Người Cùng Quê Tập I

phan tứ

- 1 -

Sau mấy hôm vắng máy bay Mỹ ném bom, người và xe qua lại trên các phố Qui Nhơn đã nhộn nhịp hơn, nhất là trong vài tiếng đồng hồ trước khi mặt trời lặn, quãng thời gian được xem như yên ổn nhất trong ngày. Đó cũng là lúc bãi sở. Từ khi Bộ tư lệnh Nhật Bản buộc tất cả các xứ Đông Dương phải vặn đồng hồ chạy sớm theo giờ Tô-ki-ô, dân thầy dân thợ hối hả đến sở từ tờ mờ đất cũng được về nhà vào lúc chưa lên đèn.

Mở đầu đợt tan tầm là mấy chiếc ô-tô du lịch cũ kỹ của các quan Tây chạy bằng thứ cồn màu hồng thay thế xăng, máy có yếu đi nhưng còn sạch sẽ chán so với xe khách chạy với bình khí than to tướng sau đít. Lái xe cho chủ Tây vào đầu năm 1945 này là công việc vất vả, nguy hiểm nữa. Quân Nhật ngày càng gây sự nhiều hơn trên đường phố. Xe nhà binh Nhật thường cố ý húc mũi bay quệt đuôi vào xe Tây, sau đó lính Nhật còn ùa xuống túm cổ bất cứ ai da trắng mũi lõ, nện luôn một trận cho dân da vàng bản xứ trông thấy mà sướng bụng. Tài xế phải biết giữ thể diện cho quan bằng cách lái xe chạy nghênh ngang và bóp còi inh ỏi khi phố xá đang vắng lặng, nhưng vừa nhác thấy bóng xe Nhật mầu vàng đất sét tít đằng xa là phải nín còi ngay. Cho xe dạt vào sát lề đường, xuống số, sẵn sàng chồm hẳn lên vỉa hè để tránh nạn mình bị vỡ ngực, xe bị phá, chủ ăn đòn.

Sau đó một lát, từng chuỗi phu xe kéo gò lưng chạy lép nhép, miệng ếp liên hồi, tay rung cái lục lạc treo trên càng gỗ, kéo chiếc xe nhà màu đen choáng lộn hay chiếc xe thuê sơn đỏ nham nhở, đưa các quan An Nam về nhà - quan bang tá, quan đốc, quan tham, quan phán. Lũ lượt theo sau là các thầy thông thầy ký thầy thừa thầy giáo với vạt áo dài đằng sau kéo lên giắt gọn vào lưng quần, với hai ống quần rộng kẹp túm cả hai, chậm rãi đạp chiếc xe Xanh-tê-chiên nặng nề và cọc cạch, thỉnh thoảng cúi rạp đầu xuống tận tay lái để chào với theo một vị quan trên vừa vượt qua trên xe kéo.

Hết xe. Cách quãng nhà khá lâu mới tới lượt các ông cai - cai thầu, cai kíp, cai chấm công, cả số loong toong chạy giấy và bồi bếp già cũng được tôn làm ông cai cho tiện - tuy cuốc bộ trên vỉa hè nhưng vẫn giữ vẻ chững chạc với bộ ria mép rậm, cái mũ thuộc địa màu cháo lòng sâu như chuông chùa, đôi giày vải đánh phấn trắng đã tòi đầu ngón chân út ra ngoài, đôi khi thêm cái dù đen bạc màu kẹp dưới nách. Đi chung đường với họ nhưng vẫn tách riêng là những tốp thợ tỏa ra từ các nhà máy đèn, máy nước, xưởng sửa chữa ô-tô ga xe lửa, bến tàu. Họ mặc giống nhau với bộ áo quần vải xanh mua theo phiếu, dính đầy dầu mỡ và đã vá vai vá mông, kéo đôi guốc mộc đóng thêm cao su dưới đế. Họ là những người thường đi từng cụm và nói chuyện thì thào nhiều nhất, chỉ im tiếng khi qua chỗ có cảnh sát hay khi một bác cai nào ghé lại nhắc việc ngày mai.

Các trường công và tư vừa xong giờ thể dục chiều, với một loạt tiếng thét rập ràng: “Thanh niên... Pháp Nam! Hợp quần để... phụng sự!”, hô bằng tiếng Pháp hay Việt tùy theo lớp lớn hay nhỏ và tùy sở thích của thầy giáo. Học trò xô đẩy nhau ùa ra đường trong bộ đồng phục áo dài đen quần trắng, chỉ khác nhau ở tiếng guốc gỗ của lớp lớn và tiếng châu trần bình bịch của lớp nhỏ.

Về cuối cùng, đông nhất và kéo dài rải rác đến tối là số phu phen được bữa nào xào bữa nấy, suốt ngày chực hờ ở các nơi có thể cần người, lăn vào giành nhau từng tí việc kiếm xu lẻ. Họ mặc quần đùi, đi chân đất, nửa thân trên cởi trần hoặc khoác thứ “áo ba lỗ”, kiểu áo làm bằng cái bao vải thô đựng hàng khoét ba lỗ đủ xỏ đầu và hai tay. Tất cả đều cầm theo một tấm bao tải, thứ đồ dùng vạn năng của dân cu-li: đựng gói cơm khi ra đi, che nắng ngồi chờ cai gọi giao việc, mang mớ khoai nắm gạo mỗi chiều, trải nằm qua một đêm ngủ vạ vật trên vỉa hè. Chiến tranh Thái Bình Dương càng kéo dài, lớp người mang bao tải càng dồn ứ thêm mãi trong thành phố cảng chật hẹp và càng nói giọng nhiều tỉnh ngoài Bắc.

Một người phu như thế đang thất thểu đi từ bến tàu dưới mũi Tấn lên, dọc phố Gia Long. Anh ta đội cái nón lá rách chỏm để lòi một túm tóc rễ tre trên đỉnh, đeo vắt qua vai cái bao tải hơi cộm một góc. Nửa dưới khuôn mặt anh vằn vèo những dòng mồ hôi chảy qua lớp bụi than, chìm vào mớ râu đen lưa thưa bọc quanh miệng. Nhìn chân tay anh gầy đen, nước da xanh xám và dáng đi lử khử lừ khừ, người ta dễ đoán tay cu-li vác than này đang ốm đói sắp lả, hoặc nghiện nặng mà không còn xu để nuốt xái xảm. Không ai trông thấy đôi lông mày nét mác hơi cau lại, cặp mắt xếch đang liếc nhìn quanh dưới vành nón, rất sắc và tỉnh. Sức sống trong người anh như dồn cả vào cặp mắt xoi mói ấy.

Sau hai tháng luồn lách, cả Chanh vượt ngục Kom Tum đã về đến Qui Nhơn. Chen lẫn vào dòng phu từ bến cảng về, anh tìm đến xóm Ga, nơi có nhiều bạn bè và cơ sở cũ.

Chanh chỉ nghe nói chung chung là Qui Nhơn đã thay đổi nhiều trong những năm anh bị tù, nhưng thay đổi ra sao thì khó biết được. Ban nãy anh định ghé vào nhà một chị cảm tình ở gần mũi Tấn, phải bỏ đi ngay: cả xóm nhà lá ấy trúng bom Mỹ cháy sạch. Anh men theo con đường hẻm rất vắng gần nhà kho của hãng Đê-cua Ca-bô, chẳng ngờ lại đâm vào khu trại lính Nhật, bị tên lính gác dí lưỡi lê vào bụng quát cho một tràng, đuổi ra, còn may nó không bắt giữ hay soát giấy. Bí kế, anh phải bật lùi ra đường Gia Long đông đúc. Đi thêm vài trăm thước nữa thì gặp một chuỗi người nối đuôi rồng rắn trên vỉa hè như đợi phát chẩn.

Ở nơi trước đây là tiệm nhảy sang của Tây, anh vấp phải một đại lý bán gạo Nhà nước, có mấy tên cảnh sát dạo qua lại.

Những người xếp hàng bị buộc phải ngồi xuống vỉa hè, đặt bao và thùng trước mặt, cứ mươi phút lại một lần nhích tới chừng nửa thước, cấm đứng dậy. Do đấy, dân phố không nói là mua gạo bông nữa, mà đổi gọi là gạo lết, gạo mài quần.

Bọn cảnh sát xem kỹ từng mặt để làm tiền. Chúng vung vẩy cây ma-trắc cao-su trắng, mới trông giống hệt cây dùi cui gỗ sơn trắng dạo xưa, nhưng đánh đau hơn và không để lại dấu vết. Ai mặc áo vá, đội nón cời đúng kiểu dân thợ nghèo, được nhắc giữ phép nước bằng một phát ma-trắc bỗng dưng nện xuống sọ dừa, khúc cao-su nảy cong lên thì đầu người cũng giật bắn lên theo. Số nào có mẽ ngoài lành lặn như đầy tớ nhà công chức đi mua gạo cho chủ thì chúng cầm sổ lên xem, thò tay kia xuống vỗ vai hay bẹo má người ngồi tuỳ đấy là trai hay gái, hai ngón tay kẹp luôn tờ giấy bạc một đồng từ dưới giúi lên, cụp ngón cho vào lòng bàn tay và nắm lại rất thoắng nhét nhanh vào túi trước khi trả sổ. Thời may gặp một bà hay cô nào diện sang đứng ngoài nhìn vào, ngại dây bẩn với hạng người hạ lưu kia, lập tức có một tên cảnh sát đến lễ phép chào, rỉ tai xin mươi đồng hút thuốc, dẫn thẳng vào quầy cân gạo, gõ bộp dùi cui ra hiệu phải bán ngay tức khắc. Nếu được món bổng khá, hẳn có thể lôi giúp bao gạo ra vỉa hè và quát gọi xe kéo cho;

Trong nhóm “bu-lít coi tiệm” này, một tên lách ra dạo quanh, thỉnh thoảng liếc xem mấy đứa kia nhét túi được bao nhiên. Có lẽ hắn được giao gác đường, chỉ lảng vảng chỗ bán gạo để chia phần chấm mút. Cái còi nhôm chuyên thổi phạt vạ treo lủng lẳng trước ngực hắn đập lách cách vào đầu Chúa Giê-su trên cây thập tự gắn tượng chịu nạn.

Cả Chanh không kịp lùi. Anh phải lê chân đi tới. Tên kia bước lại đón đầu, đủng đỉnh. Mặt anh lạnh tê, hai đầu gối chợt cứng lại. Anh liếc nhanh sang bên phải, dưới vành nón, tìm một đường hẻm rẽ ngang. Không có.

- Ê, thằng kia... thằng cu - li!

Chanh cố ghìm mình, thờ ơ ngước lên như chợt tỉnh. Cây ma-trắc đung đưa trước mặt anh.

- Coi giấy!

- Dạ... Thưa thầy...

- Giấy thuế thân đâu?

Anh buông cái bao tải sọc xanh xuống đất. Lóng ngóng luồn tay vào trong cái áo ba lỗ, tìm thứ giấy mà anh không hề có. Nói sao đây? Bỏ quên ở nhà... Rớt mất dưới bến tàu... Nhét tay nó đồng rưỡi bạc cuối cùng, nó chịu không...

- Tổ cha mày, gì lâu quá ể vậy?

Vừa lúc ấy, mặt đất chợt nẩy ra mạnh như xe lửa dồn toa. Một loạt tiếng nổ dội tới long óc. Luồng gió bão xô cả hai nhào xuống vỉa hè. Tiếng rống dữ dội bùng lên trên đầu.

Máy bay Mỹ!

Mới ra Tết được mươi hôm, bầu trời Qui Nhơn từ sáng đến trưa thường phủ một lớp mây xốp đùng đục. Về chiều mới vén mây một góc đằng Tây cho ánh nắng soi nghiêng xuống phố cảng. Mấy chiếc tàu và xà-lan gỉ nát thả neo tênh hênh giữa cửa sông không đánh lừa được tụi Mỹ nữa, chúng cố đánh vào những chiếc tàu Nhật đậu nép vào chân núi Phương Mai, sơn màu loang lổ. Bốn chiếc máy bay Mỹ từ biển Đông vòng sâu vào đất liền, ẩn mình trong mặt trời chiều chói mắt, từ phía núi đâm xuôi theo nắng xiên khoai lao xuống bến cảng, đạp bom ngay tức khắc, ngoặt gấp qua sát thành phố, lại ngoặt trái ra biển khơi.

Dưới chùm sét đánh gần, dân phố ùa ra như ong bị đập tổ. Người xếp hàng lăng bừa xuống cống rãnh. Người đi đường chạy vọt vào các đường hẻm có đào sẵn những con hào “phòng thủ thụ động” chỉ sâu đến thắt lưng và nồng nặc mùi cứt đái. Người mua bán trong các tiệm chỉ kịp nằm soài ra đất.

Tốp máy bay hai động cơ biến mất, còn rót lại sau đuôi tiếng cưa máy rạch sắt trên gáy người, cùng tiếng gió hú rợn sắc như gại vào xương sống làm rởn óc. Cao xạ Nhật đến đây mới nổ vuốt đuôi, mảnh đạn cao xạ tiếp theo mảnh bom lại rơi xuống mái nhà và lưng người nằm sấp.

Cả Chanh ngóc cổ lên trong tiếng cao xạ ùng oàng, thấy ngay những mảng chấp chới của mái tôn và phên tre ở khu bến tàu đang còn bồng bềnh trên cao, chao qua đảo lại, rơi rất chậm vào những cây nấm khói đến từ dưới bốc lên. Anh vỗ mạnh vào tai, dập tắt tiếng ù váng óc, chợt nghe tiếng còi báo động của thành phố bắt đầu réo khi chẳng ai cần đến nó, từ ọ ọ ọ lên ò ò ò, lên tới ó ó ó, xói vào màng nhĩ.

Tên cảnh sát trước mặt anh bị một chậu cây cảnh trên gác rơi gần trúng đầu, thêm một mớ ngói sụt mái đổ túa xuống lưng. Đất ướt văng tóe lên áo quần hắn, phủ đen lốm đốm. Hắn chống tay nhỏm dậy, đưa tay vuốt một lượt trên gáy, mở to cặp mắt thất thần nhìn bàn tay nhem nhuốc, rên mấy tiếng hừ hừ trong mũi, rồi bỗng co cẳng chạy ào sang bên kia đường, biến mất. Cây dùi cui của hắn còn bị đè dưới đống đất trộn mảnh gốm vỡ của chậu cảnh, với chòm lá lốm đốm đỏ vàng phủ bên trên, cả Chanh nhặt vội tấm bao tải rơi bên cạnh, đâm đầu chạy dọc vỉa hè, kêu hổn hển như người hóa rồ.

- Chết hết, bom dữ quá... trốn đi, trốn...

Anh lao vào một đường hẹp khác, chạy thẳng xuống bờ sông Thị Nại, luồn qua xóm nhà ven sông, rẽ vài ba lần, chnyển sang đi tất tưởi. Ngớt bom rồi, chạy mãi cũng đáng ngờ.

Nửa giờ sau, anh dừng dưới một cây bàng bên bò sông vắng, gần nhánh đường sắt từ ga xuống bến. Không có ai đuổi theo. Ngồi nép vào gốc cây sần sùi, anh đưa tay quệt trán và mặt bị đất bám đầy.

Phải đợi nhá nhem tối mới đi tiếp được. Coi bộ chưa cần trốn xa. Thằng cảnh sát kia chừng như chỉ chực soát đám phu phen từ cảng đi lên, đoạt lấy hàng ăn cắp hay buôn lậu, mà cái bao tải của anh lại cộm lên với hơn một ki-lô khoai khô. Khi rình bắt “tù quốc sự”, chúng không đứng đường vẫy gọi hú họa kiểu ấy.

Phía bến tàu, những cột khói bom dựng đứng đã tan loãng, lúc này lại hiện thêm một đám khói rất to, đen đặc, thong thả cuộn xoáy tròn như những dăm bào khổng lồ, bay chéo vào phố theo gió biển thổi nhẹ, hòa vào khói bom làm thành một lớp mây mù màu xám pha nâu, mỗi lúc một dày. Đúng là tàu xăng dầu của Nhật bị cháy. Thằng Tây ranh ma thật. Tàu Nhật đi biển ban đêm, gần sáng mới tắt hết đèn ghé vào trốn dưới chân bán đảo Phương Mai, hối hả bốc dỡ. Bọn Tây đã lén báo ngay cho máy bay Mỹ ngoài biển khơi đánh úp rất đúng giờ, đúng chỗ, chẳng cần lượn đảo gì cả. Cứ cái điệu này, thằng Nhật tức hộc máu mồm ắt phải lật nhào thằng Tây thôi. Các anh trên đoán trúng tim đen cả hai thằng rồi...

Còi xe lửa hú ba tiếng ngắn phía bến tàu. Cả Chanh nhận ra ngay tiếng còi khản rè của chiếc đầu máy Cu-cu số 21 chuyên chạy con thoi chở hàng giữa ga và cảng năm xưa do Bảy Tộ lái. Để xem bây giờ ai cầm cương nó... Anh ngồi lùi sâu vào cái hốc giữa hai rễ cây bàng, úp bao tải trùm đầu xuống tận mắt, trông giống những ông lão ăn mày mỗi chiều về ngủ co quắp dưới các gốc cây ven sông.

Chiếc đầu máy hơi nước cỡ nhỏ phì phò đến gần. Đúng nó rồi. Chanh căng mắt xem mặt người lái, trống ngực đập nhanh dần. Anh nhớ tới quãng đường cong này Bảy Tộ thường chạy chậm, ló đầu phía bên trái dòm chừng trẻ con hay bò lạc ngáng đường, tay giật còi từng tiếng rời... Anh suýt reo lên. Hay tuyệt, vẫn y nguyên Bảy Tộ với vệt râu ngắn bằng khúc bàn chải răng in một vệt đen dưới mũi và ngọ nguậy liên miên, trông rất hề. Sau lưng Tộ, một tên lính Nhật đứng dạng chân, một tay níu vào vách sắt, tay kia chống cây súng trường lắp lưỡi lê hình gươm dài thượt.

Bảy Tộ thua Chanh vài tuổi, phục anh dám cãi lại xếp Tây, dám cự mấy thằng mật thám vào lảng vảng trong đề-pô xe lửa. Sau khi anh bị bắt, Tộ liền xin vào thăm anh trong nhà lao Qui Nhơn, biếu anh ba tờ giấy một đồng mới tinh - hồi ấy bằng gần một tháng tiền cơm trọ. Thấy anh ngần ngừ không nhận.

Tộ nói khẽ và nhanh: “Em mới trúng cơm đen mà!”, tức là cậu ta chuyển được một món thuốc phiện lậu trót lọt, lái xe lửa làm việc này rất dễ. Tộ lùi vài bước, không hiểu nghĩ sao lại chắp tay, cúi đầu vái dài Chanh rất kính cẩn, bị thằng lính gác quất luôn một hèo mây vào lưng và đuổi ra ngay.

Chuỗi toa đã qua hết, trong tiếng lục cục lách cách quen tai còn thêm tiếng va chạm lồng cồng của những thùng phuy rỗng trên toa: chiếc tàu chở dầu Nhật chưa kịp trút hàng đã bốc cháy, xe lửa đi không lại về không. Bọn lính Nhật đứng ngồi rải rác mỗi toa vài đứa, mặt lì lì, áo quần màu vàng đất sét vấy than từng mảng ở mặt trước. Một đứa buộc băng trắng ngang trán như để tang, ngồi úp mặt trên hai đầu gối, hai tay ôm cái đầu cạo trọc, lặng như khối đá.

Toa cuối cùng vừa khuất sau đường vòng thì điện đường cũng bật, những chao đèn phòng thủ sơn đen đủ để lọt xuống đất một quầng sáng vàng bủng, rất hẹp, cách quãng chừng trăm thước mới chừa một ngọn. Các khung cửa sổ đều tối om, dường như mọi nhà trong thành phố đều nhắm mắt nín thở. Chỉ còn một vầng sáng lớn phía bến tàu, ánh đỏ bầm từ dưới hắt lên làm hiện rõ những đám khói cuộn xoáy chậm và đều như bị quấy bằng thìa: chiếc tàu dầu còn cháy.

Cả Chanh lại vắt cái bao tải qua vai, lấy lại dáng đi thất thểu, men theo con đường hẻm không đèn, dò dẫm đi vào xóm nhà lá ven sông.

- 1 -

Tiến >>

Đánh máy: hoi_Ls
Nguồn: hoi_Ls - NXB HỘI NHÀ VĂN, 1995
VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 9 tháng 8 năm 2019