Cũng như truyện Vô Gia-đình (Sans Famille) và truyện Trong Gia-đình (En Famille), truyện Về Với Gia-đình (Romain Kalbris) của HECTOR MALOT là một tiểu-thuyết giáo-dục.
Vai chính trong truyện cũng là một em bé như hai truyện trên, có khác là trong hai truyện kia tả lòng nhẫn-nại và chí phấn-đấu của hai đứa trẻ mà truyện Về với Gia-đình (1) nói lòng hăng-hái của một em bé yêu nghề đi biển.
Em bé đó tên là Do-Manh (Romain Kalbris) mới có 10 tuổi, nhà nghèo, cha mất trong một vụ cứu tàu. Mẹ cho con ở với một người chủ. Ông nầy biển-lận, ác-nghiệt quá, em phải bỏ đi định ra hải-cảng tìm việc làm. Giữa đường đói khát phải ở giúp việc cho một gánh xiếc. Việc làm nặng-nề quá sức của một đứa trẻ, em lại ra đi. Một người bạn cũ trong gánh xiếc nói trên lập mưu đưa em xuống một tàu biển. Tàu ra khơi ngộ nạn, thủy-thủ thả xuồng chạy. Một mình em chiến-đấu với phong-ba đã lái được con tàu vào bãi thoát chết.
Sau em nhớ mẹ trở về quê, hưởng được phần gia-tài của ông bác để lại và trở nên môt ông chủ tàu. Trong lúc em lưu-lạc khốn cùng, em còn cứu được một cô bạn nhỏ thoát tay chủ gánh xiếc và đành chịu đói rách không thuận theo phường ăn-cắp để sinh-sống.
Truyện có nhiều tình-tiết ly-kỳ và những cử-chỉ của em đã tỏ ra một trẻ mẫn-tiệp, can-đảm, có nghị-lực và nhân-nghĩa, đáng làm gương cho các thiếu-nhi để biết tiến-thủ và tự-lập trong đời.
Saigon, ngày 2 tháng 5 năm I960
Dịch-giả
Chú thích:
(1) Về với Gia-đình đã đăng trong Tuần-san Thiếu-nhi Tuổi Xanh (1959-1960).
*
Chương I
QUÊ-HƯƠNG TÔI
TRÔNG địa-vị tôi ngày nay, các bạn chớ vội kết-luận rằng tôi là người tốt số. Tiền nhân tôi – nếu lời truyền không xuyên tạc – vốn kế-tiếp làm nghề đánh cá. Cha tôi là con út một gia-đình 11 người con. Ông tôi đã vất-vả lắm mới nuôi được đàn con, vì với cái nghề nói trên, đồng tiền kiếm được không xứng với công làm: cái khó-nhọc, cái nguy-hiểm vẫn cầm chắc, mà chút tiền kiếm được lại do sự rủi may.
Thuở 18 tuổi, cha tôi phải đăng vào Hải-quân, đó là một loại trưng-binh mà tất cả những người đi biển phải phục-vụ trong một thời hạn là 32 năm – từ 18 đến 50. Cha tôi lúc đi không biết đọc, biết viết, lúc về được đóng Cai-Nhất, một vinh-dự hiếm có đối với những người chưa từng bước chân vào trường học của Chính-Phủ bao giờ.
Thiên-Cảng, quê-hương của tôi ở gần những cù-lao thuộc Anh. Nhà-nước phải đặt ở đấy một chiếc tàu binh nhỏ để ngăn-ngừa dân đảo Giéc-Xay khỏi vào hải-phận nước Pháp đánh cá, đồng thời cũng để bắt buộc những người đi biển tôn trọng luật-lệ về ngư-nghiệp. Chính cha tôi được bổ về tiếp tục làm việc trên chiếc tàu ấy.
Đó là một ân-huệ, vì dù có quen lấy con tàu làm Tổ-Quốc, nhân-tâm ai cũng thích ở gần sinh-quán mình.
Cha tôi về đuợc 15 tháng thì tôi ra đời. Hôm ấy là ngày thứ sáu, tháng ba, trăng tròn. Các bà-con đều đoán rằng số tôi phải phiêu-lưu, phải đi biển và sẽ phải thăng-trầm lắm nếu ảnh-hưởng của mặt trăng không cản nổi ảnh-hưởng của thứ sáu, ngày hung. Đời phiêu-lưu, tôi đã trải – tôi muốn kể lại cho quý-độc-giả nghe đây – những cuộc lữ-hành trên biển, tôi đã làm, còn sự tranh-dành ảnh-hưởng của mặt trăng và ngày thứ sáu rất là gay-go, xin quý-độc-giả nghe hết chuyện tôi kể, rồi sẽ kết-luận là ảnh-hưởng nào thắng ảnh-hưởng nào.
Tiên đoán những cuộc mạo-hiểm và cuộc lữ-hành tức là công nhận rằng tôi là đứa con chính tông vì họ Can nhà tôi, cha truyền con nối, đều là những tay đi biển. Nếu tục-truyền không sai thì khi xảy ra tác-chiến ở thành Từ-Loa, tổ-tiên tôi đã lập-nghiệp ở đây rồi.
Không phải chúng tôi tự nhận cái gốc-tích ấy. Chính các nhà bác-học đã cho rằng ở Thiên-Cảng có một trăm gia-đình – gia-đình chuyên nghề đi biển – do dòng-dõi dân Phê-ni-Xi phiêu-dạt đến. Thật vây, mắt chúng tôi đen, da màu nâu sẫm, mũi nhỏ, khác hẳn người Noóc-Măng hay người Bơ-Tông. Không những thế, thuyền của chúng tôi phỏng đúng kiểu tàu chu-du của Tướng-Quân Uy-Lịch mà Thi-hào Ố-Me đã tả trong một bản anh-hùng ca bất hủ. Thuyền chỉ có một cột buồm và cánh buồm hình vuông, kiểu này rất thông-thường ở biển E-giê (giữa Thổ và Hy-Lạp), nhưng lại độc nhất ở biển Măng.
Về phần chúng tôi; ngược về đời các cụ, chúng tôi không nhớ mấy, gia-dĩ đời cụ nào cũng na-ná như cụ nào nên dễ lẫn. Khi người ta kể tiểu-sử một cụ nào thì câu chuyện không hề thay đổi: Thiếu-thời, người đi biển rồi chính ở trên biển hay ở hảỉ-ngoại hay ở những xứ có những tên khó nhớ mà người đã chết trong nạn đắm tàu, trong trận-mạc hay trong tàu giam của người Anh – những bia trong nghĩa-địa mang tên một người con gái hay một người đàn bà góa thì nhiều, còn những bia ghi tên một người con trai hay một người đàn ông thì ít lắm vì những người này không chết ở quê-hương.
Tuy-nhiên, cũng như các họ khác, chúng tôi cũng có những người anh-kiệt: ông bác tôi đã là bạn thân với ông Súy-Cư, một thuyền-trưởng trứ-danh và bác ruột tôi là Phồ-Hy đã là công- thần của Quốc-Vương Ấn-Độ, một nhà vua có rất nhiều voi. Từ ngày tôi đến tuổi hiểu-biết mỗi ngày tôi cũng được nghe đến mười lần người ta kể lại chuyên ông. Ông đã chỉ huy một toán quân chiến đấu với quân Anh. Ông có một cánh tay bằng bạc. Những thớt voi, chiếc cánh tay bạc, đều là chuyện thực, không phải hoang-đường.
Dòng họ Can bẩm-sinh thích mạo-hiểm, nên sau khi lập gia-đình được vài năm, cha tôi lại tái-đăng hải-dịch. Cha tôi được làm phó thuyền-trưởng một trong những thuyền buồm, hàng năm cứ đến mùa xuân là vượt sang đảo Ích-Lan đánh cá. Cha tôi được làm việc cho Chính-Phủ nên cha tôi rất thích.
Tôi không nhớ rõ ngày cha tôi ra đi. Tôi chỉ biết dạo đó ngày thì gió bão, mà đêm thì mưa to.
Đã bao nhiẻu lần, đêm đến, mẹ tôi thắp một ngọn nến, bắt tôi ngồi quay mặt vào để cầu kinh. Đối vói chúng tôi, bão ở Thiên-Cảng là bão ở khắp nơi, và gió lay chuyển nhà chúng tôi là đồng thời lay chuyển cả chiếc tàu của cha tôi. Nhiều khi gió thổi mạnh quá, mẹ tôi phải đứng dậy để buộc cánh cửa sổ, vì nhà tôi là thứ nhà của những kẻ nghèo. Mặc dầu ở vào chỗ che kín: một bên là dốc, một bên là cái mui tàu đắm còn trơ ba cột buồm, nhà tôi không sao cưỡng lại được những trận cuồng-phong của những tiết xuân-phân, hoặc thu-phân.
Một đêm tháng mưòi, tôi đang ngủ, mẹ tôi đánh thức tôi dậy: bão táp ghê gớm, gió gào, nhà chuyển răng-rắc. Nến tắt, không sao thắp đèn được.
Lúc nào ngớt gió, người ta nghe thấy tiếng sóng công phá bãi sỏi và tiếng nước đập vào hốc đá đùng dùng. Mặc dầu gió thét sóng gầm ; tôi vừa quỳ vừa ngủ lúc nào không biết: chợt một cánh cửa sổ bị gió rứt ra và bay vào trong phòng vỡ tan từng mảnh. Một luồng gió tràn vào như cuốn mọi vật.
Mẹ tôi kêu lên:
– Trời ơi! Cha con chết mất.
Mẹ tôi hay tin những điềm lạ xẩy ra. Cách đêm bão táp này được vài tháng, có thư của cha tôi gửi về. Thì lạ quá cũng trong tháng mười trước, cha tôi cũng bị gió bão và suýt nguy. Mẹ tôi thấy thế lại càng tin lắm..
Giấc ngủ của vợ người đi biển chẳng bao giờ được yên, mơ-màng thấy tàu đắm hay mong-mỏi một lá thư không bao giờ đến. Đời của họ chỉ vẩn-vơ giữa hai mối buồn đó.
Thuở ấy, bưu-cuộc chưa dược tổ-chức như ngày nay. Người ta chỉ phân-phát thư tại sở thôi. Ngày nào có chuyến thư ở Tân-Địa về thì nhà bưu trạm bị dân-chúng bao vây đông-đặc. Có những thiếu-phụ bế con đứng đợi gọi tên mình. Có những người đọc thư với vẻ mặt tươi cười. Có những người vừa đọc vừa khóc. Những người không có thư hỏi-han những người có thư. Câu: «Không có tin, tức là bình-an» (áp-dụng cho những người đi biển không đúng.
Đã sáu năm nay, có một bà đứng tuổi ngày nào cũng đến bưu-trạm đợi thư vì đã sáu năm nay bà chẳng nhận được lá thư nào. Bà ta tên là Duyên. Người ta kể lại rằng chồng bà ta cùng bốn con trai đi ca-nô ra khơi rồi biệt tích sau một cơn dông biển, người ta không hề tìm thấy xác ca-nô và xác nguời. Từ khi tin này lan đi, sáng nào bà ta cũng đến bưu-trạm. Ngưòi Trạm-trưởng bảo:
– Hôm nay bà không có thư, có lẽ đến mai.
Bà ta buồn rầu nói:
– Vâng! đến mai.
Rồi bà ta về để hôm sau lại đến. Người ta bảo bà ta là người ngẩn-ngơ.
Lần nào tôi đến nhà trạm cũng thấy bà ta ở đấy rồi. Ông Trạm-trưởng vừa làm nghề bán tạp-hóa vừa giữ việc phát thư. Cố-nhiên, ông ấy tiếp những khách hàng đến mua muối hoặc cà-phê trước và để chúng tôi tha-hồ đứng đợi. Là chủ hiệu, ông ta đeo trước mình một cái khăn xanh và đội một cái mũ cát-két. Là Trạm-trưởng, ông ta mặc một cái áo vét dạ và đội một cái mũ nhung. Rất thận-trọng, không bao giờ ông đội mũ nhung để bán hạt-tiêu, cũng như không bao giờ để quên chiếc khăn xanh ngang mình khi phát thư vì ông biết rằng trong tay ông đang cầm một phong thư mà vận-mệnh của bao nhiêu người tùy thuộc vào đó.
Sáng nào, bà Duyên cũng kể lại cho tôi nghe: «Chồng con tôi đi đánh cá gặp bão lớn đánh dạt đi không trở lại được bến Yêu Thuơng, và trôi qua bến Hiền-Đức cũng không sao vào được. Nhưng em đã biết đối vói một thủy-thủ như ông Duyên nhà tôi thì chẳng có cái gì là nguy-hiểm cả. Ông tất tìm được một cái tàu nào đó ở ngoài khơi và cùng các con thoát nạn.
Việc này thường thấy luôn như con trai mụ Lan cũng sống sót trở về. Có lẽ, con tàu đưa chồng con tôi sang Châu Mỹ. Khi trở về thằng Bê chắc lớn lắm. Lúc đi nó 14 tuổi, 14 tuổi và sáu năm, là bao nhiêu nhỉ? – Hai mươi năm – Hai mươi năm, nó thành người lớn rồi!»
Bà ta yên-trí là chồng con bà còn sống. Đến lúc lâm-chung bà vẫn tin rằng chồng con chưa chết. Vì thế mấy hôm trước, bà đã gửi Linh-Mục làng 3 đồng «20 phật-lăng» để cho thằng Bê khi nó trở về. Bà đã chịu đói khát thiếu-thốn để dành tiền cho đứa con út thương yêu.
Lời Nói Đầu -Chương I
Tiến >>
Đánh máy: Lê Thy
Nguồn: Bản PDF của tusachtiengviet.com - https://baovecovang2012.wordpress.com/
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 3 tháng 10 năm 2024