Cũng như mọi Kytô hữu, tôi tin vào đức Kytô, tin vào Thiên Chúa, tin nơi những gì được giảng dạy bởi các đấng thẩm quyền đã công bố và được truyền lại cho những kẻ mang niềm tin vào đức Kytô và Thiên Chúa. Chẳng những tin mà tôi còn thực lòng muốn tìm hiểu để sao có thể ít nhất áp dụng Lời Chúa, những lời giảng dạy của các đấng các bậc thẩm quyền nơi cuộc đời của mình sao cho tâm tư được an bình, hài hòa với lòng thao thức bẩm sinh, nỗi khát khao tiềm ẩn của một con người muốn nhận biết mình thực sự là gì chẳng những nơi cuộc sống thế nhân mà còn nơi niềm tin, nơi nỗi thao thức như khát vọng nhận biết giá trị thực sự của đời mình là gì, mục đích là chi, ở nơi nao, và sẽ đi về đâu sau những ngày tháng nơi dương thế này.
Nỗi thao thức, sự khát khao tiềm ẩn này chẳng khác gì ngọn lửa âm ỷ nơi cõi lòng, đôi khi bùng lên thôi thúc tâm tư kiếm tìm, hầu có được giải đáp hài hòa, hợp lý, hợp tình, mong sao thăng tiến nhận thức chân thực bình thường của một con người, ít nhất thỏa mãn lòng khát khao của chính mình. Tất nhiên, Kinh Thánh là kho tàng cho tôi đào bới, tìm tòi. Dẫu không đọc hết mọi chữ nơi phần Cựu Ước, tôi đã có thể tóm gọn lại một câu, và đó là tất cả những gì được viết nơi Cựu Ước minh chứng có một Quyền Lực Tối Thượng được mệnh danh là Thiên Chúa, hiện diện, biến chuyển, và điều hành mọi sự nơi vũ trụ vô cùng này. Tân Ước đã khiến tâm tư tôi nhảy quay lên với những "phát ngôn" tạm gọi bất thường, nếu không muốn nói nghịch thường đối với một tâm hồn bình thường chất chứa niềm tin Kytô hữu. Làm sao và với phương pháp nào tôi có thể thực hành câu, "Nếu mắt phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy móc mà quăng đi khỏi ngươi; nếu tay phải ngươi làm ngươi vấp phạm, thì hãy chặt mà quăng nó đi khỏi ngươi" (Mt. 5:29;30)? Và mắc mớ gì phúc âm đã những bẩy lần nhắc đi nhắc lại câu nói thường tình, "Ai có tai thì nghe" (Mt. 11:15; 13:9, 43; Mc. 4:9, 23; 7:16; Lc. 14:35)? Hoặc, "Kẻ yêu cha mẹ hơn Ta ắt không xứng với Ta. Kẻ yêu con trai con gái hơn Ta, ắt không xứng với Ta. 38 Kẻ không vác lấy khổ giá mình mà theo Ta, ắt không xứng với Ta. 39 Kẻ cố tìm sự sống mình, thì sẽ mất; còn kẻ đành mất sự sống mình vì Ta, thì sẽ gặp lại" (Mt.10:37-39; Gioan 12:25). Hay ngược lại niềm tin được rao giảng, "Ðừng tưởng Ta đến để đem lại bình an trên mặt đất; Ta đến không phải để đem lại bình an, mà là gươm giáo. Ta đến để chia rẽ người ta với cha mình, con gái với mẹ mình, nàng dâu với mẹ chồng mình; và kẻ thù của người ta là những người nhà mình" (Mt. 10:34-36).
Qua sự tìm tòi về nguồn gốc và địa phương Kinh Thánh được viết, tôi biết được Kinh Thánh được viết nơi miền Trung Đông, khởi thủy bằng ngôn ngữ Amaric nhưng bản Kinh Thánh được dùng làm tiêu chuẩn cho mọi tham khảo, nghiên cứu lại là ngôn ngữ Hy Lạp. Miền Trung Đông tất nhiên liên hệ tới Đông Phương, tôi nghĩ. Sở dĩ tôi có ý nghĩ này vì giới hạn hiểu biết và sử dụng ngôn ngữ của mình; hơn nữa, tôi chỉ có thể tìm mua được những bản dịch tiếng Việt về một vài đạo học Đông Phương và sách của dịch giả cũng như tác giả nơi ngôn ngữ Việt. Một kho tàng bao la về đạo học Đông Phương đã cuốn hút tôi chìm sâu, ngụp lặn, và chẳng những thế, thao túng, đồng thời vật lộn tâm trí cũng như nhận thức khiến tôi phải tự đặt vấn đề thay đổi chiều hướng suy tư, nhận định, phải lột bỏ những màn kiếng màu ôm ấp, che lấp nhãn quan đã bao lâu nay ấp ủ để hoàn toàn mở rộng thực hiện tuyệt đối tự do tư tưởng trong hành trình nhận thức. Bạn nghĩ sao khi đối diện câu, "Người biết không nói; kẻ nói không biết" nơi Lão học? Quả là nực cười vì ngớ ngẩn phải không? Tôi có thể tưởng tượng, nếu bạn vừa hớp ngụm cà phê đồng thời đọc câu này, coi chừng trang giấy vội bị tràn ngập nở màu hoa nâu. Còn gì nghịch thường hơn câu nói, "Lửa thì không nóng, nhưng tại mình cảm thấy nó nóng" (Huệ Thi), nếu không muốn nói là khùng, là điên; hay đơn sơ, ngốc nghếch như, "Ngón tay ta chỉ mặt trăng, nhưng ngón tay ta không phải là mặt trăng," hoặc, "Lời ta nói như chiếc bè" (Phật học), thế mà chúng đã mấy ngàn năm ngạo nghễ, hiên ngang thách đố nhân loại nghiệm chứng, và đã biết bao người tiêu hoang cả đời suy tư, đối diện chúng và đã ra đi như chưa hề nghe biết.
Và rồi muôn ngàn pháp, phép, định, quán, thiền, Yoga, hành, nơi Ấn, Phật, Lão học, rối tung lên với những quan niệm, chủ thuyết của mật tông, minh triết, phái nọ, thừa kia nơi hành trình nghiệm chứng trong khi các bậc chân nhân, thức ngộ hô ầm lên, "Chẳng có cóc rác gì." Muốn thực hành các pháp, các phép, thiền, Yoga, thì lại phải đối đầu với muôn lý thuyết, quan niệm, chủ trương, giải thích, giải nghĩa rối mù lên; mỗi thày mỗi kiểu, mỗi tông phái vài quan niệm, nhiều pháp thực hành, thực tỏi. Điều căn bản thì chẳng pháp, phép nào nói ra, chỉ phải, chỉ cần định tâm mà định thế nào thì trời biết, đất biết nhưng tác giả, dịch giả chẳng thể nào dù chỉ hé cho một chút để tôi, kẻ hành thiệt muốn thực tập để có thể biến mình thành hành giả. Lục tổ Huệ Năng lại phán thêm, "Ngồi nhiều sinh bệnh" thế nên phát minh hành thiền. Thiền cần định tâm mà hành với tỏi thì định thế nào. Định trong hành, hành trong định; định đã chẳng biết thì sao nói đến hành phương chi định tâm trong hành thiền hoặc ngược lại, quả là cứ rối tung lên chẳng khác chi rợ vô rừng, cái rợ tâm trí nơi khu rừng thâm u Đông Phương.
Ấy may mà tôi quá giỏi tiếng Anh, lại dốt tiếng em; nếu rành thêm chút tiếng Anh để chui vào đám hậu học từ chương thì có lẽ đành ngậm cười nơi chín suối, hài lòng chấp nhận vận số mình nông cạn căn cơ nơi thế giới đạo học. Cũng may là dốt nên đành dậm chân tại chỗ nơi ngôn ngữ Việt với kho tàng Tục Ngữ, Ca Dao, nói một đàng, nghĩa một nẻo chẳng khác gì sấm nổ đàng Đông nhưng ý động đàng Tây. Bị quần riết rồi cũng có lúc sáng ra, mà đến lúc chợt nhận ra ánh sáng cuối đường hầm thì mới biết những điều đã cố gắng nhận biết đã chẳng cần biết gì bởi những sự cần biết đã sẵn ở nơi mình, chỉ cần kiến tính (Huệ Năng).
Ai chẳng thế, đều coi thường những gì mình có để rồi tốn công, hao của mò móc, theo đuổi điều trong ước mơ. Ai không bao giờ đứng núi nọ nhìn núi kia cao. Ai không nhận thấy vợ người đẹp hơn vợ mình! Cái đặc tính trời ban ham của lạ này lại tràn đầy nơi tôi; cho đến khi nhận thức được vào đời tay trắng thì ra đi cũng trắng tay, trở về với thực trạng con người của mình mới nhận ra cái thực thể trắng tay đã tự bao hàm một căn cơ toàn vẹn. "Kiến tính," chỉ cần kiến tính là thành Phật. Phật đã ở tại tâm thì đâu cần pháp với phép chi, nhưng làm sao để kiến tính thì lại phải nghiệm chứng. Nói đến nghiệm chứng đành đối diện muôn ngàn phép tắc mà tác giả, dịch giả giải thích, giải mã trăm phương ngàn hướng. Đọc cho đã, tìm mệt nghỉ, cuối cùng cũng trở lại chính mình. Kết cục, biết đó, thực hành đó, tất cả không ngoài tâm tư. Đến lúc trở lại cuốn Kinh Thánh, những thực nghiệm, thực chứng, nghiệm chứng, quán tưởng, thiền, định, pháp, phép của muôn ngàn chiều hướng nằm chình ình ra đó nơi Tân Ước mà nào mấy ai để ý; và đó là, "Đừng dập tắt Thần Khí! Chớ khinh thị các ơn tiên tri! Nhưng hãy nghiệm xét mọi sự; điều gì lành hãy giữ lấy! Hãy kỵ điều dữ bất cứ dưới hình thức nào" (1Thes. 5:19-22). Điều kiện chỉ là cần giữ tâm hồn tự do tuyệt đối, "Hãy coi chừng đừng để ai lấy cách vật trí tri làm mồi rỗng tuếch đánh bã anh em, thể theo truyền thống người phàm, thể theo nhân tố trần gian, chứ không theo đức Kitô" (Col. 2:8).
Loạn bàn thì vô cùng nhưng nói ra thì chỉ hai tiếng "Nghiệm xét." Ai đã bị nỗi thao thức tiềm ẩn hối thúc lao vào hành trình tâm linh mà bên Đông Phương học gọi là "Hành giả" sẽ biết. Những gì được mạo muội chia sẻ nơi đây, hy vọng chỉ phần nào kích thích hoặc thách đố với ước mong nói lên nghĩa ám định của ba chữ, "Theo đức Kytô" nơi thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn Côlôsê.
Về tên của tập bài viết này, bởi chủ điểm của chúng đều nói về nghiệm xét những câu nói bất thường, nghịch thường nơi phúc âm, nên thuở ban đầu được tạm đặt là "Nghiệm Xét Phúc Âm," nhưng danh hiệu này quá lớn lao, nếu không muốn nói là nổ, là lạm dụng danh hiệu phúc âm; do đó nó được chỉnh lại thành, "Theo Đức Kitô," nhưng, lại cũng chữ nhưng, mặc dầu được trích từ lời khuyên của thánh Phaolô về tâm trạng nên có của những ai thực hành "Nghiệm xét mọi sự;" "Chứ không theo Đức Kitô;" nó lại bao hàm nhiều thách đố nơi tâm tư "hành giả." Thiển nghĩ, trong giới hạn luận bàn, phiếm luận, không dám đụng chạm đến bình luận. sự suy tư hạn hẹp cá nhân chẳng nên "bố láo bố toét," lớn lối đề nghị nhăng cuội, mà chỉ dám liều mạng phơi bày nét nhìn thiển cận may ra chọc tức sự suy tư độc giả hầu mong độc giả vô tình hay hữu ý bực mình phát sinh nhận thức chính xác hơn nơi những câu nói khôn ngoan và dụ ngôn ngang ngang ngửa ngửa nơi phúc âm mà thôi. Biệt danh "Loạn Bàn Phúc Âm" được phát sinh. Mong quí độc giả cảm thông.
Hành thiệt thay vì là "hành giả." Mong thay!
Thay Lời Tựa
Tiến >>
Nguồn: Tác giả VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 30 tháng 1 năm 2023