà. Cả hàng ngàn đô-la, thiên hạ đồn vậy. Toàn xa xỉ trần tục…
Exeter! Còn những một tiếng nữa! Mà ông thì không muốn phải chờ đợi. Ông muốn đi tiếp luôn…
Bác sĩ Armstrong còn đang lái chiếc xe hiệu Morris qua vùng đồng bằng Salisbury. Ông đang rất mệt mỏi… Thành công cũng có giá của nó. Còn nhớ cái thời ông phải ngồi trong văn phòng tư vấn trên phố Harley, ăn mặc chỉnh tề, vây quanh toàn là những thứ máy móc hiện đại nhất với đồ nội thất đắt tiền nhất và ông chờ đợi - ông chờ cho qua những ngày tháng trống rỗng để đến cái ngày mạo hiểm đổi lấy thành công hoặc thất bại…
Cuối cùng thì cũng thành công! Ông đã gặp may! Tất nhiên là may mắn cộng thêm cái tài của ông nữa. Ông là một người lành nghề - nhưng thế chưa đủ để thành đạt. Người ta cần có cả vận may nữa. Và ông đã có nó! Một chẩn đoán chính xác, một vài bà bệnh nhân cũ mang ơn mình - loại phụ nữ có tiền có thế - và thế là tin tức bay xa. “Bà thử gặp ông Armstrong xem - một người đàn ông khá trẻ - nhưng rất thông minh - những năm qua Pam đã gặp đủ mọi loại người và ông sẽ giải quyết mọi vấn đề ngay tức khắc!” Mọi chuyện đã diễn ra như thế.
Và giờ thì bác sĩ Armstrong chắc chắn đã đến đích. Ngày làm việc bận kín lịch, ông ít khi có thì giờ rảnh rang. Và thế là, vào buổi sáng tháng Tám ấy, ông cảm thấy vui mừng vì được rời khỏi London để tận hưởng vài ngày nghỉ trên hòn đảo ngoài khơi Devon kia. Mà cũng chẳng phải là kỳ nghỉ gì cho cam. Bức thư mà ông nhận được khá tối nghĩa về khoản nội dung, nhưng chẳng có gì là không rõ ràng về tờ séc kèm theo hết. Một khoản tiền khổng lồ. Nhà Owen nọ chắc phải bơi trong tiền. Nhưng cũng có vẻ hơi khó nhằn, một ông chồng lo lắng cho sức khỏe của bà vợ và muốn có một bản báo cáo tình trạng sức khỏe của bà ta miễn sao bà ấy không hay biết. Rốt cuộc bà vợ kia sẽ không hề biết là có một bác sĩ tới khám. Thần kinh của bà ta…
Lại thần kinh nữa! Đôi mày của ông bác sĩ nhướn lên. Đúng là đàn bà và thần kinh của họ! Thì, nó cũng chỉ tốt cho chuyện làm ăn thôi. Đến nửa số phụ nữ đến gặp ông để tư vấn chẳng bị làm sao ngoài chứng chán chường, nhưng họ cũng chẳng mấy cảm kích khi nghe nói vậy đâu! Và thế là lại phải tìm ra một cái gì đó khác.
“Một tình trạng hơi bất thường của (một từ dài ngoằng nào đó) nhưng chẳng có gì nghiêm trọng - chỉ cần làm đúng là được. Một phương pháp chữa trị đơn giản thôi.”
Thực tình, thuốc men hầu hết cũng là thứ tạo niềm tin cho người ta. Và ông lại có một cách cư xử đàng hoàng - ông có thể gây niềm tin và gieo hy vọng.
May mắn thay ông cũng đã bình tĩnh lại sau cái chuyện mười - không, mười lăm năm trước. Xém chút nữa là gay to rồi! Ông đã đến rụng rời chân tay. Cú sốc đã kéo ông trở lại. Ông cai hẳn rượu từ đó. Thề có đức Chúa trời, chỉ một chút nữa thôi là mọi thứ đã kết thúc…
Một tiếng còi với sức tàn phá xé tai phát ra từ một chiếc siêu xe thể thao Dalmain vừa vượt qua ông với tốc độ tám mươi dặm một giờ. Bác sĩ Armstrong xém nữa là lao vào hàng rào bên đường. Lại là mấy thằng ranh con hay phá phách khắp nơi. Ông ghét cay ghét đắng chúng. Đó cũng lại là một lần suýt chết. Thằng ranh mất dạy!
Tony Marston, trong lúc phóng xe ầm ầm tới Mere, nghĩ thầm: “Cái số xe hơi lết trên đường nhiều đến phát kinh lên được. Lúc nào cũng có cái gì đó ngáng đường. Đã thế lại còn nằm chềnh ềnh giữa đường nữa chứ! Dù gì thì lái xe ở Anh cũng thật đáng nản… không như ở Pháp, anh có thể phóng thoải mái…”
Có nên dừng lại làm ly rượu không nhỉ, hay phóng tiếp? Còn một đống thời gian mà! Chỉ còn có hơn một trăm dặm chút xíu. Anh sẽ mua rượu gin và ít bia gừng uống. Ngày gì mà nóng chảy cả mỡ!
Chắc trên cái đảo đó cũng có mấy thứ hay ho - nếu thời tiết đẹp lâu. Mà mấy người nhà Owen này là ai, anh thắc mắc? Chắc giàu nứt đố đổ vách. Tay bán hàng rất rành đánh hơi chuyện mấy người như thế. Tất nhiên, lão phải làm vậy, tội nghiệp lão, còn chẳng có một xu dính túi…
Hy vọng họ sẽ đãi khách với rượu ngon. Chẳng biết đâu mà lần với mấy tên tự làm ra tiền chứ không phải đẻ ra đã có tiền. Đáng tiếc là mẩu tin Gabriella Turl mua Đảo Chiến Binh lại không đúng. Anh thích được giao du với đám diễn viên nổi tiếng hơn.
Đành thôi, chắc ở đó cũng phải có mấy em chứ…
Bước ra khỏi khách sạn, anh vươn vai, ngáp một cái, ngước nhìn bầu trời xanh trên cao và trèo vào chiếc xe Dalmain.
Phải đến vài cô gái nhìn anh đầy ngưỡng mộ - thân hình cân đối cao một mét tám mươi hai, mái tóc óng mượt, khuôn mặt rám nắng, và đôi mắt xanh biếc vô cùng.
Anh nhấn ga rồ máy rồi lướt qua con phố hẹp. Người già và mấy đứa bé bán rong phải nhảy dựng lên tránh cho an toàn. Bọn trẻ thì dõi theo với ánh mắt hâm mộ.
Anthony Marston đắc thắng tiếp tục cuộc hành trình của mình.
Ông Blore lúc này đang trong một chuyến tàu chậm chạp đến Plymouth. Ngoài ông ra chỉ còn một người nữa trong toa tàu, một cụ già từng đi biển với đôi mắt lèm nhèm. Hiện cụ già đã ngủ gật.
Ông Blore đang cẩn thận ghi chép vào quyển sổ nhỏ.
“Thế là đủ,” ông lẩm bẩm. “Emily Brent, Vera Claythorne, bác sĩ Armstrong, Anthony Marston, ông già thẩm phán Wargrave, Philip Lombard, tướng Macarthur, C.M.G., D.S.O. Người quản gia và vợ ông ta: ông bà Rogers.”
Ông gập quyển sổ lại rồi đút nó vào túi. Ông liếc nhìn phía góc toa tàu và người đàn ông đang ngủ.
“Có một trong tám rồi này,” ông Blore thẩm định một cách chính xác.
Ông nhẩm lại mọi thứ trong đầu một cách cẩn thận đầy lương tâm.
“Công việc chắc chẳng mấy khó khăn.” Ông nghiền ngẫm. “Khó mà vuột tay vụ này được. Hy vọng nhìn mình không đến nỗi nào.”
Nghĩ rồi người đàn ông đứng dậy, lo lắng soi mình qua tấm kính. Khuôn mặt phản chiếu trong gương có vẻ đặc trưng của lính với hàng ria mép. Chẳng có mấy biểu cảm ở gương mặt ấy. Đôi mắt xám lạnh và hơi gần nhau.
“Có thể là một thiếu tá,” ông Blore nói. “Không, mình quên béng. Có một lão già ở đó cũng từng trong quân đội. Lão sẽ nhận ra mình ngay.”
“Nam Phi,” ông Blore thốt lên. “Phải rồi! Chẳng một ai trong số đó có bất cứ mối liên hệ nào với Nam Phi, và mình vừa đọc mẩu tin du lịch kia nên có thể nói trôi chảy được.”
Cũng thật may là có đủ loại thuộc địa trên đời. Và một người trở về từ Nam Phi như ông Blore cảm thấy mình có thể hòa nhập với bất cứ giai tầng nào chẳng chút khó khăn.
Đảo Chiến Binh. Ông nhớ nó từ khi còn là một đứa bé con. Đủ loại đá nhuốm vị biển vây quanh bởi hải âu - nằm cách bờ biển khoảng một dặm.
Thật là một ý tưởng nực cười khi đến đó xây nhà! Thời tiết ở đó mới tệ làm sao! Nhưng mấy tay triệu phú cũng nhiều khi bốc đồng!
Cụ già ở trong góc lúc này đã tỉnh dậy và nói: “Chẳng bao giờ lường trước được biển cả đâu - không bao giờ hết!”
Ông Blore nói dỗ dành: “Đúng thế. Không ai lường được.”
Cụ già nấc lên hai lần, tỏ ra rầu rĩ: “Sắp có cơn cớ đây.”
Ông Blore nhẹ nhàng chỉnh lại: “Đâu, không phải đâu cụ ơi, hôm nay đẹp trời mà.”
Cụ già giận dữ: “Có một cơn giông mà. Tôi có thể ngửi được nó.”
“Chắc cụ nói đúng.” Ông Blore nói hòa giải.
Đoàn tàu dừng lại ở một trạm ga và cụ già loạng choạng đứng dậy.
“Tới nơi tôi xuống rồi.” Cụ quờ tay phải ô cửa sổ. Ông Blore bèn giúp cụ.
Cụ già đứng nơi cánh cửa, giơ bàn tay chào trang nghiêm và chớp chớp đôi mắt kèm nhèm của cụ.
“Hãy cẩn trọng và cầu nguyện,” cụ nhắc nhở. “Cẩn trọng và cầu nguyện. Ngày xét xử cuối cùng đã cận kề rồi.”
Cụ nhào người khỏi cánh cửa ngã xuống nền sân ga. Vẫn tư thế nằm như vậy, cụ ngước mắt nhìn ông Blore và nói với giọng vô cùng trịnh trọng: “Tôi đang nói về anh đó, chàng trai trẻ ạ. Ngày phán xử cuối cùng đến gần rồi.”
Ngồi lặng thinh nơi chỗ ngồi của mình, ông Blore thầm nhủ: Lão còn gần ngày tận thế hơn mình ấy chứ!
Nhưng, kỳ thực mà nói, ông ta đã lầm…
Chương 1
Tiến >>
Nguồn: Nhà xuất bản TRẺ: ebook©vctvegroup
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 11 tháng 2 năm 2023