Chiếc bản lề cong

john dickson carr

nguyễn minh dịch

Chương 1

thứ tư, 29 tháng 7
người đàn ông chết

Khi đang tính làm việc chi, đầu tiên phải nhớ điều này: Đừng bao giờ cho khán giả biết trước ý định của mình. Làm như thế, tức là chỉ hướng cho họ, khiến họ để tâm theo dõi. Đây là lỗi lầm cần tránh, bởi nếu mắc phải nó, nguy cơ bị lật tẩy sẽ tăng lên gấp mười. Sau đây, chúng tôi đưa ra một ví dụ.

Giáo sư Hoffmann, Phép thuật hiện [*]đại.

Tại [*]Kent, ngồi cạnh cửa sổ hướng ra vườn, bên bàn viết bày bừa đầy sách vở, Brian Page cảm thấy ngán ngẩm, chẳng muốn làm việc. Nắng chiều tháng bảy chiếu qua khung cửa, nhuộm vàng sàn nhà. Cái nóng mơ màng làm dậy lên mùi sách và mùi gỗ, cả hai đều cũ kĩ như nhau. Phía trại táo sau vườn, một chú ong bắp cày lởn vởn bay vào. Page vẫn ngồi yên, chỉ khẽ xua nó đi.

Bên kia vườn nhà Page, quãng trên quán trọ Bò Và Đồ Tể, con đường uốn khúc trong khoảng một phần tư dặm, giữa những nông trại trồng cây ăn trái, băng ngang cổng chính điền trang Farnleigh Close. Từ chỗ Page ngồi, có thể thấy cụm ống khói của điền trang thanh mảnh nhô lên, lẩn khuất sau những tàng cây. Ra khỏi điền trang, đường bò lên dốc, vắt qua cánh rừng mang cái tên đầy thơ mộng là Rèm Treo.

Đất vùng Kent vốn bằng phẳng, pha màu xanh tái, nâu nâu, vốn hiếm khi rực rỡ, thế mà giờ đây trông chói lóa. Ngay các ống khói gạch của điền trang cũng như nhấp nhoáng sắc màu. Từ điền trang, xe Nathaniel Burrows chạy dọc theo đường, tốc độ chậm song phát ra âm thanh ầm ĩ, đứng xa tít cũng nghe thấy.

Cái làng Mallingford sao lắm chuyện thế, Brian Page ngồi lười nhớ lại. Lắm chuyện thật chứ chẳng chơi, có bằng chứng hẳn hoi. Mới hè rồi, cô Daly ngực bự bị một gã lang thang bóp cổ chết, đoạn chính gã ấy cũng chết một cách rất li kì, khi đang cố vượt đường ray. Và tháng bảy này, vừa tuần trước thôi, hai người lạ bỗng xuất hiện tại quán Bò Và Đồ Tể trong hai ngày liên tiếp. Một người là nghệ sĩ. Người kia (chả biết nghe ai nói) là thám tử.

Cuối cùng đến chuyện hôm nay: Bạn của Page, Nathaniel Burrows, luật sư khu Maidstone, cứ chạy tới chạy lui đầy bí ẩn. Không ai biết rõ, nhưng dường như tại Farnleigh Close xảy ra sự không hay. Trước đó, như thường lệ, Page nghỉ tay vào giấc trưa, ghé Bò Và Đồ Tể làm một vại bia trước khi dùng bữa. Nhưng ngồi trong quán mãi chẳng nghe thấy ai đồn thổi gì. Thật bất thường!

Page ngáp dài, đẩy sách sang bên. Chuyện gì đang khuấy động Farnleigh Close nhỉ? Từ đời vua James Đệ [*]Nhất, thuở Inigo [*]Jones xây nên điền trang cho vị tòng nam [*]tước đầu tiên, bên ấy có mấy khi động tĩnh đâu. Dòng họ Farnleigh truyền mãi lâu dài đến ngày nay, đời đời đều ở đấy. Ngài John Farnleigh, vị tòng nam tước xứ Mallingford và Soane hiện tại, kế thừa từ cha ông một tài sản lớn và ruộng đất phì nhiêu.

Ngài Farnleigh da ngăm, tính hơi thất thường. Vợ ngài là Molly thì thẳng thắn. Page quý mến cả hai. Cuộc sống nơi đây phù hợp với Farnleigh, nên ngài sung sức lắm. Quả tình, trông ngài là biết ngay điền chủ, dù bấy lâu nay ngài sống ở xa, gần đây mới quay về. Tại Farnleigh Close, ngài cũng bệ vệ, thông thường như mọi ông chủ khác, nhưng thực sự, đời ngài vốn lãng mạn, li kì như tiểu thuyết, khiến Page phải mê. Li kì từ chuyến hải hành đầu tiên, cho đến đám cưới với cô Molly Bishop hơn một năm trước. Những chuyện ấy càng chứng tỏ làng Mallingford là nơi thú vị lạ thường.

Hết ngáp và cười vu vơ, Page cầm bút lên. Trời ạ, lại phải làm việc rồi!

Page nhìn xuống tác phẩm dang dở bên dưới khuỷu tay. Cuốn Cuộc đời các chánh thẩm nước Anh này, anh muốn nó vừa mang tính hàn lâm, vừa hấp dẫn đại chúng. Đến nay, việc viết lách diễn ra tốt đẹp, không thể mong gì hơn. Page đang viết đến ngài Matthew Hale. Thôi thì những ngoại truyện, những việc bên lề cứ chen nhau tràn vào trong sách. Mà chúng tràn vào chẳng qua vì Page không muốn đuổi chúng đi.

Nói thẳng ra, Page chẳng mong sẽ hoàn thành được cuốn sách. Ngay hồi còn học luật, anh đã có thái độ “tưng tửng” như vậy. Anh quá nhác, không thể viết sách theo lối học thuật chân chính, nhưng bởi thích tìm tòi và dẫu sao cũng là thức giả, nên bỏ hẳn học thuật đi thì lại không an lòng. Soạn xong sách hay không chả quan trọng. Nhưng Page tự răn mình phải làm việc, rồi cứ thế thoải mái sục sạo vào đủ các ngõ ngách mê li của chủ đề.

Cuốn sách bên cạnh Page đề dòng chữ: Phiên xử phù thủy, tòa lưu động, tại Bury St. Edmonds, hạt Suffolk, diễn ra ngày 10 tháng 3 năm 1664, trước sự hiện diện của ngài Matthew Hale, hiệp sĩ, chánh thẩm Pháp viện Tài chánh Hoàng gia in cho D. Brown, J. Walthoe, và M. Wotton, 1718.

Đấy là một ngõ ngách Page vừa dạo qua. Dĩ nhiên, ngài Matthew Hale chẳng dính líu bao nhiêu tới phù thủy. Song điều đó chẳng ngăn Page viết tới nửa chương nếu cảm thấy thích. Thở một hơi khoan khoái, Page lôi xuống từ kệ một cuốn sách đã sờn của [*]Glanvill. Vừa bắt đầu săm soi sách, anh nghe tiếng bước chân trong vườn, rồi tiếng gọi bên ngoài cửa sổ.

Chính là Nathaniel Burrows, tay đang đung đưa cặp tài liệu, làm một cử chỉ chẳng ra dáng luật sư tí nào!

“Bận không?” Burrows hỏi.

“Ờ,” Page ngáp dài, bỏ sách xuống, “vào làm điếu thuốc chơi.”

Burrows mở cửa kính, từ vườn bước vào căn phòng hơi tối nhưng ấm cúng. Tuy cố giữ điệu bộ bình thường, gã lộ vẻ xúc động, giữa buổi chiều nóng mà trông tái như bị rét. Từ ông cố, ông nội, tới cha, rồi tới gã, nhà Burrows bao đời nay đều đại diện pháp lí cho họ Farnleigh. Đôi khi không khỏi tự hỏi: Burrows còn trẻ, tính tình lại lăng xăng, thỉnh thoảng nói năng bộc phát, như thế có thích hợp để làm luật sư gia đình hay chăng? Tuy thế, theo Page thấy, gã nói chung kiểm soát tốt tình hình, luôn giữ được mặt lạnh, lạnh hơn cả con cá bơn nằm trên thớt.

Burrows có mái tóc đen, đường ngôi rộng, được chải mượt một cách cầu kì. Phía trên chiếc mũi dài, sau cặp kính gọng đồi mồi, cặp mắt gã chăm chú ngó ra. Gã bận đồ đen, rất chỉn chu, song trông bất an; tay đeo găng, bấu chặt chiếc cặp.

“Brian,” gã nói, “tối nay mày ăn ở nhà à?”

“Ừ. Tao…”

“Đừng,” Burrows đột ngột ngắt lời.

Page chớp mắt.

“Đi ăn bên nhà Farnleigh đi,” Burrows tiếp. “Ăn hay không cũng được, cái chính là tao muốn mày đến đó, chứng kiến một chuyện.”

Thế rồi, bộ ngực lép bỗng phồng lên, gã đổi sang giọng luật sư. “May mà tao được ủy quyền kể cho mày cái chuyện tao sắp kể đây. Nói tao nghe xem, có bao giờ mày nghi ngờ rằng ngài John Farnleigh lại không phải là John Farnleigh?”

“Không phải John Farnleigh?”

“Tức là,” Burrows giải thích rõ ràng hơn, “người ấy không phải ngài John Farnleigh thật, mà chỉ mạo nhận, giả vờ thôi?”

“Bộ mày say nắng hả?” Page giật mình, ngồi thẳng dậy. Anh hơi cáu, cảm thấy như vô lí bị trêu. Tự dưng đâu ra lại có cái chuyện này, ngay thời khắc biếng nhác nhất giữa một ngày nóng nực?

“Đương nhiên tao chẳng có lí do gì để nghi,” anh bảo. “Tại sao tao phải nghi? Mày đang tính cái trò quỷ gì vậy?”

Nathaniel Burrows đứng lên, đặt cặp xuống ghế.

“Tao nói thế,” gã trả lời, “bởi có một người xuất hiện, xưng mình là John Farnleigh thật. Chuyện xảy ra lâu rồi, những mấy tháng cơ, nhưng bây giờ mới lên đến cao trào. Mà này…” gã chợt dừng, đưa mắt nhìn quanh, “còn ai khác ở đây không? Cái bà gì người làm của mày ấy, hay là ai khác?”

“Không có ai.”

“Lẽ ra tao không nên kể,” Burrows nói qua kẽ răng, “nhưng tao biết tao có thể tin mày. Giữa chúng mình với nhau thì nói thật: Tao cũng đang trong tình thế tế nhị lắm. Sắp tới sẽ rắc rối đây. Vụ [*]Tichborne chưa ăn nhằm gì so với vụ này. Thì dĩ nhiên… à… chính ra mà nói… tao cũng đâu có lí do nghi ngờ thân chủ của mình không phải ngài John Farnleigh thật. Nhiệm vụ của tao là phục vụ ngài John Farnleigh mà. Song đấy chính là vấn đề, vì có tới hai người. Trong hai, một là tòng nam tước đích thực, một là giả. Hai người đó không giống nhau đâu mày, nhìn khác hẳn luôn. Khổ nỗi, thật giả thế nào, tao chẳng làm sao xác định được.”

Gã ngừng một lúc trước khi nói thêm: “Cũng may, rất có thể đêm nay mọi sự sẽ được giải quyết.”

Page nhìn nhận lại vấn đề trong đầu. Anh đẩy hộp thuốc lá về phía bạn, không quên đốt một điếu cho mình, đoạn chăm chú nhìn Burrows.

“Thật như sấm động bên tai, hết đợt này sang đợt khác,” Page nói. “Mọi chuyện bắt đầu ra sao? Dấu hiệu giả mạo xuất hiện từ bao giờ? Trước đây đã ai từng nghi ngờ như thế chưa?”

“Làm gì có. Rồi mày sẽ hiểu tại sao.” Burrows rút khăn tay, chậm rãi lau khắp mặt, bình tĩnh ngồi xuống. “Hi vọng đây chỉ là chuyện hão. Tao quý John và Molly lắm. À quên, ngài John và phu nhân Farnleigh chứ. Nếu nguyên cáo mới thật là tên giả mạo, tao sẽ ra giữa làng nhảy múa cho mày xem… Chà, nói vậy thôi, nhảy múa thì chắc không đâu, nhưng tao bảo đảm sẽ cho nó ngồi tù vì tội cáo gian, mà ngồi lâu hơn cả Arthur Orton nữa. Tối nay mày sẽ được nghe hết chuyện, bây giờ thì tao kể trước nguồn gốc, bối cảnh, cho mày biết nguyên do cớ sự. Chuyện đời ngài John, mày rõ rồi chứ gì?”

“Biết sơ sơ, chung chung thôi.”

“Biết thì biết cho rõ, sao lại sơ sơ, chung chung?” Burrows lắc đầu, vẻ không hài lòng, “Mày cũng viết sách sử theo lối sơ sơ, chung chung à? Hi vọng là không chứ? Nghe tao đây, và nhớ kĩ những thông tin cơ bản này nhé.

“25 năm trước, John Farnleigh mới 15 tuổi. Ông sinh năm 1898, là con trai thứ hai của ngài Dudley và phu nhân Farnleigh. Lúc ấy ổng không có quyền thừa kế, vì cha mẹ ông tự hào và yêu quý nhất người con cả. Người này cũng tên Dudley.

“Gia đình quyền quý họ đòi hỏi con cái cao lắm. Tao biết ông Dudley bố mà, ổng là mẫu người thời [*]Victoria, rất chi cứng nhắc. Mẫu người ấy bây giờ bị giới viết tiểu thuyết khắc họa, phê phán, nhưng thật ra ổng không đến nỗi tệ như các nhân vật tiểu thuyết đâu. Hồi tao còn bé, ổng hay cho tao tiền, mỗi lần sáu xu. Lần nào tao cũng ngạc nhiên ngẩn người.

“Cậu Dudley con ngoan lắm. John thì không. John da ngăm, ít nói, lại có khuynh hướng nổi loạn. Cái mặt ổng cứ sưng sỉa, khinh khỉnh, nên dù phạm lỗi nhỏ, người ta cũng không tha. Ông thật ra không xấu, chỉ không thích ứng được với môi trường xung quanh. Hơn nữa, dù còn bé, ổng cứ muốn được đối xử như người lớn. Năm 1912, lúc 15 tuổi, ổng làm chuyện người lớn với một cô hầu rượu ở Maidstone…”

Page khẽ huýt gió, đưa mắt ra cửa sổ như thể muốn tìm chính ngài Farnleigh.

“Mới 15 thôi?” anh nói. “Thanh niên ra trò nhỉ!”

“Chứ gì.”

“Nhưng mà,” Page băn khoăn, “nhìn ngài Farnleigh thì cứ ngỡ…”

“Ngỡ đạo đức lắm à?” Burrows đỡ lời. “Nhưng đây ta đang nói về chú bé 15 cơ mà. Hồi đó, ổng khoái tìm hiểu những thứ hắc ám, như phép phù thủy và đạo thờ Quỷ. Thế đã là tệ rồi. Bị đuổi khỏi trường [*]Eton lại càng tệ hơn. Nhưng vụ léng phéng với cô hầu vẫn là xì căng đan lớn nhất. Cô hầu bảo rằng mình có thai, và vụ ấy đánh dấu chấm hết cho tương lai của John. Ngài Dudley Farnleigh đi đến kết luận John là thằng lộn giống, xấu xa hết thuốc chữa, vô phương cải tạo. Cha con phải cách li nhau. Phu nhân Farnleigh có người họ hàng đang làm ăn phát đạt ở Mỹ. Bà bèn thu xếp cho John qua ở cùng. Giải quyết vấn đề như vậy là tiện.

“Người duy nhất có thể quản được John là vị gia sư mang tên Kennet Murray. Murray bấy giờ còn trẻ, chỉ độ 22 - 23 tuổi, đã đến Farnleigh Close sau khi John bị đuổi học. Cũng cần nhắc: Sở thích của Murray là nghiên cứu về tội phạm học, chính vì điều đó mà John gắn bó với thầy. Tội phạm học thời trước không được coi trọng, nhưng ngài Dudley quý mến Murray nên cũng chẳng nói gì nhiều.

“Lúc xảy ra vụ cô hầu, Murray đang được mời chào một vị trí tốt: trợ lí hiệu trưởng một trường học tại Hamilton, Bermuda. Tuy phải xa nhà, ông ta đồng ý, bởi ở điền trang không còn công việc nữa. Thế là mọi người dàn xếp với nhau, Murray được giao nhiệm vụ đi kèm John tới New York, giữ cho cậu bé khỏi gây rắc rối. Đến nơi, ông ta giao John cho người họ hàng của phu nhân Farnleigh, rồi đón tàu khác đi Bermuda.”

Burrows ngừng lời, như để lục tìm quá khứ, đoạn nói tiếp:

“Về phần tao thì tao không nhớ gì mấy. Lũ trẻ tụi mình đâu được cho chơi với ông John hư đốn. Chỉ có con bé Molly Bishop, mới sáu hay bảy tuổi, là mê John phát cuồng. Ai nói xấu John nó đều không nghe, và có thể xem như nó đã là vợ của John kể từ ngày đó. Tao còn nhớ mang máng cái ngày John ngồi xe ngựa ra ga, đội cái mũ bẹt bằng rơm, với Kennet Murray bên cạnh. Ngày hôm sau, họ lên tàu, giữa quang cảnh hội hè đình đám. Sao lại đình đám? Chắc tao không nhắc mày cũng nhớ, con tàu ấy chính là Titanic.”

Cả Burrows lẫn Page đều chìm về dĩ vãng. Với Page thời ấy thật hỗn loạn, đầy những huyên náo, ngập tràn báo chí nơi góc đường, với một lố những chuyện hoang đường vô căn vô cứ.

Titanic, con tàu không thể chìm, rốt cuộc đâm vào tảng băng, chìm nghỉm vào đêm 15 tháng 4 năm 1912,” Burrows lại nói. “Trong cơn hoảng loạn, Murray và John lạc nhau. Ông thầy cùng hai, ba người nữa bám vào vỉ gỗ, trôi nổi giữa dòng nước lạnh căm suốt 18 tiếng đồng hồ. Họ được tàu hàng Colophon vớt lên. Con tàu cập bến Bermuda, đúng nơi Murray cần đến. Murray nhận được điện tín, sau đó là thư tay, cho biết John an toàn, nên không phải lo lắng cho học trò nữa.

“John Farnleigh, hay người giả làm John, được tàu Etrusca cứu, đưa tới New York. Ở đấy, họ hàng của phu nhân Farnleigh, một người miền Tây, đã chờ sẵn. Mọi chuyện lại diễn tiến theo đúng kế hoạch. Ngài Dudley dò hỏi để biết chắc con trai còn sống, xong rồi thì thôi, không quan tâm nữa. Còn ông con cũng chẳng hơn gì.

“John lớn lên, sinh sống tại Mỹ gần 25 năm, không hề viết một dòng thư thăm hỏi gia đình. Cho đến khi họ chết, ổng không gửi một bức hình, không tặng một tấm thiệp sinh nhật. Cũng may, vừa gặp ông Renwick, người họ hàng ở Mỹ, là ổng thích ngay. Vai trò của Renwick coi như thay thế cho phụ huynh. John… ờ… dường như thay đổi. Ông sống bình lặng với nghề nông trên ruộng lớn. Nếu ổng ở lại quê hương, chắc cũng chỉ đến vậy mà thôi. Trong những năm cuối chiến [*]cuộc, John phục vụ trong quân đội Mỹ, nhưng không đặt chân lên đất Anh, cũng không gặp lại cố nhân nào. Cả Murray cũng không gặp. Murray sống ở Bermuda, chả giàu có gì, John thì ở tít Colorado, không ai có tiền đi thăm nhau.

“Tại Anh, cuộc đời phẳng lặng trôi. Hầu như không ai nhớ đến John. Sau khi phu nhân Farnleigh mất vào năm 1926, John bị quên lãng hoàn toàn. Bốn năm sau, tới lượt ngài Dudley qua đời. Dudley con, giờ đã lớn, thừa hưởng tước hiệu và điền trang. Ông ta không chịu lấy vợ, cứ bảo ngày còn rộng, tháng còn dài. Song có rộng dài gì cho cam. Tháng tám, năm 1935, Dudley con chết vì ngộ độc thực phẩm.”

“Ngay trước khi tao dọn đến đây.” Brian Page hồi tưởng. “Nhưng này, Dudley có tìm cách liên lạc với em mình không?”

“Có gửi thư. Thư được trả về, dấu niêm vẫn nguyên. Chả là ngày xưa, Dudley hay ra mặt anh trai kẻ cả. Sau đó, hai người lại xa cách nhau, có lẽ John chẳng còn cảm thấy chút thâm tình nào. Tuy nhiên, khi Dudley chết, đến lượt John thừa kế tước hiệu và tài sản…”

“Thì John chấp nhận.”

“Chấp nhận. Đúng. Chính xác.” Burrows như bùng nổ. “Mày biết ổng, mày cũng hiểu mà. John trở về đây, như tự nhiên vốn thế. Tuy đi xa gần 25 năm, ổng chẳng thấy xa lạ chi hết. Ông tư duy, hành động, thậm chí nói chuyện y như bao lâu nay đã là người thừa kế rồi. Lúc John về là đầu năm 1936. Gặp lại Molly Bishop đã trưởng thành, ổng lấy nó luôn. Đám cưới diễn ra vào tháng 5 cùng năm. Thật là lãng mạn. Từ đó đến nay đã hơn một năm, và giờ thì tự dưng có cái chuyện này. Cái chuyện này!”

“Tao nghĩ, nếu như có mạo nhận…” Page nói, giọng không quả quyết, “việc đó hẳn xảy ra vào thời điểm tàu Titanic bị chìm? Có khả năng một cậu bé khác được vớt, rồi vì lí do nào đấy tự nhận mình là John Farnleigh?”

Burrows chậm rãi đi qua đi lại, ngón tay ngúc ngoắc chĩa vào các thứ đồ đạc trong phòng. Trông gã không hài hước, chỉ thấy tỏa ra một vẻ trí thức, khiến thân chủ yên lòng, thậm chí bị mê hoặc. Gã có thói quen nghiêng đầu, le lé, chăm chú nhìn người đối diện sau cặp kính to. Lúc này đây, gã đang nhìn Page như thế.

“Đúng như vậy. Đúng như vậy. Nếu John Farnleigh hiện tại là giả thì hắn đã đóng giả suốt từ năm 1912, đã quen vai diễn rồi, trong khi người thật vẫn ẩn thân. Sau vụ đắm tàu, khi được cứu, hắn mặc quần áo và đeo nhẫn của Farnleigh thật, đem theo nhật kí của Farnleigh thật. Ở Mỹ, hắn lại được người chú Renwick kể nghe chuyện cũ. Bởi vậy, khi trở về, hắn thích nghi mà không bỡ ngỡ. Vả lại, 25 năm trôi qua còn gì! Chữ viết có thể thay đổi, khuôn mặt, dáng điệu thay đổi, ngay kí ức cũng không còn chắc chắn. Mày đồng ý không? Nếu thỉnh thoảng hắn có lỡ lời, có sơ sẩy, thì người khác cũng cho là tự nhiên thôi. Phải chứ?”

“Thế còn nguyên cáo,” Page nhẹ lắc đầu, “ắt hắn phải nắm trong tay thứ gì chắc chắn lắm mới dám đứng ra. Mày biết ở tòa người ta xử thế nào mà. Hắn đang có cái gì?”

“Nguyên cáo nói rằng,” Burrows khoanh tay trước ngực, “hắn có bằng chứng không thể chối cãi, chứng minh mình là ngài John Farnleigh đích thực.”

“Mày thấy bằng chứng đó chưa?”

“Thấy hay không thấy, phải đợi tới tối nay, bởi nguyên cáo muốn có cơ hội được gặp ngài Farnleigh hiện tại. Không, Brian ạ, tuy gần phát điên về chuyện này, tao cũng không đến nỗi dốt đâu. Quả là câu chuyện của nguyên cáo mang tính thuyết phục, và hắn đã cung cấp một số bằng chứng phụ. Rất tiếc, nhưng mày nên biết rằng hắn đã đi cùng một tên đại diện pháp lí hợm hĩnh vào văn phòng của tao, kể tao nghe những điều mà chỉ riêng John Farnleigh mới biết. Chỉ riêng John Farnleigh thôi, tao nhắc lại đấy. Không chỉ vậy, hắn còn đề nghị để hắn và Farnleigh hiện tại cùng làm một bài sát hạch, rồi kết quả sẽ nói lên tất cả.”

“Sát hạch gì?”

“Mày sẽ biêt… Rồi mày sẽ biết.” Nathaniel Burrows cầm cặp lên. “May là tin tức chưa truyền ra ngoài. Đấy là điều tích cực duy nhất giữa mớ hỗn độn chết tiệt. Ít ra nguyên cáo cũng chơi đẹp, không muốn làm um mọi chuyện. Tóm lại, hai phía đến nay đều chơi đẹp cả. Nhưng khi tao khám phá ra sự thật thì sự tình sẽ ỏm tỏi lên thôi. Mừng cho cha tao, ổng đã qua đời, không phải chứng kiến cảnh này. Còn mày, nhớ bảy giờ có mặt ở Farnleigh Close. Đừng lo về chuyện trang phục, chả có ai ăn vận trang trọng đâu. Ăn tối chỉ là cái cớ, đến đấy chưa chắc đã có người dọn bữa.”

“À, thái độ của ngài John ra sao trước tình cảnh này?”

“Ngài John nào?”

“Để rõ ràng và thuận tiện,” Page đáp, “Tao nói ngài John tức là người lâu nay chúng mình vẫn biết. Mà hay nhỉ. Phải chăng mày có ý cho rằng nguyên cáo mới là thật?”

“Không, không hẳn, dĩ nhiên không rồi!” Burrows thốt lên, rồi vội trấn tĩnh, nói tiếp cách đường hoàng. “Farnleigh chỉ lầm bầm thôi. Tao nghĩ đó là dấu hiệu tốt.”

“Molly đã biết chưa?”

“Biết. Hôm nay ổng vừa nói cho vợ nghe. Thôi, xong chuyện rồi đấy. Lẽ ra tao không nên kể với mày, chắc chẳng luật sư nào lại làm như tao. Nhưng không tin mày thì tao còn biết tin ai? Vả lại, từ hồi ông già qua đời, tao cũng không vừa ý lắm về cách mình xử lí các thứ. Giờ mày biết rồi thì hành động đi, thử giải quyết mớ khó khăn tinh thần của tao coi nào. Nhớ bảy giờ đến Farnleigh Close làm nhân chứng nhé. Hãy dùng trí thông minh của mày, quan sát, xem xét kĩ hai người. Sau đó, trước khi bắt đầu vào việc, làm ơn cho tao biết…” nói đến đây, Burrows phang cặp lên bàn, “mày nghĩ ai là thật, ai là giả.”

↩︎ Phép thuật hiện đại (Modern Magic) của giáo sư Hoffman: Sách xuất bản năm 1876, chỉ ra mánh lới, kĩ thuật của các ảo thuật gia. (Các chú thích nếu không ghi chú gì thêm đều là của người dịch.)

↩︎ Kent: Tên một địa hạt ở miền đông nam nước Anh.

↩︎ Vua James I trị vì nước Anh trong khoảng 1603 - 1625.

↩︎ Inigo Jones (1573–1652): kiến trúc sư nổi tiếng người Anh.

↩︎ Tòng nam tước (baronet): một tước hiệu cao quý ở Anh, trên các tước hiệp sĩ, nhưng dưới năm tước quý tộc (công, hầu, bá, tử, nam). Đây là tước thế tập, cha truyền con nối.

↩︎ Ranulf de Glanvill: quan tòa, luật gia người Anh, sống vào thế kỉ 12.

↩︎ Vụ án nổi tiếng vào thế kỉ 19: Arthur Orton mạo nhận là nhà quý tộc Roger Tichborne, người trước đó bị mât tích trên biên.

↩︎ Victoria: nữ hoàng Anh, ở ngôi từ 1837 đến 1901.

↩︎ Trường nội trú dành cho nam sinh, rất có uy tín. Giới quý tộc, thượng lưu Anh học trường này rất nhiều.

↩︎ Chiến tranh thế giới thứ nhất.

Chương 1

Tiến >>


Nguồn: TVE-4U
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 23 tháng 4 năm 2023