- THAO THỨC NỖI NIỀM QUÊ
- RÉT GIÓ CHIỀU NGƯỜI
- XUÂN Ở LÀNG THƯỢNG VĂN
- TẾT VỀ HÀ NỘI HÁI TẦM XUÂN
- KHÁN KHÁN NHÂN PHONG
- NƠI QUÊ CHA ĐẤT TỔ
- ĐƯỜNG ĐẾN VỚI HOA ĐÀO
- KHÁCH VĂN THUỞ MAI VÀNG
- CÁI TÂM TRONG TỤC XEM CHÂN GÀ
- BỮA TIỆC RAU ĐẦU XUÂN
- PHIÊN CHỢ ĐỜI NGƯỜI
- ĐỀN HÙNG TRONG LÒNG NGƯỜI VIỆT
- ĐÁM GIỖ THẦY ĐỒ
- NGƯỢC DÒNG TÌM MỘT MOM SÔNG
Sài Gòn vào Tết chan hòa nắng. Đứng ở một ngã tư lúc bị kẹt xe, tôi vô tình ngước lên trời. Giữa hai tàn cây bên đường, không gian chiều ngang như hẹp lại, đẩy cái nhìn lơ đãng của tôi vút lên trời. Trời xanh thăm thẳm sắc bình yên. Hình như ở đây là cái màu xanh ngắt được nhận ra từ ngõ trúc trong thơ Yên Đổ. Hình như đó còn là cái màu xanh “một màu xanh Quảng Trị - đất nước hai miền có chia đâu” khắc khoai năm nào trong thơ ai. “Xanh kìa, cha nội”, ai nhắc cùng tiếng động cơ rộ lên giòn giã, hối hả khiến tôi quay về thực tại, rồ ga, vào số, chạy qua dinh Thống Nhất, ra chợ Bến Thành.
Sống ở Sài Gòn đã lâu, tôi vẫn giữ lối xưa, đi “đụng lợn” theo lối mới. Được cái thời kinh tế thị trường người bán hàng nào cũng đon đả, chiều khách nên yêu cầu khó tính của tôi được một cô bé bán hàng đáp ứng ngay bằng một lời hẹn nghe mát cả ruột gan: “Chú cứ đi đâu đó, chừng một giờ rưỡi quay lại, con lo cho. Con hứa danh dự đó chú”. Tôi đặt cọc gấp đôi số tiền định mua thịt, cô bán hàng gạt đi: “Khỏi, khỏi chú ơi! Con đã nói lo là lo mà. Ngày Tết...”. Sướng thật!
Ngồi bên ly cà phê đen, nhìn sang bên Thủ Thiêm, tôi bỗng nao lòng khi thấy khói bếp nhà ai vương lên trời một vài sợi mỏng.
Quay sang quán bên, mấy cô gái đang rúc rích cười, vẻ mặt và áo quần rực rỡ như hoa. Lấp ló trong nắng sáng xuân vàng, hoa thược dược, hoa cẩm chướng, hoa mào gà khoe sắc nắng hoac sắc cờ.
Tự nhiên trong tôi thức dậy nỗi nhớ quê da diết. Ai tha hương không da diết nhớ quê? Vào tiết xuân, quê tôi mờ trong mưa bụi. Mưa xuân li ti giăng mắc, bay nhảy trong gió nhẹ. Thảng lúc, có một cơn gió mồ côi chợt ào đến, những hạt mưa như bụi đang lơ lửng kia như bay ngược lên, nước như vỗ vào trời, đất trời như hòa làm một.
Khi ấy tôi còn bé tí. Tóc vàng khét nắng gió đồng quê. Bốn mùa áo nâu sòng lưng vá, cúc hai bên vạt áo trèo cây nhiều đứt hết, ngực gầy cứ phơi ra.
Thôi rồi mừng hết chỗ nói! U tôi đã mang áo quần mới về. Con nhà nghèo, khỏi phải đến hàng may. Chiều qua, u tôi bảo tôi cởi trần một buổi cho nó mát, người lẳng lặng mang tấm áo vá của tôi ra hàng may, ông thợ cứ thế mà may áo mới bằng cách nới rộng, nới dài mỗi bộ phận ra một tí. Tôi mặc liền áo mới, chạy ra ngõ, những mong có một đứa bạn nào trông thấy rồi sẽ cởi áo cất đi chờ Tết. Ngõ hun hút tre xanh!
Bố tôi đi đụng lợn đã về. Ông ngồi lom khom trên tấm phản lim đen bóng, rít một hơi thuốc lào, nõ điếu kêu lên tóc tóc vui vẻ, ngửa mặt lên trời khoan khoai để thở khói thuốc xanh mờ. Xong, ông bảo: “Nhà ta năm nay ăn Tết to cu ạ. Bố đụng những một đùi lợn đấy!”. U tôi đang ở ngoài bậu cửa bỏm bẻm nhai trầu, nghe thấy thế vội nhổ bã trầu, chen vào: “Chết, chết, nhà mình vụ này mới đủ thóc ăn. Ông đụng nhiều thế, ăn nó phí đi!”. “Thôi bà ạ, đói cả năm cả đời, ai đói ba ngày Tết? Bà để yên cho chúng nó vui”. U tôi nghe bố tôi nói vậy, lại lấy trầu cau ra têm, ngồi chậm rãi nhai, mắt sáng những tia vui.
Tiếng lợn kêu eng éc lúc bị trói giò, hay ò ò ò, hộc hộc lúc được hóa kiếp cuối năm đây đó đã vang lên, bị lũy tre làng ken dày cản lại, như hất ngược lên trời. Từ sớm “ông Táo về trời” (23 tháng Chạp), tôi đã nôn nao hỏi bố bao giờ thì con lợn đụng nhà tôi được thịt. “Sáng 29. Trưa, bố sẽ cúng tổ tiên”. Thành thử bữa ấy tôi phải trần truồng lội xuống ao xuân lạnh giá, lấy chân khua nước, tay đập gậy trên mặt nước lùa cá vào vó cho bố. Được vài con cá. Rán giòn hết. Chỉ tiếc và không hiểu sao bố tôi giữ con cá chép lại, con chép to nhất, ngon nhất; cúng xong, đem ra sông thả. “Để cho nó hóa rồng con ạ. Rồi con rồng ấy đưa ông Táo, bà Táo về trời. Họ quanh năm vất vả khói rạ rơm, giờ về trời báo tin vui nhà ta hết đói, kể cũng sướng! Bố cứ nghĩ bao nhiêu năm nay vợ chồng ông Táo nhà mình không nỡ kể cảnh nhà ta! Giờ thì...”. Bố tôi buông lửng câu nói, tay đặt cả cái chậu có con cá chép, dìm xuống bến sông, mắt lại hướng lên trời đang giăng đầy mưa bụi.
Rồi cái ngày mong đỏ mắt ấy, cái ngày hăm chín tháng chạp quyến rũ ấy, cũng đến. Cả nhà tôi dậy từ lúc sáng mờ. Tôi mang một cái rổ tre theo bố. Con trai trưởng có khác, được quyền nhận và bê rổ thịt về nhà. Tôi vẫn còn nhớ như in, con lợn năm ấy mõm ngắn cũn, lông đen nháy và xoắn tít, thân thon, bụng hóp - giống lợn ỉ chậm lớn - chỉ vẻn vẹn chưa đầy ba mươi kí lô. Dù vậy, tôi vẫn đủ để hãnh diện với đám bạn nghèo: nhà tôi đụng một đùi lợn! Lớn bé gì thì một đùi lợn cũng vay mà thôi. Một đùi lợn!
Một đùi lợn có nghĩa là một con lợn đấy! Đủ một phần từ thủ lợn, lưỡi lợn, vai, mông, chân giò, tim, gan, phèo phổi... “ Ông cha mình nghèo ăn lấy thơm lấy thảo, ăn lấy hương, lấy hoa, chẳng cốt no, chỉ cốt đủ”, bố tôi bảo thế. Cái no và cái đủ, về sau đi học, vào đời, tôi vẫn nhớ như một lời răn. Cái no dành cho kẻ đói, cái đủ dành cho kẻ thanh. Kẻ thanh liêm, thanh cao, thanh đạm hướng về cái đủ theo nghĩa tinh thần. Người thờ tổ tiên trọng tinh thần hơn vật chất, không thể không cố lo cho đủ lễ, nếu có điều kiện. Lúc nghèo, chỉ một bát nước trong, một nén nhang cũng là đủ. Về ý này có lần tôi đã hỏi bố tôi. Bố tôi vuốt râu, cười mà rằng: “Tổ tiên ta vốn rồng tiên. Rồng ở nước. Tiên ở núi. Bát nước trong là biển. Nén nhang là rừng cây thu nhỏ lại. Đặt hai vật ấy gần nhau, khác gì làm một bài thơ? Cụ đồ có dạy con vậy không?”. Tôi lại lấy một bát nước trong, thắp một nén nhang cắm vào bát nhang hình như đôi lúc nhãng khói hương... Bên tai đã thoảng lời bố; áo chùng, khăn đóng, kính lão giương lên cuốn bài vị: “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa... nhất thứ Nguyễn Văn đồng gia đẳng... lòng thành dâng... tiên tổ... quốc gia...”. Mỗi lời là một tiếng “sít... suýt” thoat ra từ hai kẽ răng dính lại, lưỡi đẩy lên vòm ngạc, suýt xoa thành kính. Trước tiên tổ, bố tôi chỉ nhìn vào cuốn bài vị, đọc xong bao giờ người cũng cúi đầu, mắt nhìn xuống ngực nhưng không mở to, tiếng cứ nhỏ dần, nhỏ dần. Tôi chỉ thực sự biết bài văn cuối năm kết thúc khi bố tôi phủ phục xuống nhiều lần rồi đứng lên trang trọng rót rượu từ cái chai đã mở nút lá chuối hột vào các chén mắt trâu, so đũa, kêu tôi đơm cơm cúng, múc nước trong.
Chợt tỉnh nỗi niềm, tôi hốt hoang nhìn đồng hồ. Ô, không mang theo! May thay, quay lại chợ, cô bé bán hàng vẫn còn chờ, trách: “Con mong chú đỏ cả mắt. Cứ ngỡ... Song nghĩ người tỉ mỉ thế, khong thể sai lời!”. Tôi ậm ừ xin lỗi. “Con lo đủ rồi đó. Chú cứ yên tâm. Y chang lời chú dặn”. Giỏ thịt lợn Sài Gòn cũng y như rổ thịt lợn năm xưa! Khác là tôi đã lớn, đã phong trần, tóc đã muối tiêu.
Cho đến lúc mâm cỗ tất niên vợ tôi bày lên bàn thờ, tôi bỗng hốt hoang thấy không có trên dĩa lòng những lát tim nâu đỏ, mịn màng. Xem kỹ, vẫn không thấy! Dặn vợ qua quít, tôi phóng xe ra chợ. Cô bé mếu máo bảo: “Con đợi chú hoai, chỉ sợ chú hiểu lầm, tội nghiệp con. Trái tim này, tiếc không phải của con heo đó. Con xin lỗi, xin lỗi. Con xin biếu”. Tôi nói thế nào cô bé cũng nhất định không nhận tiền. Giữa Sài Gòn gió bụi, tôi bỗng như gặp lại dáng xưa chân chất, thật thà nơi khoai lúa...
CON TRÂU THỜI THƠ ẤU
Một buổi sáng tháng tư xanh lọc sau cơn mưa đầu hạ. Lúc ấy, tôi lên sáu, nhởn nhơ bắt bướm, chơi chọi cỏ gà một mình để bà và u rảnh tay tát nước cho đám ruộng lúa cạnh mương nước ngang với con đường đất cát dẫn vào làng. U tôi bỗng buông dây gầu, mừng rỡ kêu lên: “Bố thằng cu đã về! Mua được trâu rồi, u ơi”. Bà tôi mất đà, ngã ngồi xuống cỏ. Cái gầu rơi “tùm”, nước bạc bắn lên tung toé. U tôi lội qua sòng đỡ bà dậy. Rồi, vừa xuýt xoa, vừa le te chạy lên đường, u dừng lại chỗ bố. Bố tôi vẫn còn đứng ngẩn ra, nới tay buông lỏng sợi thừng, khiến con trâu có dịp vươn cổ, nghênh đầu, phô ra cái lợi sún. Tôi được bố bế đặt ngồi chỗm chệ trên lưng trâu. Bà tôi đưa bàn tay mồi vuốt vuốt những sợi lông thưa trên mặt da đen bóng của con vật. Bố nhìn u âu yếm, giọng lạc đi: “Trâu nhà ta đấy!”. Tôi tụt từ trên mình trâu xuống. Như đã nhận ra người chủ nhỏ, con trâu gại gại đầu, rồi thè cái lưỡi ráp như lá lúa, liếm liếm vào tay. Trâu tỉnh Thanh sừng cong chuối ngự, cổ cò, bụng hóp, mông nở, chân thon gióng trúc. Kéo cày khoẻ lắm đây! Bà tôi vừa cười, tay run run xoa đầu cháu, thì thầm vào tai tôi: “Vậy là bố cháu tam thập nhi lập, làm nhà, cưới vợ, tậu trâu. Có chí, mấy nả mà giầu tiền kho thóc đụn”. Con trâu mở to đôi mắt lờ đờ, cúi đầu như đang ngẫm nghĩ về ước vọng mà cả nhà tôi đã ngầm đặt lên vai nó.
Tôi nhập bọn và trở thành một trong những trẻ trâu với nhiều trò nghịch ngợm thơ ngây từ thuở ấy. Sáng, dắt trâu từ chuồng ra khỏi ngõ, chúng tôi í ới gọi nhau, thong thả dong những con vật hiền lành qua cái cổng làng rêu phong cổ kính trổ lối ra đồng. Hai bên cổng, tre ken dày thành luỹ, bao bọc lấy làng xóm. Tre như chiều lũ trẻ, che khuất những việc làm dại dột nhưng thú vị của chúng tôi. Ông mặt trời đỏ rực đang cười; khoang trời xanh đã mở cho cánh chim bay; con đường đồng vắng lặng như mời, như gọi vó câu. Nhớ chuyện Đinh Bộ Lĩnh, chẳng đứa nào bảo đứa nào, chúng tôi cùng cúi rạp trên mình trâu, nhất loạt ra roi dâu. Những con trâu ban đầu còn lộp cộp lộp cộp nước kiệu; về sau, hứng khởi bởi tiếng la hét trẻ thơ, chúng cất bốn vó lồng lên phi nước đại. Gió ù ù bên tai, hất tóc ngược về phía sau. Đất nâu trắng phớ tung bụi, lúa đồng xanh chấp chới như vờn như giỡn. Thầy giáo khai tâm của tôi phong thanh biết chuyện, cười, khuyên: “Các con muốn nhanh nên người thì phải học. Chữ nghĩa chính là cái cổng làng và con đường dẫn vào cuộc đời. Sự cố gắng, nỗ lực, chẳng qua cũng chỉ là một cách phi trâu lồng mà thôi”.
Nhớ lời thầy, chúng tôi thả trâu gặm cỏ trên cồn, để mặc cho tiếng mõ lóc cóc xa dần, những cái nón mê chụm lại quanh một cuốn sách: “Ai bảo chăn trâu là khổ?”. Tiếng ếch nhái uôm uôm lẫn vào tiếng cá quẫy lóc bóc trong các ruộng lúa. Sau khi đã thuộc nằm lòng bài học, tháng tư tuốt rờm lúa, tháng tám nhổ cỏ khô, chúng tôi nướng những con cá mò được, bày cỗ chơi trò việc làng, việc họ, việc cưới cheo. Lá nhọ nhồi, tro nướng cá và đất sét thế mà được việc! Lấy những thứ đó vẽ lên mặt là có đủ cả lý trưởng, tiên chỉ họ, chú rể, cô dâu. Chơi chán thì thả đỉa ba ba, rồng rắn lên mây hay giả làm trai gái làng hát chầu, hát ví. Vừa cười đã khóc, vừa mới giận hờn đã vội làm quen. Rồi lớn lên, kẻ đi xa đau đáu mong ngày trở lại chốn xưa, người ở lại khắc khoai bấm đốt ngón tay đợi bạn vong niên. Gặp nhau mỗi độ xuân về, tết đến, cười nhăn cả má, nước mắt cứ trào ra, người này thương kẻ kia tóc sớm bạc, người ở quê xót người nơi góc bể chân trời...
Tôi có mấy người bạn ba mươi năm qua vẫn còn trong quân ngũ. Mỗi khi có dịp, các anh ấy vẫn nhắc lại trò chơi trận giả thuở ấu thơ. Vào tháng mười một, ruộng cày lên xếp thành những luống ải, gió bấc hanh hao đã làm đất nỏ tom. Đám con trai chia làm hai phe ta và địch, len lỏi đuổi theo nhau trong từng luống đất. Dĩ nhiên, “đạn” chỉ là đất ải nhào với nước cho nhuyễn vo lại. Đám con gái thì được cử làm cứu thương, lo việc hậu cần. Tôi chơi xấu, cố tình nhô người lãnh đạn, để được đám con gái khiêng lên cồn, nằm khểnh nhai ngô rang giòn tan,thơm nức. Về sau, trò này bị lộ. Chúng bạn phạt bắt tôi làm máy bay địch, đạn súng nhỏ bắn không tới, miệng ù ù trong suốt cuộc chơi. Thấy tôi giang hai tay liệng đi liệng lại, mấy con trâu đang thản nhiên gặm cỏ nhất loạt ngửa mặt, nhăn mũi, cười chế nhạo: “Ngò...ngò...ò...”.
Vào một vụ tháng sáu, tôi thả diều trên cồn. Tiếng sáo lơ lửng neo giữa tầng trời cao vời vợi, mênh mang. Bố tôi đang cày một chân ruộng dầm, đất lật loang loáng qua diệp cày sáng bạc. Con trâu hục hặc đi trong chang chang trời nắng, thi thoang đưa lưỡi liếm nhanh một mầm lúa sót. Bất ngờ, nó dừng lại, ngẩn ra nghe những thanh âm lạ. Cột dây diều vào cọc buộc trâu, tôi lội xuống ruộng, xin bố cho tập cày một sá. Trao tay cày cho tôi, bố dặn cẩn thận, rồi lên cồn, giở điếu cày, vê thuốc, châm đóm hút. Con trâu nghe tiếng nõ điếu reo, không đợi tôi giục “vắt, vắt”, gằm mặt xuống đi băng băng. Tay yếu, không đủ sức ấn seo cày, tôi để lưới cày lướt trên mặt ruộng. Cái cày đổ, kéo tôi nhào về phía trước. Nước dềnh lên, cuộn sóng. Bố tôi mới kịp “họ” lên một tiếng, con trâu đã thoat dừng lại, lưỡi cày như một cái lá đa sắc lẹm lệch sang một bên. Con vật phì phò thở, quay lại nhìn chủ, đôi tai vẫy vẫy. Bố đỡ tôi dậy, tháo ách trâu. Con trâu thơ thẩn gặm cỏ quanh cái cọc tôi đã buộc dây diều. Ngỡ sợi dây phát ra thanh âm réo rắt, con trâu dỏng tai, cọ cọ sừng vào đó. Dây đứt phựt, cái diều chấp chới theo chiều gió, tiếng sáo cuống quýt, ngắt quãng. Tôi chạy theo hướng diều rơi; vớt được diều ở một ao bèo, lên bờ đã thấy con trâu đang cúi đầu uống nước, cái đuôi chổi sể ngoe nguẩy vẫy...
Tháng Chạp rét cắt da cắt thịt. Khoac áo tơi lá móc, chúng tôi nằm phủ phục trên mình trâu. Da trâu mốc trắng, khen khét, hâm hấp nóng. Thương trâu, bố tôi lấy bao tải may cho nó một cái áo. Thế mà, mỗi khi gió bấc ào ào từng đợt xô tới, con trâu thoang khẽ rùng mình. Đêm, cửa chuồng được che kín bằng các phên rạ, trâu nằm trên ổ rơm chóp chép nhai trầu.
Tôi nhớ năm nào cũng vậy, ba ngày Tết, mỗi buổi sáng bố đều bảo tôi mang cho trâu một cái bánh chưng. Con trâu ngoạm dần từng miếng bánh trên tay người, vừa từ tốn nhai vừa nhìn tôi, ứa nước mắt.
Thấm thoat ngày nào mà đã mấy mùa hoa đào nở! Con trâu cần mẫn cùng bố tôi cày bừa hết đám ruộng này đến đám ruộng khác. Ngày mùa, nó nhong nhong kéo đá lăn trục lúa; ngày dưng, nó theo bố tôi kẽo kẹt đẩy che đạp mía thuê cho một lò đường ở làng bên cạnh. Dẫu chưa dư tiền kho thóc đụn như bà mong ước, bố tôi đã lấy làm đắc ý vì nhà được tiếng thơm là hộ khá giả trong thôn.
Cho đến một tháng Ba năm Hợi, trong lễ hội chọi trâu dâng cúng thần làng, con trâu nhà tôi đứng đầu sới. Lời khen chưa dứt, lại đã tháng Ba năm Tí. Lần này, nghe tiếng reo vỡ trời vỡ đất của dân làng mừng con trâu nhà thằng bạn tôi thắng cuộc, bố tôi bưng lấy mặt, tôi không kìm được nức nở, nhìn qua nước mắt cảnh con trâu thân yêu bị nhốt trong gióng. Nó sẽ được hóa kiếp vào đúng lúc ba hồi trống hội kết thúc, báo hiệu giờ tế lễ thiêng liêng bắt đầu.
Da trâu đem thuộc, bưng cho mỗi xóm trong làng một bộ trống. Cái trống to nhất, làng đem tặng cho trường cấp một của xã. Năm ấy tôi học xong lớp bốn. Ba hồi trống bế giảng đã vang lên. Lòng nao nao, tôi nghĩ con trâu thân thuộc vẫn còn đang bên cạnh, nhắc cho biết thời thơ ấu đã qua...
Lớn lên, tôi có nhiều dịp đi suốt chiều dài và chiều rộng của đất nước. Không ít lần, tôi đã từng ngẩn ngơ ngắm những đàn trâu Hàm Yên, Phong Châu, Thạch Thành, Anh Sơn, Đức Thọ, Bố Trạch, Bảo Lộc, Lâm Hà đi trong ngân nga tiếng sáo mục đồng bảng lảng lẫn vào nền chiều tím ngắt hoang hôn. Cũng có lúc, nhìn dáng núi non, tôi bồi hồi ngỡ đó là dáng đàn trâu làng tôi đang thung dung gặm cỏ trong mênh mông trời đất. Nghe tiếng sấm đầu mùa báo đất trời rẽ lối, tôi tưởng mặt trống da trâu nhà tôi còn rung lên đâu đó, đủ âm vang để làm náo nức tất cả các lễ hội mùa xuân...
THAO THỨC NỖI NIỀM QUÊ
Tiến >>
Nguồn: Tác giả VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 21 tháng 10 năm 2019