Những Người Bạn Lông Vũ
dịch giả: phạm xuân thảo
phạm xuân thảo dịch từ 4 and 20 blackbirds của clark howard
Đứng lặng lẽ bên chiếc giường rộng mênh mông, Curson nhìn xuống thi thề ông lão Haffer. Vậy là mọi sự rốt cuộc đã kết thúc, gã nghĩ. Sau ba mươi năm dài, rốt cuộc tất cả đã kết thúc.
Ba mươi năm đằng đẵng, có thể như thế được sao? Cả nửa đời người đã tiêu phi tại thái ấp Haffer này sao? Nửa đời người làm thân nô lệ cho lão già tai ác, cộc cằn mà giờ đây, ở cái tuổi tám mươi mốt bất kham, đang nằm nhăn nhúm, co quắp và chết trước mắt gã.
Curson khẽ quay đầu nhìn vào tấm gương lớn treo phía trên bàn giấy của lão già. Gã, James Curson, chỉ mới là đứa bé trai mười lăm tuổi khi từ miền bắc Ái Nhĩ Lan đến đây hầu hạ lão già độc tài và ti tiện này. Có phải thật đã có thời gã từng là cậu nhỏ James Curson mắt to, má hồng và đầy hăm hở đó không? Soi mặt trong gương bây giờ, gã đâu còn thấy đôi mắt rõ to, đâu còn nỗi hăm hở thiết tha, đâu còn chút dư âm nào của tuổi trẻ nữa. Gã chỉ còn thấy một bản mặt phong sương, đỏ ké, với đôi mi mắt ti hí nhìn vô hồn, lạnh lẽo.
Ông đối với tôi thật tệ mạt quá, lão già ạ, gã thầm nghĩ, vừa ngó xuống xác chết. Đúng vậy, thật là tệ mạt. Gương mặt tôi giờ đây cũng tàn ác như ông, tâm tri tôi cũng hắc ám và ủ ê như ông nữa. Tôi khác xa mẫu người mà ông nội tôi kỳ vọng khi, trên giường hấp hối, ông cụ đã trối trăn bảo tôi phải đến tìm ông. Ông nội tôi chỉ nhớ đến ông dưới hình ảnh vị thiếu tá Haffer oai phong lẫm liệt mà cụ đã từng phục vụ dưới quyền, trong cuộc chiến tranh trên lục địa. May phước mà ông cụ chẳng bao giờ gặp lại ông - con người đã thay đổi hẳn của ông - sau chiến tranh, sau khi ông lấy vợ, sau khi ông sa đà vào thói nghiện rượu whisky. Và cũng may phước lả ỏng cụ không còn sống để gặp lại tôi nữa. Nhìn tôi mà xem: bốn mươi sáu tuổi, không vợ con, không tiền bạc, không cả miếng đất cắm dùi.
Đôi mắt Curson ứa lệ. Tại sao ta phải lưu lại đây chứ? Há ta không phải là một con người tự do muốn đi đâu tùy ý sao? Chà, đúng ta là như vậy mà. Nhưng trong quá khứ thì đâu có phải luôn luôn là như thế! Có lúc ta chỉ là Jamie, một thẳng bé con. Rồi khi ta lớn lên, nhờ ý chí sắt thép của lão già, ta vẫn chỉ là một đứa bé con về mặt tinh thần. Thái ấp Haffer biến thành nhà tù của ta. Lão chủ thái ấp là kẻ canh tù.
Curson quệt nước mắt rồi bước trở lại cánh cửa mở vào mảnh sân trong mà mấy phút trước đó gã mới bước vào để đến căn phòng này. Gã đang bước qua sân để đi cho lũ chim hét ăn thì chợt lão già gọi giật giọng:
“Cur” - cái giọng khản đặc đờm dài đó gào lên.
Cur - cái tên duy nhất lão già luôn gọi gã, kể từ ngày gã còn là thằng bé Jamie lần đầu tiên đến thái ấp Haffer này.
“Thì ra mảy là cháu nội của lão Vincent Moriarty đó hả?”, vị điền chủ trạc ngũ tuần, có bộ râu ngạnh trê, tráng kiện, hỏi, đứng cao lững thững bên trên gã. “Chà, lại là một thằng nhãi con ăn mặc nhếch nhác như tổ đỉa nữa chứ! Tên mày là Curson hả? Được rồi, bởi vì mày trông cứ y như một con chó lai, tao sẽ gọi mày là thằng Cur. Này, Cur, tít bên kia ngôi nhà này mày sẽ thấy các tàu ngựa. Mày sẽ bắt đầu làm đứa coi sóc tàu ngựa cho tao. Và mày sẽ ngủ với lũ ngựa cho xứng với thân phận mày. Thôi bây giờ hãy cút đi, Cur!”.
Vậy là từ ngày ấy đã bắt đầu cái tên Cur, và cũng từ đó gã đã chết tên. Thậm chí cho đến lúc lâm chung, thậm chí khi lão đã bị nghẹn thờ vì máu đã đặc lại trong động mạch xơ cứng ở lồng ngực, vẫn chỉ là cái tên Cur. Gã lắc đầu buồn bã và suy nghĩ: “Trong những giây phút cuối của cuộc đời lão, khi lão trông thấy ta đi ngang qua sân, biết ta là con người duy nhất lão còn trông thấy lần chót, ta cứ ngỡ lão sẽ chào ta một lần duy nhất bằng cái tên Jamie. Hay là James. Hay cùng lắm là Curson. Nhưng vẫn cộc lốc là Cur mà thôi!”.
Ba mươi mốt năm làm kiếp một con chó lai, gã cay đắng nghĩ, lúc đứng ở cửa sân ngắm mặt trởí mọc phản chiếu trên những lớp sương giá ở sân cỏ phía đông - khu đất mênh mông này đổ dốc thoai thoải xuống những cánh rừng vây tứ vi. Những cánh rừng này nhắc Curson nhớ đến lũ chim hét đang chờ bữa ăn điểm tâm. Ỷ nghĩ này mang lại nụ cười ranh mãnh cho gã giữa lúc tâm hồn gã chứa chan đắng cay. Ít ra đó cũng là một điều gã đã qua mặt được lão chủ. Bao nhiêu năm nay, gã đá từng lẻn vào phòng trữ thực phẩm lấy cắp các thứ hạt lúa mì và hắc mạch để đem cho lũ chim hét ăn. Vào chính lúc này đây, gã đang thủ sẵn trong túi một gói giấy chứa đầy ba vốc hạt. Gã gọi đó là sự xám hối thực hiện hộ cho một lão già gian ác suốt đời lấy chuyện bắn chim làm trò tiêu khiển.
Thở dài sườn sượt, Curson quay lại giường để nhìn Ngài Malcolm Haffer quá cố một lần cuối. Chà, mấy tiếng đó sao nghe khoải cái lỗ nhĩ quá. Sẽ chẳng bao giờ còn phải nghe cái tên Cur nữa - vì chẳng còn ai khác trong cái thái ấp này dám gọi gã xách mé như vậy. Những đứa gia nhân khác sợ gã một nước. Với lại, họ cũng chẳng dính dấp gì đến gã. Tất cả bọn họ đều làm việc trong nhà, còn gã là kẻ trông coi sân bãi và hiếm bao giờ bước vào tòa dinh cơ bề thế này, trừ những lúc lấy cắp thức ăn cho chim ở phòng trữ thực phẩm. Cho nên gã cũng chẳng liên quan gì với bọn tôi tớ khác. Một vài đứa gia nhân đã hầu hạ trong nhà này hàng chục năm mà gã còn chẳng biết tên nữa là. Quả thật, bây giờ ngẫm lại, gã chẳng có bạn bè nào khác, ở đây hay tại bất cứ đâu. Ít nhất thì cũng chẳng có đứa bạn nào trong cái giống người. Gã chỉ có đám bạn là hai mươi bốn con chim hét.
Đó cũng là lỗi của ông nữa đó, con quỷ già kia ạ, gã nghĩ. Vừa nhìn xuống xác chết. Thoắt nhiên, một cơn thịnh nộ buốt cóng xoắn lấy gã trong thoáng chốc, và suýt nữa gã đã tát vào mặt người chết. Nhưng đôi mắt lão Haffer vẫn mở trừng trừng ngước nhìn gã, đôi mắt đó chặn bàn tay gã lại nửa vời. Gã lay lắt cảm nhận một tia rơi rớt của nỗi kinh sợ thâm căn cố đế đối với lão Haffer, nỗi sợ đã mọc rễ trong người gã biết bao lâu nay. Nỗi sợ này chỉ thoáng qua nhanh, và mặc dù nó đã đè bẹp được sự can đảm gã cần có để có thể đánh vào cái thây ma kia, nhưng nó vẫn cho phép Curson nở được một nụ cười căm hận và thốt lên được một tiếng chửi thề.
Lúc gã quay lưng đi, gã chợt nhận ra chiếc nhẫn. Mặt nhẫn bằng vàng, hình chữ nhật, có chạm huy hiệu trung đoàn xưa kia của Haffer. Ngay tâm nhẫn, biểu trưng cho quả địa cầu mà trên đó mặt trời của đế quốc Anh không bao giờ lặn, là một viên hồng ngọc lớn đỏ như màu máu.
“Đẹp chứ hả thằng nhỏ?” - Hatter đã hỏi gã vào một ngày cách đây 20 năm. “Đây là mót viên ngọc ba mươi ca-ra toàn bích, mỗi ca-ra trị giá đúng một ngàn bảng Anh. Nó lại không một chút tì vết nữa, đáng giá gấp đôi một viên kim cương cùng trọng lượng. Tao đã tước lấy nó từ dải khăn trùm đầu của một tiểu vương ngay sau khi tao đâm lút kiếm vảo cổ họng hắn. Đó là vào cái thời bọn người thờ voi đang gây khó khăn cho Nữ hoàng ở xứ Ấn Độ. Ôi chao! Cuộc chiến đó mới thật vinh quang làm sao! Nhưng mà ngữ mày làm sao biết được những chuyện đó chứ, có đúng không hả, thằng nhóc? Chỉ có người Anh mới tôn sùng vinh quang, còn mày là dân Ái Nhĩ Lan, phải không ranh con? Ừ phải, mày là bọn Ái Nhĩ Lan, đúng rồi. Thôi cút xuống chuồng ngựa đi, Cur!”
Mắt Curson nheo lại khi gã nhìn săm soi chiếc nhẫn. Ba mươi ca-ra. Toàn bích! Không chút tì vết! Một ngàn bảng Anh mỗi ca-ra! Ba mươi ngàn bàng Anh!
Một thời gian ngắn sau lần Haffer kể cho gã nghe lai lịch viên ngọc nọ, Curson cùng chủ lên Luân Đôn lo một vài việc vặt. Trong lúc gã chờ ngoài phòng đợi của một cửa hiệu kim hoàn đông khách, thì Haffer trò chuyện với người chủ hiệu trong phòng riêng. Cánh cửa mở hé nên Curson nghe hết được đầu đuôi câu chuyện.
“Tôi muốn đặt ông làm một chiếc nhẫn giả giống hệt như chiếc nhẫn này. - Haffer ngỏ lời. - Để đeo mỗi khi tôi cưỡi ngựa đi săn. Tôi sợ làm trầy viên ngọc khi đang làm công việc gì đó.”
“Hẳn vậy rồi, thưa ngài.” Nhà kim hoàn đáp. “Tôi có thể làm một chiếc nhẫn nạm vàng có nhận một hột đá corumdum tổng hợp với giá xấp xỉ 100 bảng Anh.”
“Đồng ý.” Haffer tán thành.
Nhiều lần trong những năm sau đó, Curson đã trông thấy đôi nhẫn đó nằm cạnh nhau trong một chiếc hộp da cất ở ngăn kéo trên cùng bàn giấy của lão chủ. Có một lần, lúc mang vào trả đôi ủng đi ngựa vừa mới đánh xi bóng lộn cho chủ, gã đã trông thấy ông ta chuẩn bị đi cưỡi ngựa bằng cách tháo chiếc nhẫn ông ta đang đeo và đặt nó vào phía bên phải hộp da. Ông nhấc chiếc nhẫn giả ở phía bên trái hộp rổi mang vào cũng ngón tay đó. Curson nhớ lại câu chuyện gã đã nghe lỏm được về viên hồng ngọc thật có thể bị sứt mẻ khi đeo đi cưỡi ngựa. Và gã suy luận rằng chiếc nhẫn giả để bên trái hộp, còn chiếc nhẫn thật ở bên phải. Vì những lý do nào đó, gã chẳng bao giờ quên được sự kiện ấy.
Theo chỗ gã biết, ngoải bản thân gã ra, không một ai biết chút gì về chiếc nhẫn giả này. Ồ, dĩ nhiên là còn người chủ hiệu kim hoàn nữa chứ, nhưng giờ đây rất có thể ông ta đã chết rồi. Chắc chắn không kẻ nào trong đám gia nhân biết được. Chúng chẳng bao giờ dám léo hánh tớí bàn giấy của ngài Malcolm cả. Có thể một vài người bạn của lão chăng? Khó lòng có chuyện đó. Lão già ôn dịch này chẳng bao giờ công nhận là lão đang đeo nhẫn giả rẻ tiền, dù chỉ vì lý do “cẩn tắc vô ưu” cũng vậy.
Vậy thì xét kỹ mọi khả năng, Curson quyết đoán, sẽ chẳng còn ai khác biết về chiếc nhẫn thứ hai. Cũng chưa một ai khác biết được lão chủ đã chết, hoặc giả gã - Curson, lúc đó đang có mặt tại phòng lão Haffer cả. Lúc đó, trời vẫn còn chưa sáng rõ, lũ tôi tớ đang tất bật trong nhà bếp ở mãi đằng sau. Không ai trông thấy gã lấy thức ăn cho chim và đi dọc theo khu đất phía đông trên lối ra bìa rừng.
Đúng! Gã nghĩ nhanh, đầy hăm hở. Đúng vậy! Để trả giá cho ba mươi mốt năm làm thân trâu ngựa! Và cái giá này cũng đâu phải là tồi: gần một ca-ra hồng ngọc thượng hạng đền bù cho mọi năm hôi hám, khốn khổ khốn nạn!
Bỗng chốc, nguồn can đảm chan chứa tràn dâng qua suốt các mạch máu gã, gã chụp lấy bàn tay phải xác chết rồi xẳng xớm lôi mạnh chiếc nhẫn ra khỏi ngón tay đã lạnh cóng. Gã áp sát chiếc nhẫn lên mặt, săm soi nhìn kỹ vẻ đẹp mát rượi của nó. Màu nhẫn đỏ như máu, với những chiếc lá hình kim bằng đồng đỏ bé xíu tết thảnh một ngôi sao tí hon trên đỉnh nhẫn. Đẹp thật, Curson nghĩ.
Thế rồi rồi ý tưởng thoạt đến trong trí gã: biết đâu chiếc nhẫn này không phải là chiếc nhẫn bằng ngọc thật? Đổ ngu, gã tự rủa mình, dám mày đang là một thằng ngốc đứng đây chiêm ngưỡng một miếng thủy tinh cũng không chừng!
Gã bước nhanh lại bàn giấy của lão Haffer và lấy chiếc hộp da ra. Mở nắp hộp lên, gả mỉm cười trông thấy chiếc nhẫn kia ở bên mé trái hộp, nơi vẫn để chiếc nhẫn giả. Dĩ nhiên, dĩ nhiên rồi, gã tự trách mình, đây chính là một bằng chứng nữa cho thấy suy luận ban đầu của gã là chính xác. Không có lý do gì để lão già này không đeo chiếc nhẫn thật khi đi ngủ cả, lão đâu có thể làm hư hại gì nó trong lúc ngủ cơ chứ?
Curson cười bối rối ngó chiếc nhẫn gã đang cầm, rồi cẩn thận cất nó vào túi. Gã lấy chiếc nhẵn giả ra khỏi hộp, rồi cất chiếc hộp vảo bàn giấy. Trở lại giường gã cố trấn áp nỗi sợ hãi đang chạy suốt xương sống gã khi nghĩ đến việc gã mới làm vừa rồi. Thật nhanh, gã ấn chiếc nhẫn giả vào ngón tay lão Haffer.
Rồi đó, gã nghĩ, xát hai lòng bàn tay vào vạt áo để lau sạch sự va chạm với xác chết vừa rồi. Rồi đó, giờ đây chúng ta coi như huề, thưa ngài Malcolm Haffer. Sau bao nhiêu năm chết bầm này, rốt cuộc chúng ta coi như xong.
Thọc tay vào túi, gã nắm chặt lấy vật báu giữa mấy ngón tay run lẩy bẩy, rồi hối hả bước ra khỏi cửa sân.
Curson đi áp sát chiều dài ngôi nhà rồi cắt một đường chéo góc băng qua sân cỏ, ra đến ngoại vi lãnh địa. Gã chỉ cảm thấy hoàn toàn yên tâm khi đã vào sâu trong cánh rừng ven biên sân cỏ của thái ấp. Đến lúc đó, tinh thần gã bắt đầu phấn chấn hẳn, nỗi run rẩy của mấy ngón tay đã giảm xuống thành một cử chỉ ve vuốt nhẹ nhàng cái tài sản mà chúng đang nắm giữ. Nó sẽ đưa ta về miền bắc Ái Nhĩ Lan, gã hân hoan nghĩ - dĩ nhiên là sau khi ta đã viếng thăm một chủ hiệu kim hoàn kín tiếng ở thủ đô Luân Đôn. Chà, sau đó là trở về xứ sở thân yêu, và trong suốt quãng đời còn lại, gã sẽ được người ta gọi là điền chủ Curson. Gã cười lớn, âm thanh của tiếng cưởi thật lạc điệu giữa cảnh tịch mịch muôn thuở của khu rừng rậm đầy rêu phong mà gã đã đâm ra quen thuộc hằng bao nhiêu năm nay. Chính tại nơi đây, gã đã từng trốn lánh cảnh đời khắc nghiệt của thái ấp Haffer, chính tại nơi đây, gã đã tìm thấy những giây phút bình an về mặt thể chất của mặc cảm thiếu thốn cái dũng khí của người đàn ông, của thân phận hoàn toàn vô dụng đối với mọi người, trừ ra mỗi một lão chủ Haffer đáng tởm. Và cũng chính tại đây, lần đầu tiên, gã đâm ra quen biết lũ chim hét.
Lúc đầu chỉ có mỗi một con - một con chim béo tốt, mỏ hồng, đôi mắt tròn xoe soi mói, lông đen nhánh như màu trời đêm không trăng sao. Curson đi vào rừng, ngồi xuống một khúc cây đã đốn ngã, ăn mấy chiếc bánh bích quy và thịt bò nguội gã thuổng được ở nhà bếp. Con chim sà xuống bên cạnh, đứng nhìn gã. Curson không để ý tới nó, cứ tiếp tục ăn. Lúc này con chim đã nhẩy lại gần hơn. Curson bẻ mấy mẩu bánh bích quy ném về phía nó nhưng trước khi mấy mẩu bánh chạm đất, con chim đã cất cánh bay vút đi. Curson lầu bầu mấy tiếng trong miệng, rồi lại tiếp tục ăn.
Ăn xong, gã đứng lên, trông thấy con chim đã bay vụt đi, gã bước đến chỗ nó đứng khi nãy, rải mấy vụn bánh ăn thừa xuống đất. Lúc quay về khu đất thái ấp, gã ngoái lại và trông thấy - đúng như gã đã dự đoán - con chim kia quay lại để ăn mấy vụn bánh.
Nhiều lần sau đó, cứ mỗi khi gã vào rừng để dùng bữa, Curson lại được chính con chim hét đó đến viếng. Trong một giai đoạn, nó vẫn còn bay đi mỗi khi gã giơ tay ném mấy mẩu bánh. Mãi rồi, Curson hiểu ra, thôi không phác những động tác đột ngột nữa thì con chim chỉ khẽ lùi lại, rồi cuối cùng nó chẳng nhúc nhích nữa, chẳng còn tỏ dấu hiệu sợ sệt ân nhân của nó nữa.
Thế rồi một ngày nọ, Curson đang trong phòng chứa thực phẩm của tòa dinh cơ thì gã chợt nẩy ý nghĩ lấy thóc ra nuôi chim. Gã vốc một nắm lúa mạch bỏ vào túi và khi đã vào rừng rồi, gã dọn quang một khoảnh đất, rồi rải thóc thành một đụn nhỏ. Gã mới đi được nửa đường đến chỗ khúc cây quen thuộc thì con chim nọ đã có mặt chén bằng thích. Curson chưa ăn xong bữa thì thêm hai con chim nữa, cũng lông đen, mỏ hồng hệt như con đầu tiên, đến tham gia.
Ngày hôm sau, thêm vài con nữa. Sau đó, lại thêm mấy con khác. Chẳng mấy chốc, đã có mười hai, mười lăm, rồi hai mươi con. Giờ đây, theo chỗ Curson đếm được - vì chúng cứ nhảy nhót liến thoắng đâu có đứng yên - thì có đến hai mươi bốn con tất cả.
Giờ đây, giữa chim và người không còn e dè nhau nữa. Những con chim hoang dã này kết thành đàn quanh đôi chân gã hệt như những con bồ câu đã thuần dưỡng vậy. Còn Curson nuôi chúng ăn hằng ngày, luôn thận trọng cử động thật nương nhẹ, tự nhiên.
Lúc này đây, gã băng rừng đến khúc cây. Gã thôi cười, ngại lũ chim đâm hoảng trước âm thanh lạ lùng đó. Chúng chưa bao giờ nghe gã cười lớn, và cũng chưa bao giờ có ai khác trong cái thái ấp Haffer này từng nghe gã cười trong suốt bao nhiêu năm, kể từ ngày gã đặt chân đến thái ấp, gã nghĩ. Nhưng chuyện đó bây giờ đã là quá khứ rồi, gã tự nhủ trong niềm hoan hỉ. Khi ta đã là điền chủ Curson rồi thì những ngày đen tối không còn nữa. Chỉ còn toàn là rượu whisky Ái Nhĩ Lan, đàn bà Ái Nhĩ Lan và các ca khúc Ái Nhĩ Lan - nhờ cái món trang sức nhỏ bé này đây.
Gã móc chiến nhẫn ra khỏi túi tiền rồi lấy vạt áo lau thật bóng viên ngọc. Sáng chói, đẹp thật, gã nghĩ. Sáng chói như ba mươi ngàn bảng Anh. Sáng chói như một dinh cơ bề thế ở miền bắc Ái Nhĩ Lan. Sáng chói như một vì sao cô đơn mà một thằng bé tên Jamie đã có thời ao ước. Sáng chói, sáng chói thật!
Đến khúc cây, Curson ngồi xuống. Gã nâng chiếc nhẫn xoay khắp các hướng ánh sáng, nhìn nó bắt lấy ánh dương quang rồi rải nguồn sáng đó bên trong những đường cong huyền ảo. Chà, đúng là điều kỳ diệu cùa một vật không lớn hơn đầu ngón tay cái của gã, vậy mà giá trị của nó đủ để biến một con chó cún thành một ông vua.
Curson cảm nhận có vật gì đó di động cạnh gã và gã quay ngoắt lại. Trên mặt đất cách gã vài tấc là ba con chim hét đang nhìn gã. Gã cười toe toét rồi đặt chiếc nhẫn xuống khúc cây, kế chỗ gã ngồi. Gã rút trong túi ra cái gói giấy chứa đủ các thứ hạt kiều mạch và lúa mì đến lưng nửa túi. Trút một ít ra lòng bàn tay, gã đưa bàn tay ra. Thế là lũ chim nhảy đến tiu tít ăn. Mấy mỏ chim tạo những cảm giác sắc cạnh, buồn buồn như kiến cắn chạy suốt qua cườm tay gã.
“Chà, đói dữ hở các chú?” Curson thì thầm nhỏ nhẹ. Mấy con khác hạ cánh gần đó, nhảy đến thoăn thoắt bằng các động tác nẩy bật, liến thoắng của chúng. Curson thọc tay kia vào túi giấy, rồi rải thêm thức ăn xuống đất cho lũ chim mới đến. Những con nữa lại lượn đến và chẳng mấy chốc, cả một bầy chim vây kín quanh chân gã. Con này nhảy lên con kia để mổ lấy, mổ để các hạt thức ăn. Curson rải một vốc nữa lên đám chim rồi theo bản năng, gã lại sa đà vào trò chơi đếm chim xưa nay. '
... “mười ba - mười bốn - mưởi lăm - không, con đó ta đếm rồi mà - xem nào, mười lăm - mười sáu - bốn con nữa là hai mươi - hai mươi mốt - hai con nữa là hai mươi ba - hừm!”
Gã biết chắc chắn rằng dạo gần đây có tất cả hai mươi bốn con, sao bây giờ lại thiếu một con. Gã nhìn quanh tìm con chim vắng mặt, sau đó, gã liếc sang phải, sang trái, rồi nhìn xuống khúc cây gã đang ngồi - và con chim vắng mặt kia rồi - nó đang nhảy tanh tách ra phía đầu khúc cây. Đen tuyền và mỏ hồng. Xinh xắn biết bao nhiêu. Với chiếc nhẫn hồng ngọc ngậm nơi mỏ.
Curson mờ mắt nhìn, mồm gã há hốc.Trong thoáng chốc, đầu gối gã run lên. Thế rồi, thuần túy theo bản năng và thiếu hẳn sự suy nghĩ chín chắn, gã làm một cử chỉ vô cùng tai hại. Gã đứng bật dậy, lao người như tên điên về phía con chim đang thối lui kia, rồi ngã sấp mặt xuống đất vừa lúc tên trộm bé choắt, đen tuyền kia cùng với hai mươi ba đồng loại của nó hoảng hốt tung cánh bay lên.
“Ồ không!” Curson nói yếu ớt.
Gã lăn người lại rồi quỳ gối lên. Thận trọng nào, gã tự nhắc mình. Cứ bình tĩnh nào. Chúng sẽ quay lại mà. Cứ cử động thật thong thả là ổn.Trong túi còn khối thức ăn mà, mi có thể dụ chúng trở lại mà. Curson chậm rãi đứng thẳng người dậy, đưa mắt nhìn trời, xong lại nhìn quanh. Trên một cành cây cách đầu gã khoảng bảy mét, gã bỗng thấy lũ chim đậu thành một hàng dài, nhìn gã chăm chăm. Gã mỉm cười, cứ như thể lũ chim sẽ hiểu được ý nghĩa của nét biểu lộ tình cảm ấy, rồi gã thò tay vào túi thực phẩm. Thong thả, gã bắt đầu rải hạt thật hào phóng quanh rẻo đất. Suốt lúc đó, mắt gã không ngừng nhìn từ con chim này đến con chim khác, đếm đếm, tìm tìm.
Thế rồi gã trông thấy chiếc nhẫn. Chính con chim đứng cuối hàng đang ngậm chiếc nhẫn đó. Vàng ánh và sáng chói - và chiếu lòa một sắc đỏ như màu máu. Con chim nhỏ nhoi đó đang ngậm chặt nó nơi mỏ. Và tất cả hai mươi bốn con chim đó đều lặng lẽ nhìn gã trừng trừng, gần như báo trước một điềm gở.
“Đây này, các bạn chim”, Curson khẽ van vỉ, vừa thẫn thờ vãi hạt ra chung quanh. “Các bạn chim quý hóa - đây này - thức ăn ngon cho các bạn đây này”
Con chim đầu tiên thoắt vỗ cánh bay đi. Con thứ hai theo đuôi. Rồi con thứ ba. Curson nhìn chúng bay lên các ngọn cây, bay mãi lên trời cao...
“Không, ồ, không!” Curson van xin.
Con thứ tư, thứ năm, thứ sáu - vút bay mất dạng.
Bảy, tám, chín, mười - từng con một, gần như theo một đội hình chính xác, chúng lìa cành bay tìm vùng trời tự do bao la. Từng con một - cho đến khi chỉ còn lại lác đác vài con.
“Không!” Curson phẫn nộ hét tướng. “Đồ lũ chim ranh khốn kiếp, đồ khốn...!”
Gã nhặt một khúc củi to dưới đất rồi phóng lên cành cây nơi con chim áp chót vừa tung cánh bay Khúc củi sượt ngang con chim cuối cùng, chỉ cách nó có một thước. Con chim nọ không buồn nhúc nhích, không vẫy cánh nao núng. Nó cứ bình chân như vại yên vị nơi nó vẫn đậu từ trước. Một tia hi vọng bừng lên trong tim Curson.
“Đừng, đừng. Ta xin lỗi chú chim nhỏ. Làm ơn đi, đây này, chú chim nhỏ ạ!’
Con chim cuối cùng trừng mắt nhìn Curson trong khoảnh khắc. Thế rồi, với chiếc nhẫn vẫn ngậm trên mỏ, nó yểu điệu bay đi, nhập đàn cùng những con khác.
Curson đứng lặng câm, mặt xám ngoét như tro, đăm đăm nhìn lũ chim bay khoan thai cho đến khi chúng chỉ còn là những chấm nhỏ xíu trên trời xanh. Gã cứ nhìn trừng trừng lên trời như thế một lúc rõ lâu, sau khi đã tuyệt mù bóng chim...
Ít hôm sau đó, tất cả lũ gia nhân đều tề tựu đông đủ tại phòng làm việc rộng thênh thang của dinh cơ Haffer để nghe tuyên đọc di chúc của chủ nhân.
“... - Về phần James Curson, nguời đầy tớ và kẻ canh giữ đất đai trung tín của tôi”, vị luật sự đọc, “để đền bù cho sự trung thành tuyệt đối của anh ta đối với tôi qua suốt bao nhiêu năm, dủ đã từng phải cam chịu tính khí luôn gắt gỏng cùng thói nhục mạ tai ác của tôi, tôi di tặng cho anh ta vật sở hữu thân yêu duy nhất của tôi dưới hình thức một chiếc nhẫn biểu hiện cho đời quân nhân có gắn một viên hồng ngọc trên nền bằng vàng”.
Curson tiến đến bên bàn giấy, nơi có vị luật sư và nhân vật được ủy thác đang ngồi, để nhận chứng thư sở hữu cùng quyền chấp hữu chiếc hộp da có đựng chiếc nhẫn thứ hai của lão chủ.
Nghi thức tuyên đọc chúc thư kết thúc, Curson trở về chỗ ở lo thu xếp hành trang. Có một chuyến xe buýt sớm đi Luân Đôn và gã nhất định phải đáp cho kịp chuyến xe đó. Gã chỉ còn mong là chiếc nhẫn giả gã vừa thừa hưởng đó vẫn còn đáng giá một trăm bảng Anh.
Hết
Đánh máy :hoi_ls
Nguồn: Hoi_ls - Tạp chí Kiến thức Ngày nay
VNthuquan.net
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 6 tháng 4 năm 2022