Bi kịch đời sống

cung thị lan

- 1 -

đã ảnh hưởng đến những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của ba chị em tiểu thuyết gia nhà brontë

Tôi thường ao ước đến nước Anh, Anh Quốc chỉ vì một lý do duy nhất là được viếng mộ ba chị em nữ tiểu thuyết gia nổi tiếng của gia đình Brontë. Tôi đã lên kế hoạch nhiều lần; tuy nhiên, vì công việc bận rộn không dứt và tiếp đó là đại dịch Covid, dự định đành hoãn lại từ năm này qua năm khác. Vào tháng chín năm 2024, nhân dịp tham dự Đại Hội Văn Bút Quốc Tế lần thứ 90 từ ngày 23 đến ngày 27 tại Oxford, tôi đã cố gắng thực hiện nguyện vọng của mình. Sở dĩ tôi muốn viếng mộ của ba nữ tiểu thuyết gia Charlotte Brontë, tác giả cuốn Jane Eyre, Emily Brontë tác giả cuốn Wuthering Heights(1847) và Anne Brontë tác giả cuốn Agnes Grey(1847)và The Tenant of Wildfell Hall (1848) vì tôi muốn tỏ long kính mến và ngưỡng mộ sự tài ba của ba chị em nữ tiểu thuyết gia nổi tiếng của Vương Quốc Anh. Nhưng tôi đã không ngờ trong chuyến viếng Nhà Xứ của Mục Sư Brontë, nay là Bảo Tàng viện Brontë, tôi biết khá nhiều điều thú vị về thân thế, gia đình, tình yêu, và hoàn cảnh sống của ba chị em nữ sĩ tài hoa bạc mệnh. Đồng thời, hiểu rõ hơn về những vấn đề ảnh hưởng đến sự ra đời của những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của họ.

Sáu giờ sáng ngày thứ bảy 28 tháng 9 năm 2024, vợ chồng chúng tôi lấy tắc xi từ khách sạn London đến nhà ga Paddington để kịp đáp chuyến tàu hỏa về miền Đông Bắc LNER Train (Line North East Rail Train) khởi hành vào lúc 7 giờ 30 sáng để đến ga Leeds. Từ ga Leeds chúng tôi tiếp tục đón chuyến xe lửa khác đến ga Keighley. Chúng tôi đã mất hơn ba tiếng đồng hồ khi dùng phương tiện xe lửa và mất thêm nửa giờ đi tắc xi từ nhà ga Keighley đến Haworth.

Nhà Mục Sư Brontë tọa lạc ở điểm cao nhất của ngôi làng Haworth nơi có những căn nhà san sát với những hàng cây bao quanh. Cấu trúc của ngôi làng dù đã hơn một thế kỷ rưỡi, kể từ khi Mục Sư Patrick Brontë và vợ con ông đến sinh sống ở đây vào năm 1820 cho đến nay, vẫn không thay đổi. Chỉ có khác là lúc đó, đa số người dân ở vùng này làm việc tại nhà bằng nghề chải len cho các nhà máy kéo sợi. Và nghề dệt vải là nghề chính của họ. Ngôi làng không có cống thoát nước, và vị trí nghĩa địa nằm trên đỉnh đồi với những tấm bia mộ bằng phẳng nằm ngang trên các thi thể đã khiến nguồn cung cấp nước cho cả ngôi làng đều bị ô nhiễm. Do điều kiện làm việc không thích hợp và điều kiện vệ sinh không lành mạnh, trung bình tuổi thọ ở nơi đây rất thấp. Tuổi thọ trung bình từ hai mươi lăm đến ba mươi tuổi. Các chị em nhà Brontë có lẽ đã chứng kiến khu nghĩa địa chật kín thi thể của bạn bè và người quen của họ dưới những tấm bia hùng vĩ trong khu nghĩa địa gần đó. Một nơi dường như thống trị khung cảnh của ngôi làng.

Khi đến nơi đây, tôi đã có dịp hình dung được hoàn cảnh sống mà các nữ văn sĩ Charlotte, Emily và Anne trải qua khi họ viết văn, làm thơ. Những cuốn tiểu thuyết có lẽ đã mang lại cho họ niềm vui và giải tỏa phần nào về những u uất và khó khăn mà họ phải vượt qua khi sống ở nơi này.Và có lẽ ba chị em tiểu thuyết gia nổi tiếng này không ngờ qua bao nhiêu năm tháng, những câu chuyện mà họ xây dựng từ hoàn cảnh sống, từ những nhân vật thật và trí tưởng tượng, đã truyền cảm hứng cho độc giả đến tận hôm nay.

Khi nói về chị em ba nữ tiểu thuyết gia Charlotte Brontë, Emily Brontë and Anne Brontë, chúng ta nên bắt đầu câu chuyện về người cha đáng kính của họ, mục sư Patrick Brontë. Mục sư Patrick Brontë là con trai cả của mười người con trong gia đình nghèo, quê ở Ái Nhĩ Lan.Vì sinh vào ngày thánh Patrick năm 1777 nên ông được đặt tên là Patrick. Cha ông Patrick là người Tin Lành và mẹ ông là người Công Giáo. Nhờ vận may, ông được học bổng vào trường Thần Học St John’s College Cambridge, nơi xây dựng sự nghiệp trong nhà thờ cho sinh viên sau khi họ ra trường. Đây là thành tích nổi bật đáng kể đối với người gốc Ái Nhĩ Lan xuất thân từ gia đình đông con và chật vật. Tại trường Cambridge, họ Brontë lần đầu tiên xuất hiện khi chàng thanh niên với tên Patrick Brunty nay đổi thành Patrick Brontë. Không ai rõ lý do Patrick đổi họ từ Brunty thành Brontë. Ông đổi hai nguyên âm u,y thành o,e. Có thể do lòng ngưỡng mộ của Patrick đối với Horatio Nelson, người đảm nhận tước hiệu Công tước xứ Brontë.

Là người yêu thích văn chương, Patrick Brontë xuất bản nhiều tập thơ như tập thơ Những Suy Tư trong buổi tối Mùa Đông (Winter Evening Thoughts- năm 1810) có 256 dòng và Tuyển Tập những vần thơ đạo đức (a collection of moral verses, and Cottage Poems) vào năm1811. Ông cũng đã tận dụng nhiều cơ hội để trở thành giám tuyển ở một số giáo xứ và phát triển sự nghiệp phục vụ nhà thờ nhiều hơn nữa. Năm 1809, ông được bổ nhiệm làm trợ lý tại nhà thờ All Saints Wellington ở Shropshire. Tại đây ông kết thân với John Fennell, người kết hôn với Jane Branwell, một phụ nữ gốc Cornish.

Khi vợ chồng Fennell nhận nhiệm vụ tại Woodhouse Grove ở trường học Wesleyan gần Bradford, một cô gái tên Maria Branwell 29 tuổi, mồ côi cha (the death of Thomas Branwell in 1809) đến giúp việc. Cô Maria Branwell là cháu gái của bà Fennell (tên thời con gái là Jane Branwell). Cô Maria Branwell gặp ông Patrick Brontë khi ông đến trường để kiểm tra học sinh thần học vào tháng 7 năm 1812. Họ đã làm quen và sau đó kết hôn vào ngày 29 tháng 12 năm ấy.

Vợ chồng Brontë lần lượt có sáu người con, gồm Maria sinh năm 1814, Elizabeth 1815, Charlotte 1816, Patrich Branwell 1817, Emily 1818 và Annee 1820. Đây là những năm tháng hạnh phúc của gia đình Brontë vì họ tận hưởng cuộc sống năng động của xã hội với những người bạn thân thiết ở Thornton gần Bradford.

Sau đó, mục sư Patrick Brontë được đề cử thăng chức với số lương nhiều hơn và được cấp căn nhà lớn hơn chỉ cách năm dặm xuyên qua cánh đồng hoang ở Haworth. Ai cũng nghĩ đó là cơ hội tốt cho gia đình ông, nhưng không ai có thể ngờ những rắc rối đang chờ đợi phía trước. Ngôi nhà đẹp được xây dựng từ năm 1778 đến năm 1779 có lát sàn đá ở các phòng ở tầng dưới đã làm cho căn nhà luôn bị lạnh. Thêm vào đó, mục sư Patrick Brontë thường có những nỗi sợ hãi về những cuộc hỏa hoạn nên ông không cho lót thảm hay treo màn cửa. Những điều này khiến cho căn nhà trên đỉnh đồi lộng gió, luôn lạnh buốt vào những ngày đông giá.

Với bút danh nam giới Ellis Bell, thơ của Emily Brontë bàng bạc về cái lạnh và sự hoang vắng nơi này trong những bài thơ của mình như sau:

The Night

The night is darkening round me,

The wild winds coldly blow;

But a tyrant spell has bound me

And I cannot, cannot go.

The giant trees are bending

Their bare boughs weighed with snow,

And the storm is fast descending

And yet I cannot go.

Clouds beyond clouds above me,

Wastes beyond wastes below;

But nothing drear can move me;

I will not, cannot go.

Emily Brontë

Đêm

Đêm đang bao trùm tôi,

Gió mạnh không ngừng thổi

Lời uy lực trói buộc

Làm sao đành chia phôi

Cây cao buồn cúi rạp

Cành trơ trụi tuyết vương

Cơn bão nhanh ập đến

Mọi lối đã cản đường

Từng đám mây trên đầu

Những bãi rác dưới sâu

Sự buồn tẻ vô vọng

Chẳng thể đi đến đâu

Emily Brontë

Cung Thị Lan chuyển ngữ sang thơ tiếng Việt

*

Remembrance

COLD in the earth, and the deep snow piled above thee!

Far, far removed, cold in the dreary grave!

Have I forgot, my only love, to love thee,

Severed at last by Time's all-wearing wave?

Cold in the earth, and fifteen wild Decembers

From these brown hills have melted into Spring.

Faithful indeed is the spirit that remembers

After such years of change and suffering!

Emily Brontë

Ký ức

LẠNH thấm vào lòng đất, tuyết chồng chất thân người!

Lạnh thấm mồ buồn tẻ, lạnh thấm xa và sâu!

Tôi đã chưa từng quên, một tình yêu duy nhất,

Yêu người và nhân loại, dẫu thời gian úa nhầu

Lạnh thấm vào lòng đất, mười lăm tháng Mười Hai

Ngọn đồi nâu hoang dã, lấp lánh chào đón Xuân.

Sự chân thật trung thành là linh hồn ghi nhớ

Trải qua bao đau khổ, đổi thay có ai ngờ!

……

Emily Brontë

Cung Thị Lan chuyển ngữ sang thơ tiếng Việt

- 1 -

Tiến >>


Nguồn: Tác giả Vietnamthuquan.eu
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 24 tháng 2 năm 2025