Mùa Đông năm 1946.
Trong căn nhà lớn, bịnh xá của khu 7 tại miền Đông Nam Bộ, giữa rừng già Tân Uyên, bác sĩ Nguyễn văn Hưởng, Bộ trưởng Y tế trong Ủy ban Hành Kháng Nam Bộ, không dấu nổi vẻ băn khoăn, lo ngại trên khoé mắt.
Mặc dầu giữa chiến khu, Bác sĩ Hưởng cũng đội nón, áo choàng dài trắng muốt và đeo “găng” cao su. Các phụ tá, mang trên tay chiếc khay bạc đựng dụng cụ giải phẫu cũng lo âu chẳng kém bác sĩ khoa trưởng.
Chưa bao giờ, trong căn phòng nhỏ giải phẫu, đèn “măng xông”, lại được thắp nhiều và sáng như vậy.
Bác sĩ Hưởng đưa mắt quan sát bệnh nhân.
Bệnh nhân nằm dài trên chiếc bàn mộc, chỉ còn thoi thóp thở, đôi mắt nhắm nghiền, sắc mặt trắng bệch, máu đỏ còn rỉ qua băng quấn trên ngực và bụng.
Một người đàn ông cao lớn đeo kính trắng, mặc bà ba đen, khẽ đẩy cửa phòng bước vào:
– Thưa bác sĩ có chút hy vọng nào không?
Bác sĩ Hưởng trầm ngâm:
– Tôi không dám quả quyết nhưng còn nước còn tát. Giải phẫu trong tình trạng này có thể làm bệnh nhân chết tức khắc hay hy vọng cứu được. Ông bí thư nghĩ sao?
– Thưa tôi cũng nghĩ như bác sĩ “còn nước còn tát”, may ra cứu sống được Khu trưởng.
– Vậy ông bí thư ra ngoài, chúng tôi bắt tay vào việc.
Cửa phòng khép kín,
Bác sĩ Hưởng bắt mạch bệnh nhân Khu trưởng khu 7 Nguyễn Bình, một lần nữa rồi quyết định giải phẫu.
Những vết thương nơi ngực không nguy hiểm, đầu đạn đã trổ ra ngoài mà không phạm vào phổi nhưng 4 viên trúng bụng thì thực là trầm trọng.
Bác sĩ Hưởng quay lại nói nhỏ với một viên phụ tá vài câu rồi mới bắt tay vào việc.
Không khí trong phòng giải phẫu thật nặng nề.
Tiếng “soạt soạt” của chiếc dao bạc giải phẫu trên da thịt át cả hơi thở của các bác sĩ đương hành nghề.
Giọng chỉ huy của bác sĩ Hưởng máy móc, ngắn ngủi nhưng cực kỳ nghiêm trang:”dao số 3, kìm số 1, kéo số 7, cắt đoạn này 2 phân nối ống cao su 1 phân, khâu lại bằng chỉ bạc số 6″.
Các bác sĩ chuyên khoa làm việc như những chiếc máy tinh vi, nhanh nhẹn và đúng mức.
Ánh sáng lên cao, xuyên qua các kẽ hở của cửa sổ làm lu mờ ánh đèn măng-xông vẫn chưa có ngọn nào bị tắt đi.
Bác sĩ Hưởng xòe tay:
– Kẹp cuối cùng.
Mọi ngưòi thở phào vì biết cnộc giải phẩu gần 12 giờ liên tiếp đã chấm dứt.
Bác sĩ Hưởng hạ lệnh:
– Trong hai ngày đầu, phải thay phiên nhau, hai người thường trực suốt ngày đêm lo về tiếp máu và coi chừng hô hấp. Tới ngày thứ ba, thêm một người lo về lương thực. Chỉ dùng sữa và nước cháo loãng bơm thẳng vào bao tử, mọi biến chứng dầu nhỏ nhặt tới đâu cũng phải cấp tốc cho tôi hay. Khu trưởng sẽ hôn mê ít nhất trong một tuần. Qua thời gian đó là chắc sống nhưng phải điều dưỡng trong sáu tháng.
Bác sĩ Hưởng ra khỏi phòng giải phẫu, không phải để nghỉ ngơi, mà cấp tốc gặp Nguyễn văn Thắng bí thư của Khu trưởng khu 7 Nguyễn Bình.
– Bằng đủ mọi cách, nội trong ba ngày ông bí thư phải có cho tôi những loại thuốc và vật dụng này.
Bác sĩ Hưởng hí hoáy viết đầy trên một tờ giấy trắng.
Nguyễn văn Thắng lo lắng:
– Thưa bác sĩ Bộ trưởng có hy vọng…
Bác sĩ Hưởng mỉm cười:
– Tôi chưa thấy ai có sức chịu đựng như Khu trưởng Nguyễn Bình. Sau cuộc giải phẫu, tuy Khu trưởng có yếu đi nhưng hơi thở không hỗn loạn, cho phép tôi hy vọng rằng Khu trưởng sẽ thoát nạn.
Nguyễn văn Thắng xin phép ra ngoài phòng để trao cho cán bộ thân tín “toa” của bác sĩ Hưởng:
– Bằng đủ mọi cách, và trong thời gian ngắn nhất, về Thành (Saigon) trao cho Phạm Ngọc Thảo “toa” này và bảo Thảo cung cấp đầy đủ trong một ngày, rồi cấp tốc mang về đây (Phạm Ngọc Thảo, cháu ruột của Phạm văn Bạch, Chủ Tịch Ủy ban Hành Kháng Nam bộ, thời đó là chỉ huy trưởng công tác Thành).
Nguyễn văn Thắng trở lại phòng vẫn thấy bác sĩ Hưởng trầm ngâm.
– Xin mời bác sĩ Bộ trưởng đi nghỉ.
Với lương tâm nghề nghiệp, bác sĩ Hưởng hỏi lại:
– Liệu có những” món đó ” trong hai ba ngày?.
– Thưa, có thể sớm hơn…
– Tất cả?
– Dạ tất cả.
Bác sĩ Hưởng đã đứng lên, nhưng lại ngồi xuống:
– Tôi hơi tò mò, nhưng sự tò mò này quan trọng về nghề nghiệp vì có hiểu được mới ngăn ngừa các phản ứng khi Khu trưởng tỉnh dậy. Tại sao Khu trưởng làm…
Nguyễn văn Thắng thở dài, nhẹ lắc đầu.
Đúng một tuần lễ sau, tin Khu trưởng khu 7 Nguyễn Bình còn sống làm rúng động khắp Nam Bộ.
Khởi đầu, người ta có cảm tưởng rằng đó chỉ là một tin nhằm trấn an tinh thần kháng chiến. Nhưng những kẻ từ Tân Uyên chính mắt trông thấy Nguyễn Bình còn thở, chính tai còn nghe Nguyễn Bình phều phào nói, xác nhận tin trên khiến không còn ai nghi ngờ.
Tại làng An Tịnh, thuộc quận Tràng Bàng, tỉnh Tây Ninh, một phiên họp tối khẩn và tối mật được triệu tập.
Tham dự phiên họp này có:
– Huỳnh văn Trí tức Mười Trí, Tư lịnh Trung Đoàn 4 Bình Xuyên,
– Sáu ” Xếch xông”, Tư lịnh Phó của Mười Trí,
– Phạm Hữu Đức, Tư Lịnh Trung Đoàn 5 (thối thân của Đệ Tam Sư Đoàn),
– Bùi Hữu Phiệt, Tư lịnh Trung Đoàn 25 (thối thân của bộ đội An Điền)
– cùng viên Tham Mưu trưởng Trung Đoàn, Trình Minh Thế, Chỉ huy trưởng Cao Đài kháng chiến cùng thuộc hạ.
Mười Trí đưa mắt nhìn Trịnh Minh Thế và Bùi Hữu Phiệt. Cả hai đều lắc đầu lầm bầm:
– Không thể nào ngờ được.
Phải, không ai cỏ thể ngờ được Khu trưởng Nguyễn Bình qua cuộc giải phẫu của bác sĩ Hưởng, lại còn sống.
Cuốn phim dĩ vãng quay ngược trong đầu mọi người.
- 1 -
Tiến >>
Đánh máy: Lê Thy
Nguồn: Nhà xuất Bản Đồng Nai 1972
https://baovecovang2012.wordpress.com
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 1 tháng 6 năm 2021