Đại Đường Đôn Hoàng Biến

trần tiệm

81 án tây du - tập 4
lucia nanami, losedow dịch

Lời dẫn 1

đại đường năm vũ đức thứ bảy,
chùa long tuyền, trịnh châu.

Năm đó Huyền Trang hai mươi lăm tuổi, ngài du ngoạn Kinh Sở, tranh biện Ngô Việt, lại theo Đại Vận Hà mới được đào mười lăm năm trước lên bắc Triệu Châu.

Hôm ấy Huyền Trang đi tới Trịnh Châu, đêm ngủ ở chùa Long Tuyền, lại có Tư binh tham quân trong châu cùng với một dịch sứ đi tới giao cho ngài một công văn của Sùng huyền thự thuộc Hồng lư tự, triệu ngài ngày mùng bảy tháng Chín về chùa Đại Hưng Thiện ở Trường An.

Huyền Trang không khỏi kinh ngạc. “Làm sao Sùng huyền thự biết đêm nay bần tăng đi tới chùa Long Tuyền?”

Tư binh tham quân cười khổ. “Vị dịch sứ này chính là dịch quan của Giá bộ ty thuộc Bộ Binh, bảy ngày trước đã tới Trịnh Châu, cần tìm tăng nhân Huyền Trang. Hắn chỉ biết pháp sư đang đi dọc theo Đại Vận Hà lên bắc, nhưng không biết hành tung. Sau khi tra lại quá sở của các nơi mới biết pháp sư còn chưa đến, phủ Thứ sử liền phái người tới đóng tại gần như tất cả mọi chùa chiền nằm ở hai bên bờ Đại Vận Hà để đợi pháp sư.”

Dịch sứ ấy lấy ra một tấm ngân bài giao cho Huyền Trang, ngân bài rộng một tấc rưỡi, dài năm tấc, bên trên có khắc một hàng chữ Lệ. “Sắc tẩu mã ngân bài”. Đây chính là lệnh sử dụng hệ thống trạm dịch của chính quyền, cấp bậc cao nhất, do Môn hạ tỉnh phát ra.

Dịch sứ sốt ruột nói, “Pháp sư, hôm nay đã là mùng bốn tháng Chín, Trịnh Châu cách Trường An chín trăm dặm, chúng ta phải ngày đi mười trạm dịch mới có thể đến Trường An trong vòng ba ngày. Mời pháp sư nghỉ ngơi một lát rồi chúng ta lập tức xuất phát!”

Huyền Trang cảm thấy khiếp sợ, mình chỉ là một tăng nhân vừa mới ra khỏi mái nhà tranh, không hề có quan hệ gì với triều đình, vì sao lại phải dùng đến cả một trận thể lớn như vậy để tìm mình? Chỉ là một lần triệu tập này thôi mà đã dính dáng đến Môn hạ tình, Bộ Binh, Hồng lư tự và phủ Thứ sử địa phương; đặc biệt một ngày đi mười trạm dịch cũng có nghĩa là một ngày đi ba trăm dặm, trong các cấp bậc của trạm dịch Đại Đường, như vậy là chỉ thấp hơn thư ân xá của Hoàng đế và vũ hịch của quân đội cần một ngày đi năm trăm dặm thôi.

Huyền Trang không hiểu ra sao, lại không dám chậm trễ, lập tức thu thập một chút rồi lên đường cùng với dịch sứ.

Ngựa của trạm dịch sớm đã chờ sẵn ở hậu viện của chùa, hai người xuất phát ngay trong đêm, chạy về phía Trường An.

Từ đất Trịnh, Biện tiến về Trường An, đường đi rất tiện lợi, ba mươi dặm một trạm dịch, đến mỗi trạm dịch hai người liền thay ngựa. Căn cứ theo sắc lệnh của triều đình, mỗi ngày phải qua mười trạm dịch tương đương với một ngày đi ba trăm dặm, trên đường không được vào trạm dịch nghỉ ngơi, hai người liền dứt khoát buộc chính mình vào trên lưng ngựa rồi cứ thế phi.

Giữa trưa ngày mùng bảy tháng Chín, Huyền Trang và dịch sứ đi tới trạm dịch Trường Lạc ở ngoài cổng Thông Hóa của thành Trường An, chỉ cách thành Trường An có mười lăm dặm. Huyền Trang đầy người bụi đất, toàn thân cứng đờ, da dẻ nứt nẻ, bên trong bắp đùi bị yên ngựa cọ xát tới loang lổ vết máu. Mấy tên dịch đinh đi đến cởi dây thừng, khiêng Huyền Trang từ trên ngựa xuống, đưa thẳng vào xe ngựa đã chuẩn bị sẵn sàng trong trạm dịch.

Người vừa lên xe, phu xe đã quất roi một cái, xe ngựa lộc cộc chạy đi.

Huyền Trang nằm trong xe, toàn thân đau nhức, may mà người phụ trách việc này suy nghĩ rất chu đáo, đã bố trí sẵn một y sư trên xe. Đầu tiên y sư cho Huyền Trang uống một bát canh sâm, tiếp đến xử lý những vết nứt nẻ và trầy trụa trên người ngài, sau đó xoa bóp để giảm bớt mệt mỏi cơ bắp. Tinh thần Huyền Trang cũng nhờ vậy mà buông lỏng xuống.

Từ cổng Diên Hưng vào Trường An, đi qua bốn phường liền đến chùa Đại Hưng Thiện ở phường Tĩnh Thiện. Xe ngựa dừng lại trước sơn môn chùa, y sư dìu Huyền Trang xuống xe. Huyền Trang nhìn sơn môn to lớn trước mặt, không khỏi cảm thấy ngẩn ngơ, giống như trong giấc mơ đêm qua ngài vẫn còn trên thuyền ở Đại Vận Hà, vừa mới bước hụt một cái mà đã đặt chân tới thành Trường An rồi.

Lúc này một đám tăng nhân vội vã đi ra nghênh đón, dẫn đầu lại là trụ trì của chùa Đại Giác, pháp sư Đạo Nhạc.

Huyền Trang vội vàng chắp tay thi lễ, Đạo Nhạc kéo người ngài. “Huyền Trang, thân thể còn chịu đựng được không?”

Huyền Trang cười nói, “Không sao.”

Đạo Nhạc thở phào nhẹ nhõm. “Vậy thì tốt. Trước đó Trí Diễm ở Dương Châu gửi thư nói ngươi rời khỏi Dương Châu ngày mùng ba tháng Tám, theo Đại Vận Hà đi đến Triệu Châu. Sau khi tính ngày tháng, Tiêu tướng công liền phái người chặn ngươi ở Trịnh Châu, không nghĩ tới lại chậm trễ lâu như vậy, thật là khổ cho ngươi. Mau đi theo ta nào, Tiêu tướng công đã chờ lâu rồi.”

Lúc này Huyền Trang mới hiểu ra, chẳng trách Hồng lư tự có thể nắm chắc được hành tung của mình đến như vậy. Trong quan chức Đại Đường, có thể xưng là tướng công chỉ có Tể tướng triều đình, mà trong số các Tể phụ chỉ có một người họ Tiêu, đó là Tống Quốc công, Trung thư lệnh Tiêu Vũ. Có điều vì sao Tiêu Vũ lại không tiếc vận dụng cơ quan của triều đình, phái người đi ngoài nghìn dặm để tìm một tăng nhân vô danh như mình? Sắc mặt của Huyền Trang hơi nghiêm nghị, xem ra nhất định là triều đình đã xảy ra chuyện đại sự rồi.

Chùa Đại Hưng Thiện là ngôi chùa to lớn nhất trong thành Trường An, chiếm diện tích nguyên một phường, Đạo Nhạc vừa dẫn Huyền Trang đi nhanh giữa đủ loại điện gác lầu các vừa kể lại ngọn nguồn cho Huyền Trang nghe. Tuy Huyền Trang mấy năm nay đã tu tập thiền định đến mức bất động như núi, nhưng cũng không khỏi nghe mà mặt biến sắc.

Thì ra tháng Sáu năm nay, Thái sử lệnh Phó Dịch lại ra tay! Năm Vũ Đức thứ tư, Phó Dịch dâng sớ Xin phế Phật pháp gây ra sóng to gió lớn, nhưng khi đó triều đình đang cùng Vương Thế Sung và Đậu Kiến Đức kịch chiến Trung Nguyên, thiên hạ chưa định, cuối cùng chẳng đi đến đâu cả.

Tháng Ba năm nay, Đại Đường tiêu diệt các phản vương cuối cùng trong nước là Cao Khai Đạo và Phụ Công Thạch, thống nhất bốn biển, trọng tâm triều chính chuyển hướng sang quốc trị dân sinh. Phó Dịch cho răng thời cơ đã đến, một lần nữa dâng sớ Xin trừ Thích giáo, thỉnh cầu Hoàng đế cấm Phật giáo. Trung thư lệnh Tiêu Vũ đối đầu gay gắt không khoan nhượng, hai người tranh luận quyết liệt. Hoàng đế Lý Uyên hạ lệnh cho bá quan bàn bạc, Tiêu Vũ và Phó Dịch mỗi người tổ chức nhân thủ của mình, dấy lên một cuộc tam giáo luận chiến cuốn sạch từ trong cho đến ngoài triều.

Vốn song phương đều có thắng bại, nhưng mùng tám tháng Tám, một người đàn ông trẻ tuổi nhận lời mời của Phó Dịch đi tới chùa Đại Hưng Thiện. Người này mở luận trường trong viện Quan Âm, mười ngày mười đêm dùng lí luận bác bỏ mười bảy vị cao tăng, nhất thời làm chấn động cả Trường An. Đám người Tiêu Vũ thua tan tác, không có người nào dám chiến tiếp. Kết quả là người đàn ông kia ở trong đại điện, tuyên bố phải khiêu chiến với tất cả các luận sư của Phật tông trong thiên hạ, ngồi ở vị trí lôi chủ đủ một tháng.

Đám người Tiêu Vũ không còn cách nào khác, đúng lúc này thì Đạo Nhạc nhận được thư của Trí Diễm. Trong thư Trí Diễm hết sức tôn sùng tăng nhân trẻ tuổi Huyền Trang, cho rằng đây chính là thiên lý mã của Phật môn, trình độ biện luận không ai bằng. Tiêu Vũ và Thủ phụ Bùi Tịch đều là tín đồ của Phật giáo, hai vị Đại Tể tướng lập tức liên thủ, lệnh Hồng lư tự gửi công văn, Giá bộ ty của Bộ Binh phái người đi triệu Huyền Trang vào kinh.

Huyền Trang hỏi. “Hôm nay đã mùng bảy tháng Chín, người đó thế nào rồi?”

Đạo Nhạc cười gượng. “Hắn vẫn đang ngồi ở trong đại điện viện Quan Âm.”

Huyền Trang hỏi. “Rốt cuộc người này có lai lịch thế nào?”

Đạo Nhạc vẻ mặt nghiêm nghị. “Người này chính là Trạng nguyên đầu tiên sau khi Đại Đường mở khoa thi, hơn nữa còn là song Trạng nguyên của cả khoa Tú tài và khoa Tiến sĩ, Lữ Thịnh. Hắn vốn học Nho, sau đó vào phái Lâu Quan tu Đạo; năm Vũ Đức thứ tư, Phó Dịch tiến cử hắn đến Thái y viện làm một quan nhỏ tòng cửu phẩm hạ. Năm Vũ Đức thứ sáu mở khoa thi, tổng cộng mở sáu khoa Tú tài, Minh kinh, Tiến sĩ, Minh pháp, Minh thư và Minh toán, trong đó khoa Tú tài là khoa cao nhất, phẩm bậc chính bát phẩm thượng. Gã Lữ Thịnh kia thi đỗ Trạng nguyên. Sau đó khoa Tiến sĩ thi, phẩm bậc là tòng cửu phẩm thượng, không nghĩ tới hắn lại bỏ phẩm bậc chính bát phẩm thượng, đi thi khoa Tiến sĩ, kết quả lại đoạt Trạng nguyên.”

Huyền Trang nghe vậy cũng ngẩn ra. “Người… người này vì sao làm như vậy?”

Đạo Nhạc nói, “Khi đó chẳng những Bộ Lễ khó xử mà ngay cả Bệ hạ cũng không biết nên sắp xếp phẩm bậc cho hắn thế nào, liền đích thân phái người tới hỏi hắn. Ngươi đoán xem gã Lữ Thịnh kia nói gì?”

Huyền Trang lắc đầu.

Đạo Nhạc cũng lộ vẻ khâm phục. “Lữ Thịnh nói, tiếc là Minh kinh và Tú tài mở thi cùng ngày.”

Huyền Trang lẩm bẩm nói, “Không ngờ người này lại muốn giành một loạt ba Trạng nguyên!”

Đạo Nhạc thở dài một hơi. “Chứ còn sao nữa! Một năm nay Lữ Thịnh danh chấn Trường An, có thi gia đặt cho hắn danh hiệu là ‘Đại Đường vô song sĩ, Vũ Đức đệ nhất nhân’! Người đó bây giờ đã ngồi ở trong đại điện kia trọn một tháng rồi. Huyền Trang, đánh bại hắn đi!”

Hai người không nói gì nữa, im lặng bước vào viện Quan Âm. Trong khuôn viên tùng bách chọc trời, có ba mươi mấy người đang chờ trước thềm đá, ngoài tăng nhân áo đen và quan chức triều đình đủ loại phẩm bậc ra thì còn có không ít đạo sĩ mão vàng.

Trung thư lệnh Tiêu Vũ vội vã đi tới nghênh đón, vừa tới nơi liền hỏi. “Ngươi chính là Huyền Trang? Có thể thắng hắn không?”

Huyền Trang yên lặng một lát, đáp. “Không dám nói thắng bại.”

Tiêu Vũ tức giận. “Trí Diễm nói ngươi là thiên lý mã của Phật môn, tranh luận chưa từng có đối thủ, bây giờ sao lại tỏ ra khiếp nhược như thế hả? Tên nhà quê kia đã ở trong đại điện ba mươi ngày rồi, hôm nay là ngày cuối cùng, nếu ngươi lại thua nữa, tam giáo luận chiến lần này chúng ta liền hoàn toàn thua mất!”

Huyền Trang không nói gì, chắp tay vái chào rồi ung dung bước lên bậc thềm đá xanh, tiến về phía điện Quan Âm.

Tiêu Vũ trợn mắt một lát, trên mặt lộ ra vẻ chờ mong. Mọi người trong viện cũng im lặng không một tiếng động, lặng lẽ nhìn theo.

Huyền Trang mở cánh cửa loang lổ của điện Quan Âm. Trong đại điện u ám, một người đàn ông trẻ tuổi tướng mạo anh tuấn đang quỳ ở trên bồ đoàn, nhắm mắt suy nghĩ. Huyền Trang không nói một lời, bước tới ngồi xếp bằng ở trên bồ đoàn đối diện với hắn.

Lữ Thịnh mở mắt ra, cười cười. “Đến rồi à?”

Huyền Trang hỏi. “Ngươi biết bần tăng sẽ đến?”

Lữ Thịnh quan sát ngài. “Mười ngày trước, lúc Tiêu công phái người đến Trịnh Châu liền đã biết. Pháp sư ba ngày chạy chín trăm dặm, như cầm phiền não chướng, như nghênh đầu đao phong. Chắc hẳn pháp sư cũng mệt mỏi rồi, có cần nghỉ ngơi một lát không?”

Huyền Trang nói, “Túi da thối tầm thường, buông bỏ không vấn vương. Trong lò lửa hừng hực, vẫn gió mát trăng thanh.”

Đồng tử Lữ Thịnh co lại. “Giỏi cho hòa thượng, không uổng công ta đợi mười ngày! Pháp sư, thời gian vừa rồi, hễ là người đi vào trong đại điện này, ta đều phải hỏi một vấn đề.”

Huyền Trang nói, “Mời hỏi.”

Lữ Thịnh nói, “Năm Đại Nghiệp thứ năm nhà Tùy, thiên hạ có bao nhiêu hộ? Có bao nhiêu người?”

Huyền Trang chần chừ một lát. “Khoảng chừng chín triệu hộ, bốn mươi sáu triệu người.”

Lữ Thịnh than thở. “Giỏi cho hòa thượng!”

Hắn nhắm mắt một lát, tiếp tục nói, “Nói chính xác là tám triệu chín trăm lẻ bảy nghìn năm trăm ba mươi sáu hộ, bốn mươi sáu triệu mười chín nghìn chín trăm năm mươi sáu người.”

Sắc mặt Huyền Trang không đổi. “Trí nhớ tốt.”

Lữ Thịnh cười lạnh lùng. “Ta hỏi thêm một câu nữa.”

Huyền Trang cười nói, “Hễ là người đi vào trong đại điện này, ngươi đều phải hỏi hai vấn đề sao?”

Lữ Thịnh yên lặng một lát, sau đấy cười gượng. “Quả nhiên pháp sư có tài hùng biện! Kì thực đó chỉ là vì không ai có thể trả lời được vấn đề thứ nhất.”

Huyền Trang mỉm cười. “Mời hỏi”

Lữ Thịnh hỏi. “Năm Vũ Đức thứ sáu, thiên hạ có bao nhiêu hộ, có bao nhiêu người?”

Huyền Trang im lặng, lắc đầu. “Đây là cơ mật của Bộ Dân, bần tăng không dám biết.”

Lữ Thịnh nói, “Không sao, đây không phải vấn đề thứ hai của ta. Đầu năm nay theo sổ sách của Bộ Dân, thiên hạ có hai triệu ba mươi bảy nghìn sáu trăm bảy mươi lăm hộ, chín triệu một trăm ba mươi ba nghìn tám trăm năm mươi sáu người. Pháp sư có biết vì sao lại như thế không?”

Huyền Trang kinh hãi hít một hơi. “Loạn lạc thời Tùy mạt vậy mà lại chết nhiều người đến như thế?”

Lữ Thịnh nói từng chữ từng câu. “Từ năm Đại Nghiệp thứ bảy đến năm Vũ Đức thứ sáu, mười hai năm loạn lạc, dân số giảm đi ba mươi sáu triệu người! Mười người mất tám! Pháp sư, chúng ta đều đi ra từ núi thây biển máu thời Tùy mạt. Quần hùng tranh vùng hoang dã, người chết phơi xác đầy hoang dã; quần hùng tranh thành quách, giết người phơi xác đầy thành quách. Bách tính đào đất làm bánh, đổi con mà ăn. Người trong thiên hạ này có mảy may kính sợ đối với thiên đạo, Phật Đà và cương thường hay không? Ta chờ đợi pháp sư mười ngày chính là vì muốn hỏi ngài một câu này thôi: Hôm nay chúng ta biện luận tam giáo Nho Đạo Phật ai trước ai sau, nhưng có một chút ý nghĩa nào không?”

Huyền Trang im lặng rất lâu. “Vậy theo Lữ Trạng nguyên, hôm nay chúng ta nên làm thế nào mới có ý nghĩa?”

Lữ Thịnh nhìn khuôn mặt mệt mỏi hốc hác của Huyền Trang. “Bộ túi da này của pháp sư chắc hẳn cũng đã mệt mỏi rồi, bây giờ cổ tự thanh tịnh, dương quang ấm áp, không bằng ngài và ta ngủ say một giấc?”

Huyền Trang suy nghĩ một lát. “Bần tăng hỏi ngươi một vấn đề.”

Lữ Thịnh gật đầu. “Mời hỏi.”

Huyền Trang hỏi. “Vì sao ngươi phải bỏ khoa Tú tài chính bát phẩm thượng, đi thi khoa Tiến sĩ tòng cửu phẩm thượng?”

Lữ Thịnh chăm chú nhìn ngài. “Nghe nói năm ấy pháp sư từ Thành Đô lén lút ra ngoài đất Xuyên?”

Huyền Trang cười khổ. “Không sai.”

Lữ Thịnh hỏi. “Lén lút vượt quan ải, dựa theo pháp lệnh của triều đình là tội bị đi đày, vì sao pháp sư phải mạo hiểm như vậy?”

Huyền Trang nói, “Chỉ vì mong giải được đại đạo trong lòng thôi.”

Lữ Thịnh hỏi. “Nghe nói danh vọng của pháp sư đã vang khắp đất Kinh Sở và Ngô Việt, vì sao lại phải lên bắc Triệu Châu?”

Huyền Trang nói, “Pháp sư Đạo Thâm ở Triệu Châu tinh thông Thành thực luận, bần tăng muốn đi cầu giải đại đạo trong lòng.”

Lữ Thịnh cười. “Tại hạ cũng là như thế! Pháp sư, có một thứ mà Phật gia xưng là Phật, đạo sĩ xưng là Đạo, để vương xưng là Pháp, người đọc sách xưng là Nho, bá tánh chúng sinh xưng là ước mơ. Nó có thể khiến người với người có lòng kính sợ, nước với nước vĩnh viễn giữ hòa bình, lê dân bách tính an cư lạc nghiệp, trên đời không còn có loạn lạc, nạn đói và đau khổ. Thứ này chạm không thấy, sờ không được, miệng không thể nói, bút không thể viết. Đại Đường mở khoa thi, không hỏi dòng dõi và gia thể, phá vỡ chế độ cửu phẩm từ thời Ngụy Tấn tới nay, khiến hàn vi sĩ tử cũng có con đường tiến thân. Có người nói khoa cử chính là thứ này, ta lại không tin, thể là liền tự mình đi thử, đáng tiếc không thể trúng cả sáu khoa, vô cùng tiếc nuối!”

Huyền Trang lặng lẽ chăm chú nhìn hắn, hai người đều không nói gì nữa.

Huyền Trang ngáp một cái, nghiêng người nằm xuống trên bồ đoàn. “Đã như vậy, chúng ta liền ngủ say một giấc đi.”

Lữ Thịnh cười to, cũng nghiêng người nằm xuống.

Cả điện tĩnh mịch, ánh nắng chiều cùng bụi bay bao phủ trên mặt hai người, làm người ta càng thêm buồn ngủ. Thời gian này Huyền Trang vô cùng mệt mỏi, rất nhanh tinh thần đã trở nên mơ hồ.

Trong lúc mơ màng, bên tai lại vang lên giọng nói của Lữ Thịnh. “Nghe nói pháp sư là người Lạc Dương; trong nhà có còn thân nhân?”

Huyền Trang thấp giọng. “Cha mẹ mất sớm, đại tỷ sớm gả, nhị huynh xuất gia, chỉ có đại huynh ở nhà làm nông. Lữ Trạng nguyên, còn ngươi?”

Giọng nói của Lữ Thịnh trầm thấp. “Ta là người Bác Châu, Sơn Đông, phụ thân là một lão binh, thời Tiền Tùy từng theo Hàn Cầm Hổ chinh chiến, sau đó lại theo Tiết Thể Hùng chinh phạt Cao Câu Ly, kết cục là cả thân thương bệnh. Ta còn có ba huynh trưởng, đều tòng quân từ những năm Đại Nghiệp, đại huynh chết trận ở Cao Câu Ly, nhị huynh chết trận ở quận Nhạn Môn, tam huynh chết trận ở Dương Châu.”

Huyền Trang thở dài. “Người đi dần xa cách, người tới dần thêm thân. Ra cổng thành xa ngóng, những gò với mộ phần. Mười hai năm loạn thể, ngươi và ta đều là kẻ phiêu linh.”

Lữ Thịnh nói, “Pháp sư nói thật không tồi, phụ thân ta một đời chinh chiến, lại rơi vào cảnh tan cửa nát nhà, ba con trai mất mạng; sau đó phụ thân ta trở lại nhà cũ ở Bác Châu, đúng là thỏ chui qua lỗ chó, trĩ bay trên xà nhà. Xa xa nhìn nhà cũ, đầy mộ giữa rừng tùng. Từ ấy ta liền sống giữa nhà cửa và mồ mả ở đó, đọc sách, lớn lên.”

Ánh nắng chiều chiếu vào, hai người cứ thể trò chuyện, giọng nói càng ngày càng thấp, dường như từ chân trời truyền đến, là lời kể của gió mây, là tiếng nỉ non của sách sử. Cuối cùng Huyền Trang thiếp đi.

Cũng không biết đã ngủ bao lâu, lúc tiếng chuông sớm trong chùa vang lên, Huyền Trang mới khoan thai tỉnh lại. Lữ Thịnh đang mỉm cười nhìn ngài. Huyền Trang kinh ngạc nhìn sắc trời, không ngờ đã là giờ Mão của ngày hôm sau, ánh sáng hắt vào nơi cửa sổ Phật điện, ngài vậy mà đã ngủ trọn một đêm.

Lữ Thịnh cười. “Pháp sư ngủ giấc này, ta tâm phục khẩu phục! Trận luận chiến này là ta thua rồi!”

Huyền Trang không hiểu. “Vì sao lại thế?”

Lữ Thịnh thản nhiên đáp. “Ta đã thắng hai mươi chín ngày, hoàn toàn không có vướng bận gì; pháp sư thì khác, ngài là do hai vị Đại Tể tướng triệu đến, trên vai gánh vác vinh nhục của Phật môn. Ngài dám ngủ một giấc này, tự nhiên chính là ta thua rồi.”

Huyền Trang yên lặng một lát. “Ngươi và bần tăng cùng thảo luận, chỉ vì một trận luận chiến thắng thua thôi hay sao?”

Vẻ mặt Lữ Thịnh nghiêm túc, cúi mình thi lễ thật sâu. “Đó là ngài và ta dùng cả một đời này để đánh cuộc. Nó đã chạm không thấy, sờ không được, miệng không thể nói, bút không thể viết, vậy thì hãy dốc hết cả đời chúng ta để tìm kiếm nó đi!”

Huyền Trang mỉm cười gật đầu, hai người nhìn nhau một cái, cùng đẩy ra cánh cửa của điện Quan Âm. Trước mắt họ là điện các trùng điệp, là Trường An huy hoàng, dường như đang có một luồng khí mạnh mẽ thức tỉnh từ ba mươi sáu triệu thi hài kia.

Lời dẫn 1

Tiến >>

Nhà xuất bản Dân Trí 01/2019
Nguồn: yeukindlevietnam.com
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 23 tháng 1 năm 2024