落魄江湖載酒行,
楚腰纖細掌中輕。
十年一覺揚州夢,
贏得青樓薄倖名。
« Lang thang gánh gánh rượu đầy
Lưng ong gái Sỏ lòng tay dịu dàng
Mười năm tỉnh mộng Châu Dương
Hời thêm được tiếng phũ phàng lầu xanh ».
(Bản dịch của ông Tú Hải Văn)
Tôi không phải là một kẻ sưu tầm các đồ vật như những người khác thường chơi bát chén đĩa sứ cổ, chơi tem sống tem chết, bươm bướm ép, các bức họa lẫn cả của người thời trước và người thời bây giờ, chữ ký đào kép tuồng hát bóng Âu Mỹ cùng là cây cảnh hoặc các thứ báng súng, v.v… Của lạ và vật quý trong thế gian, biết thế nào mà kê khai cho hết được. Vào các thứ viện bảo tàng khắp các nước mà tìm lấy. Khối.
Tôi không có cái chí cóp nhặt đồ vật, coi cái sinh thú ấy làm nhẹ. Không những thế, tôi-còn thấy cái việc ấy là lụy nữa. Nó buộc con người ta mạnh lắm. Nó cũng như là tình cảm. Thêm vào đời mình một tí là phiền lại tăng thêm một tí.
Nhưng có nhiều khi mình không đi tìm đồ vật mà vật lại tìm đến mình. Làm thế nào. Nhiều lúc chúng đến với mình đông quá, làm mình đâm hoảng. Rồi tưởng có khi phải cơi cái nhà lụp xụp của mình lên đến mấy từng gác nữa thì chứa mới xuể.
Những người nào đã có cha mẹ già héo hoặc người bạn trăm năm nằm xuống, ít ra là một lần rồi nhỉ? Cái đống câu đối sa tanh, cái chồng trướng phúng bằng vóc bằng nhiễu, bằng dạ, eo ôi! Cứ kể mà phải treo lên cho đủ mặt đủ tên, quan viên chia buồn, thì phải dùng thêm bao nhiêu hàng cột con cột mẹ nơi mấy dẫy hành lang nhà đám thì mới vợi được những lô chữ khách sáo ấy nhỉ? Từ phàm viễn ảnh. Nhất chiêu thiên cổ. Hổ sơn vân ám. Dĩ sơn vân ám. Cảm khái hệ chi. Treo lên, đóng thêm đinh treo lên nữa. Lại vẫn nhất chiêu thiên cổ và cứ na ná như thế mà kế tiếp nghĩa là những cái tứ buồn này đã dập theo một khuôn khổ sẵn sàng. Đối với một người vừa lên đường làm một cuộc du lịch dài rộng, đối với một người chết, cái buồn nào mà chẳng giống cái buồn nào, không hơn không kém nó cũng chỉ là một cái buồn cộc thun lủn ; ý chừng những kẻ sống đứng tên nơi lạc khoản nghĩ thế, hỡi ôi. Ngẫm đến sự làm ăn của mấy nhà tiểu sư sản sống bằng cái tiểu công nghệ làm đối trướng mà nhiều người tử tế đi dẫn đầu cho cái đuôi một đám mà trịnh trọng đã muốn cười đánh đùng một cái cho người nằm trong thùng gỗ kia giật mình và nếu có biết chữ Hán thì nên nghển dậy mà đọc mà xem thiên hạ họ tiếc họ thương mình sao giống nhau đến thế. A, thế ra người ta đã có sẵn một cái định thức để mà buồn và khóc. Ba đồng một cái ý tình nhớ tiếc bằng dạ xanh chữ dạ đen. Năm đồng một cái từ sầu hoài nền sa tanh chữ nhung. Bây giờ vải lụa cao. Giá sinh hoạt tăng nhiều, người ta không thể khóc người thiên cổ theo giá cũ nữa.
Nhưng đắt thì đắt, chẳng nhẽ có người quen vừa thành ra ma – cuộc sống lại được thêm một chỗ ngồi tốt, cái thế đứng của mọi người lại nới rộng thêm được một chút để cướp, phần ánh sáng và không khí bỏ thừa lại kia – chẳng nhẽ người ta lại không ơ hờ hơ mấy tiếng để bịt mắt người cùng sống, nên câu đối và trướng phúng cứ tuôn đến ăm ắp gần như làm tắc thở được cả 1 cái nhà vừa có người chết. Không treo lên mà yên được với họ sao. Treo của ai lên và đừng nên treo của ai lên? Đứng trước cái chết, không được phân đẳng cấp giai cấp, ai ai cũng bình đẳng cả, chao ôi, thế mới chết chứ. Không treo được lên cho hết thì có mà chết ngay với những người chia buồn có tang vật kia. Mà treo lên được cho đủ thì lấy gì ra mà treo vào, chẳng nhẽ lại dăng nhờ câu đối phúng sang mặt tường các nhà hàng xóm chung quanh bình an vô sự.
Thế nhưng mà cái người có tang buồn bị tặng những giòng chữ chia buồn na ná, tương tự và trùng nhau ấy, dẫu sao cũng chửa lấy gì làm buồn lắm. Còn có những cái cuộc buồn khác bực hơn thế nữa. Thí dụ: cái buồn của một nhà phê bình văn học có tài khi bị tặng sách. Đọc cuốn sách tặng đã chẳng còn là một hứng thú, đã hết là sở thích và trở nên một hình dịch nặng nề. Sách của một nước mỗi ngày mỗi đi thêm vào đường kỹ nghệ hóa, sách của một thời máy móc in ra đến đỗi không có chỗ bày mỗi giờ hàng nghìn vạn cuốn, đọc sao cho hết. Mà không đọc thì đời giận, đời trách. Đọc mãi, phải đọc mãi như người đãi sạn tìm vàng. Đã đành sách hay đem đến một nụ cười. Nhưng cái đống còn lại kia? Đốt. Đem bán cân. Thế nhưng, hết đống ấy lại có đống khác. Mỗi kỳ tầu phát thư, nhận sách của người phu trạm gọi ra ký nhận, cái bực ngự sử văn học ấy đã thấy rõ sách chẳng còn là quý vật đi tìm quý nhân nữa. Cái người ấy nếu một ngày gần đây mà không chết bẹp dí về đống sách tặng – không thích cũng mặc người ta cứ gởi tặng, đem giết hoặc bỏ tù người ta đi à – tưởng cũng là một sự lạ. Đấy là tất cả sự nhục nhã của một người mà đời sống đã được kết thân với sách một cách rất chặt chẽ. Rồi sách bất cứ sách gì nó cứ tìm cái cửa ấy mà nó đến. Chém nó nó lại càng tìm đến mà đầu thai vào. Những vật ấy đã thành một cái vạ, đã thành một cái tai nạn giết người. Thế mà có ông bạn tôi còn ước ao được giữ một chân phê bình ở một tờ báo nọ để hưởng cái phần sách các nơi gửi tặng, hồ mong cóp nhặt cái của thập phương ấy lại cho thành được một cái tủ sách gia đình. Nó không hay gì, nhưng bày trong nhà, gáy xanh gáy đỏ nhặng lên, trông cũng vui mắt, cùng kín được mấy ngăn tủ sách bỏ trống. Nó táp nham thực đấy, nhưng không mất tiền. Tội gì. Tội gì?!
Tôi đã tự mời tôi đến chơi nhiều nhà không phải là lạ, nhưng không bao giờ đến nỗi có thể là người thân mật của mình được. Để làm gì? Để ngắm nghía dờ mò nhiều đồ vật bài trí gian phòng khách, cái đứng, cái treo, cái ngồi trông đến là ngô nghê. Có lắm đồ vật nằm ngồi một cách oan uổng quá. Nó làm cho tôi lạc cả sự nhận xét. Tìm mãi mà không thế nào nhận thấy sự tương quan giữa đồ vật và chủ nhân, giữa đồ bày chơi cùng cuộc sống riêng của chủ nhân. Ai mà chẳng có cuộc sống riêng, thôi thì có cùng giả lắm, ta cũng cứ phải cho là ai ai chung quanh ta cũng phải có lấy một chút sống riêng đi.
Một lần, tôi đã khép chân khép tay, nhắp chén trà phát du, vừa lấm lét nhìn cái bức hoành sơn nền gấm chữ lệ khắc nổi bốn chữ « Kế thế công hầu », vừa hỏi vị chủ nhà còn nhỏ tuổi ấy rằng:
- Các cụ nhà ta, thời trước làm quan về triều nào thế vậy?
- Dạ thầy tôi hiện giờ tòng sự tại phủ Thống Sứ, còn ông nội chúng tôi trước làm việc ở nha Thương Chính.
- Thưa, bức hoành này là có người mừng.
- Dạ mua đấy chứ. Bỏ tiền túi ra mua đấy, chứ có ai cho và mừng đâu. Thầy tôi mua đấy. Chả một hôm thầy tôi nhân đi phiếm rẽ vào nhà Tầm Tầm, thấy họ bán rẻ quá, và trông thấy cũng hay hay, liền mua về treo. Bức tường giữa nhà mà không có gì treo cho nó kín phía trên đi, trông nó chồng chềnh thế nào ấy ông ạ.
Một lần khác, đến chơi một nhà giầu sổi nọ, mới quật khởi lên được độ một đời thôi, tôi đã phân vân và kinh hãi khi ngắm một thanh bảo kiếm có dây kim tùng gác trên một cái giá gỗ quý. Trái với thói kiêng kỵ của con nhà tướng tôi cứ rút phăng lưỡi kiếm ra khỏi vỏ, nắm đốc kiếm, soi lưỡi thép ra ngoài ánh sáng thấy lờ mờ bốn chữ Lỗ Hiển Quận Công. A, tổ tiên nhà này đã lập nên nhiều võ công! A, chủ nhân là cháu mấy đời một vị công thần nhà Lê chăng (tôi ngờ là triều Lê vì cứ lời sử chép thì nhà Lê có nhiều quận công nhất). Cái người chủ nhà ngu muội và không biết nói dối làm tốt cho cái giá họ nhà mình ấy đã nói một câu thành thực để cho tôi phải thất vọng:
- Ông thích cái con dao bảy đó lắm à? Của người ta cầm đấy. Đâu ba bốn quan tiền kẽm gì đó. Để tra sổ rồi mới nhớ được. Để trên đầu giường ngộ đêm hôm có động dụng khi trộm rình thì giữ nhà kể cũng tiện.
Cũng tiện! Cứ kể tiện thì vô cùng. Thì cái « con dao bảy » đó đem thay con dựa mà chẻ củi tạ cũng được, hỡi ơi là cái số phận của những vật có giá mà không tìm được cửa quý mà gửi thân. Nghĩ lẩn quẩn mà lại thêm tội nghiệp hộ cho mấy ông Mã Chiếm Sơn cùng Quan Công bị treo hình ảnh, tô màu thuốc ở cửa lên cầu thang vài nhà danh kỹ xóm Khâm Thiên.
Nói đến tranh ảnh treo trong nhà, tôi lại không thể quên được những bức truyền thần phóng đại ở nhiều cái bức vách trưởng giả ấy. Những bức vẽ bằng chì than lồng trong kính, khéo quá. Cái gì đẹp khá vốn ít khi được là thực, nên nhiều khi có dịp ngồi đối diện với vợ chồng nhà nọ song song dưới hai bức truyền thần của họ cũng đang sánh đôi trên tường quét vôi bột thuốc, tôi đâm ra nghi ngờ và phân vân không hiểu rằng hai cái hình người ở trên tường kia là thực hay cái đối ngồi dưới đất và trước mặt này mới chính là ko giả. Mặt ảnh và mặt người đều có những nét tự túc những vẻ tự mãn giống nhau quá. Ở nơi này, có một cái gì thừa cần phải vứt bỏ bớt đi. Tự nhiên đang sống lù lù ra đấy, mình lại đi treo ảnh mình ở ngay giữa nhà mình cho người đồng thời trông một hóa ra hai để chẳng còn biết đằng lối nào mà thưa hỏi.
Có nhiều đồ vật đeo cạnh nách, nhiều khi chỉ tỏ ra mình là một người dại dột hoặc là một cuộc sống dại dột, nếu chưa hoàn toàn là khổ lụy. Cũng như những kẻ kia luôn luôn lâm vào cái cảnh chạy nơi nằm chốn ở, mỗi lần dọn nhà là lại có dịp thải bớt đi một ít đồ vật cũ mới ; thỉnh thoảng tôi lại kiểm lại những kỷ niệm cũ thường ghi lại và kết gửi vào những vật con con vụn vặt. Một cái kéo cắt móng tay. Một con dao rọc sách. Một cái độn tóc. Một cái vòng thìa khóa. Một cái hộp gỗ sơn. Một vuông khăn lụa, một dải cà vạt của một người lên đường. Một cái tẩu thuốc lá của người tri kỷ khuất bóng. Một cánh hoa héo của một ngày chủ nhật ngả nghiêng trên áng cỏ ngoài châu thành. Một lá thư xa. Một cái bản thảo của một người đồng nghiệp xấu số. Một tấm thực đơn của tiệc rượu (đáng vui hay đáng buồn?), một người bạn gái bước thêm một bước nữa. Trong cái đám kỷ vật linh tinh ấy, còn những gì nữa?
Còn một chiếc lư đồng. Đồng mắt cua. Nhỏ thôi. Đường kính rộng nhất nơi thân lư cũng chỉ bằng cái đường kính chiếc mặt tẩu Vân Nam da đá. Trông xinh lắm. Đến chơi gần bàn viết của tôi, thấy chiếc lư đựng kim găm và dùng luôn làm vật chận giấy cho gió khỏi lật ngửa những trang chữ ướt, nhiều ông bạn nghiện đã nằn nì đòi lấy đem về bày vào khay đèn nhà. Ăn cắp không được, chiếm không xong, các bạn tôi đòi đánh đổi, tôi vẫn từ chối. Người ta hờn mát với tôi, không viết thư cho tôi và dọa không thèm đi lại với tôi nữa. Việc ấy chẳng còn là một lời đe dọa xuông. Bởi vì sau đấy, đã có người bạn đoạn tuyệt với tôi ra mặt. Những người bạn quái quỷ của tôi vợi hẳn đi một phần, thực cũng vì chiếc lư đồng mắt cua nhỏ bé ấy giá có đem phát mại đi, gặp người ưa chuộng thì hời giá lắm cũng chỉ được vài đồng bạc là cùng.
Nhưng có bao giờ tôi lại đi làm một việc buôn bán như thế được. Mỗi lần dọn lại những ngày cũ của mình, kiểm lại đống kỷ vật xa xưa, tôi cho bớt đi những vật đã trở nên thừa, hoặc hủy đi một vài bó thư đã trở nên nhạt nhẽo quá, đọc lại chỉ thấy bẽ cùng ngượng – tôi đã phó mặc một ngọn lửa đem những di tích ấy biến thành 1 lớp tro nguội và nếu thiếu lửa thì tôi đã xé vụn tập thư ấy ném vào một cơn gió, gió đưa cái đám giấy rách ấy đi như là gió ngàn già lùa lũ bướm non, lắm lúc trông theo mà thấy tội quá chừng. Tôi đã hủy thư từ, đã cho bớt đi nhiều vật khác, nhiều cái kỷ niệm trông xinh ngộ lắm, nhưng đến cái lư đồng mắt cua thì tôi không muốn loại nó đi một chút nào. Nó đã đánh dấu một quãng đời tôi. Nó đã là một cái mốc rõ ràng trên một thôi đường đi ngược về ký vãng. Nó đã là người làm chứng đứng đắn cho một chuỗi ngày cũ.
Kể lại lai lịch chiếc lư đồng mắt cua này, có lẽ tôi đã nghĩ đến – vài lăm phần trong muôn một – những người bạn giận dỗi cùng tôi vì không bắt buộc được cái kỷ vật ấy thay đổi chủ. Khốn nạn, cái thực giá của một cục đồng nguyên liệu ấy phỏng có bao lăm. Mà cứ đòi lấy cho thêm tội. Cuộc đời mình đứng đắn ngăn nắp là thế, khi không đòi ghép thêm một đồ vật kim khí có một cái tiểu sử quái quỷ ấy vào mà làm gì. Không có số mạng làm thiên tử thì đòi giữ một cục ngọc tỷ để mà làm gì. Chẳng bao giờ phải dính dấp đến việc bút mực viết lách mà hễ thấy người ta có cái bút máy tử tế là cứ đòi chiếm, không cho – không cho không phải vì tiếc, nhưng chỉ vì thương cái vật quý sẽ thành vô dụng ; một cây bút tốt mà ở với một người thất học vô tài thì tức là lúc con mã đã phải gánh công việc của con chó đấy – không cho thì lại hờn oán, các người là người kỳ thật.
Về chiếc lư con của tôi, tôi nói rõ ngay thế này để cho các người đừng tiếc nữa: Vẫn hay lư đỉnh nào mà chẳng dùng vào việc đốt trầm. Lư đỉnh nào mà chẳng được đặt trên những bệ các nơi cao nghiêm tôn thờ. Sân nhà Thế Miếu, Đình chùa. Bàn thờ gia tiên.
Nhưng chiếc lư của tôi suốt hai đời chủ, chỉ được đặt những nơi không đáng gọi là tôn thờ chút nào. Nó đã tuôn nhả những vòng khói thơm giữa những nơi hôi hám ẩm sũng. Nó đã phải đốt nóng trong hoàn cảnh xóm hát ả đào. Cái rất thanh cao ấy đã phải ở giữa một cái rất tục bạo. Nghĩa là cuộc đời tinh thần của chiếc lư ấy đã lạc cả sứ mệnh, ý nghĩa rồi, chẳng đáng chàng làng nữa rồi. Các người còn muốn rước về nhà nữa hay thôi? Nhưng đối với tôi thì cái công trình kim khí nhỏ mọn ấy lại là cả một cuốn tiểu thuyết trong người mang theo đời mình. Ơ, chuyện: cái gì có mật thiết riêng đối với một người này thì không thể nào cũng thích hợp như thế cho một người khác được, vốn như thế mà lại.
Ngày xưa… Ở đất Thanh Hóa.
Nói thế thành ra xa xôi như truyện cổ tích mất rồi. Việc tôi, mới cũ đi chỉ độ mười năm trở lại đây thôi mà.
Mười năm trước, tôi là một người đi tù về. Trước khi đi tù tôi cũng là một người được đi học như mọi con nhà khá giả khác. Không được biết đến cái thú đèn sách nhà trường, cái thú đi thi nữa, tôi bèn tìm đến cái thú giang hồ. Nhưng giang hồ không đúng luật, không hợp lệ… 1 tôi đã phải trả giá cuộc viễn du ấy bằng một năm ở ngục, tên họ đổi lấy một con số, chữ đầu đứng theo hàng vạn. Có người bảo như thế cũng là phải.
Ở tù ra, vẫn lại chẳng biết nên làm gì cho phải cả, tôi đâm đầu đi làm thư ký cho một hãng điện khí. Cái số lương hàng tháng chẳng nhiều nhõi gì, nhưng cũng đủ cung cho tôi uống rượu và tìm các trò giải phiền. Thầy mẹ tôi, vợ tôi, tưởng đâu tôi là một người đại bất đắc chí, đều có ý kiêng nể cái việc dùng thời giờ của tôi ngoài gia đình.
Cái nhà ở của tôi lúc bấy giờ chỉ là những nhà hát. Mỗi đêm một nhà, đêm nay nhà này, đến mai nhà khác, hết khắp lượt thì lại lộn vòng trở lại, kể cũng tiện lắm. Vì tôi có tài cổ động mạnh, đám « liêu hữu » nơi sở buôn ấy đã cùng tôi kết nên thành một cái đảng chơi, tiền lương của mọi người đem làm quỹ hành lạc chung gửi nó vào lòng một cái trống, vào lòng một cái chai, một cái cốc. Một cái bàn ăn nơi tiệm cao lầu là một cảnh nhà. Một cái chiếu rượu hát cũng lại là một cảnh gia đình.
Ấy thế rồi cái duyên nơi hàng viện đã cho tôi gặp một người. Một người đàn ông. Đã có tuổi và hiện bấy giờ đứng làm chủ một nhà hát. Ấy là ông Thông Phu.
Ngày đó, tôi mới có hai chục tuổi đầu. Tuổi ông Thông Phu gần gấp đôi tuổi tôi. Lần đầu tiên tôi gặp ông không phải ở nơi nhà hát của ông mà lại ở một mâm rượu xoàng tại nhà một người bạn cũng vừa được phóng thích, thì lúc bấy giờ cũng đi làm việc nhà nước. Tại buổi nhất kiến đó, tôi còn nhớ mãi mấy câu thơ của người bạn tôi tặng ông Thông Phu vốn là một cái tình bèo nước cố giao.
« Từ kể rời chân phố Hạc này
Ngẫm duyên hồ hải thế mà hay
Bình Khang bác đã mười năm chủ
Lục Lộ tôi lên một chức thày
… … … (1)
… … … (2)
Giang hồ cho chán cho chê đã
Trời để riêng ta đất nước này ».
Chừng như đã có nhiều người trong cái đám tửu đồ phóng phiếm nơi Thang Quận này nói năng với ông Thông Phu về cái hành tung lưu đãng của tôi thế nào đây nên gặp tôi lần đầu mà ông Thông Phu đã đãi tôi như một người bạn cũ đã cùng có một ít thôi đường chung chạ. Dáng điệu ngôn ngữ của tôi lúc bấy giờ hoàn toàn là của một thư sinh, mặc dầu một năm giam buộc đã tạc lên mặt tôi những nét chắc chắn của hoài nghi. Căn cứ vào mối thiện cảm từ buổi sơ ngộ đó và theo cái lối kết giao của con nhà nho lớp cũ, ông Thông Phu và tôi đã trở nên một đôi vong niên hữu, đôi bạn đi lại với nhau, người ít tuổi thì năng kính, và người nhiều tuổi thì năng nhường, nhường lời nói, nhường miếng lộc bổng chung, nhường một cái thế đứng.
Tôi mến ông Thông Phu lắm, không phải vì lúc bấy giờ tôi mới bước vào cái đời ăn chơi, định lợi dụng ngay đến những kinh nghiệm tai quái của một người chủ nhà hát ả đào. Ông Thông Phu là chủ nhà hát đã mười năm thực đấy, là một người nghiện nặng thật đấy, nhưng ngày lại ngày, ngồi rình tính tình ông, tôi nhận thấy ông có đủ phong thái của một người tài tử. Đánh trống rất xinh, tiếng trống không ra tiếng trống anh kép, làm thơ làm phú, làm văn tế rất hay, hay kết giao với đám anh em cơ nhỡ và thỉnh thoảng có kẻ ngu dại nào trong đám sinh tụng phải hậu tạ một số tiền để đền đáp cái lá đơn kiện, có kết quả thì lại rủ vài anh em đi nhàn tản về vùng quê, tìm về những làng có mở hội nghe chèo, đánh cờ đất ăn giải, trong hành lý có một cỗ khay đèn a phiến nhỏ tiện và một bộ Quất Trung Bí. Rồi ngâm rồi vịnh, cơ nghiệp nhà và việc hồ khẩu ở nhà phó mặc cho lũ con em cười với tất cả làng chơi thiên hạ, cho người vợ xóc phách ở nhà hoặc đi hát mảnh.
Trước khi đứng làm chủ mở nhà hát, ông Thông Phu là một người có danh phận lương thiện của một xã hội trưởng giả trung lưu đương thời của chúng ta. Ông cũng là người viên chức chính ngạch nhà nước. Ở một cái tỉnh nhỏ Trung Kỳ, cách đây hai chục năm, khi mà người ta làm việc ở tòa Sứ, với một cái chức thông ngôn! Nhưng cái ông thông ngôn có chất máu giang hồ tài tử ấy ở trong huyết quản đã là một người thiếu lương tâm nhà nghề đối với phận sự nơi buồng giấy. Đến sở thường là chậm, luôn luôn bỏ sở ra đi trước giờ bãi, cố lầm tiếng trống hầu nha môn ra tiếng trống chầu hàng viện, lấy giấy công văn của sở ra để đánh máy chép bài hát và dùng luôn những tên tùy phái mặc áo lính tòa làm người chạy thư tình riêng cho mình ; giữa hai bản dịch đơn kiện ông Thông Phu lại ngừng bút để mấp máy miệng nhẩm những khổ đàn đáy khuôn phép rất du dương, lấy thước kê mép cẩn chỉ đồng gõ vào thành bàn giấy cầm nhịp cho điệu đàn mồm. Ông Thông Phu đã đem tất cả những thói tục bừa bãi vào giữa một nơi công đường trang nghiêm, ông ngủ gật trên tập công văn còn lưu cữu lại để lúc choàng thức dậy thì lại mở ngăn kéo bàn giấy ra tìm bữa ăn đã giấu sẵn trong đó. Bánh, thịt quay, lạp xường, rượu, nhồm nhoàm ăn uống như một viên chức Ăng Lê dùng luôn bữa trưa tại sở. Sở đã gần thành ra một tiệm cao lâu mà hầu sáng phố kê thì là đám loong toong. Cái người công chức giang hồ ngay trong sở mình đã chẳng là một sự giấu diếm che đậy mãi được nữa rồi. Một buổi sớm ấy, quan Công Sứ đã nghiêm nghị như một người tộc trưởng một gia đình nền nếp, gọi ông Thông Phu lên báo cho ông biết rằng: « Chính phủ Bảo Hộ rất tiếc rẻ không dùng được ông nữa vì hạnh kiểm của ông thiếu nhiều quá. Ông đã treo 1 tấm gương xấu cho các bạn đồng sự ông ». Chẳng ở được sở nhà nước thì ông Thông Phu ở luôn ở dãy nhà hát của mọi người thiên hạ vậy. Ở đây không ai xoát hỏi căn cước và lý lịch và hạnh kiểm của ai cả. Và từ ấy, sổ lương nhà nước vợi đi được một xuất ăn hại đái nát thì xóm nhà hát lại thêm được một cái môn bài mới. Ông Thông Phu mở nhà hát, vợ đứng tên.
Thầy tôi vốn cũng làm ký lục ở tòa sứ Thanh Hóa, vào thời ấy, trong câu chuyện lúc trà dư nhắc đến vợ chồng ông Thông Phu, cũng có kể lại nhiều đoạn hay hay. Về sau đánh bạn với ông Thông Phu tôi có thuật lại cho vợ chồng ông Thông Phu nghe những điều gia nghiêm nói về ông.
Những lúc chuyện bù khú như thế tức là nhà vắng hát, vợ chồng ông Thông Phu và tôi đều quay vào một cái bàn đèn đặt ở một trái buồng khuất. Ba gian nhà giữa, đèn măng sông vẫn sáng rực, một lớp cửa bức bàn vẫn mở rộng để chờ khách hát đi qua ghé chơi. Nhưng quá mười hai giờ rồi, gian nhà giữa, ét săng đèn không thấy reo vui như lúc chập tối nữa và các cô ấy ngồi bày ra hai bên trường kỷ từ tối đã có nhiều người mệt mỏi, ngáp ngắn ngáp dài. Tiếng cười suông đã biến ra câu nói mơ và con em đã có người ngủ ngồi đầu gối đỡ lấy cằm. Đôi vợ chồng tiêm lẫn cho nhau hút mẻ sái bét – ông và bà Thông Phu đều nghiện nặng – và bảo nhau:
- Thôi không có ai hát xướng đâu. Bảo các cô ấy đóng cửa lại đi nghỉ đi thôi. Quái, sao mùng một đầu tháng này, ai hát mở hàng mà vía gan thế nhỉ?
Cầm bằng là không phải thừa tiếp quan khách người ngoài nào đến chơi vào giờ khuya khoắt này nữa, vợ chồng ông Thông Phu và tôi đều xoay ra lối người trong nhà bày trò làm vui lẫn cho nhau cho nó hết đêm vậy. Bữa thuốc hút say như thế, vợ chồng ông Thông Phu khó mà đi ngủ ngay được. Nhắc đến làng chơi lớp cũ, vợ chồng ông Thông Phu có đả động đến tên thầy tôi. Bà Thông Phu quai mồm ra:
- Đi hát mà như ông cụ đẻ ra chú cũng giỏi. Trong ba năm liền, mà không tối nào là không góp mặt ở dưới xóm. Những câu hãm và bài hát của cụ làm, nghe gọn và xinh đáo để. Ông cụ phải cái không uống được rượu.
Người chồng chen vào:
- Chứ đâu có hát rượu như chú bây giờ ấy. Thơ ông nhà ta đặt nhiều câu kỳ cục, nghe đến mà cái lòng mình nó cũng trôi chảy được như giòng nước. Hồi này thì ông cụ từ hẳn rồi. Phủ huyện cùng anh em làm việc ngoài tòa có đắt mời lắm thì cụ cũng chỉ đi một chốc một lát, nằm ăn thuốc rồi về thế thôi. Mỗi lần đi, cụ lại dắt cái diện Thanh Thảo và cái dọc tẩu lưỡng đoạn một đầu có cái nắm tay bằng Kỳ Nam đi theo.
A, vợ chồng ông Thông Phu đã ngồi giữa cái nhà hát của vợ chồng ông để nói đến cái đoạn đi hát của thầy tôi và lại nói đến cho riêng tôi nghe – tôi, lúc này đang tập tõng đi sâu vào con đường ấy. Đã thân mật thay. Thân mật hơn nữa là ở chỗ xưng hô hàng ngày. Tôi kêu vợ chồng ông là anh với chị. Thưa anh thưa chị. Và nói với tôi một điều gì, bất cứ lúc riêng tây hoặc chỗ đông người, ông bà Thông Phu đều gọi tôi là chú. Thậm chí đối với con em nhà ông, tôi cũng vẫn là chú. Những tối nhà đông khách hát, vợ chồng cùng bận tay cả, lũ con em có hỏi điều này vật nọ, vợ chồng chủ nhà hát đều bảo chúng:
- Vào mà hỏi chú.
- Vào nói với chú đưa cho bác mượn mấy hào lẻ mua chai rượu.
- Vào nói với chú thắp hương hộ cho.
- Vào nói với chú sạch tay, chú lên đèn hộ cho.
- Vào nói với chú cứ sơi rượu trước đi rồi bác vào sau. Bác gõ nốt mấy khẩu phách nữa rồi bác vào đấy.
- Mày vào nói với chú tao sẵn cho bác giai mầy điều thuốc cốt. Hộp thuốc để trong tráp da sơn nơi đầu giường ấy. Đây, thìa khóa đây.
Được vợ chồng ông Thông Phu gọi là chú, lòng tôi lúc bấy giờ không biết có buồn mà lại chỉ có kiêu hãnh thôi. Rồi coi tôi như một người chân tay, họ đã cho tôi đi sâu vào việc riêng trong nhà. Lắm lúc muốn mua thêm một người cô đầu hàng xóm nào hoặc thải bớt một cô trong nhà, chủ nhà lại cũng có hỏi đến ý kiến tôi. Đã thấm chưa, đã sướng chưa, hở Giời! Đối với nhà ông Thông Phu, tôi không còn tí nào là một người khách nữa. Tôi đi không ai đưa ra cửa, không ai nhắc nhỏm. Tôi đến, từ nhà chủ đến con em, không ai tỏ vẻ mừng hoặc ngạc nhiên, cả bấy nhiêu người cũng chỉ khẽ ngấc đầu lên với một câu bình dị: « Kìa chú ». Hai chữ « kìa chú » đã thay cho một câu chào hỏi. Kế đến mâm cơm dọn bày ra, thì người ta lại bình thản bày thêm vào đấy một đôi đũa và một cái bát, ăn hay không mặc ý tôi.
Một tháng. Một năm. Một cái tết Nguyên đán rồi lại tiếp đến một cái Tết Nguyên đán.
Ấy thế rồi một buổi chiều mùa Xuân, có biến cố lớn đã xẩy tới một cách đột ngột, gieo trút bao nhiêu kinh hoàng vào giữa nhà ông Thông Phu.
Liền sau cái tai vạ bất ngờ ấy, ông Thông Phu đã chẳng còn là người lành mạnh nữa. Ông đã thành ra một người cấm khẩu, nửa người bại liệt hẳn đi. Cái tấm hình hài ấy đã trở nên vô dụng, ngày đêm thoi thóp chết dí trên giường bệnh. Những người sạch sẽ béo tốt, lành mạnh, lúc nào cũng được ăn tiêu dư dật vào cái đống tiền mình kiếm được thừa thãi để rồi sống với sự tôn trọng phép vệ sinh làm cho thân người lúc nào cũng thơm tho sáng sủa, thật không bao giờ có được một ý niệm đại khái về cái cảnh thụ bệnh nghèo nàn hôi thối như cảnh ông Thông Phu đây. Nửa năm trời ngọa bệnh như thế, có lẽ cái người ốm liệt đó cũng quen đi, nhưng một người ngoài đang đi giữa một vùng ánh sáng trong trẻo và không khí thơm nhẹ, bỗng chốc phải chui vào cái buồng con bệnh triền miên này để gửi vào cái lá màn buông rủ vàng như hun khói bếp ấy một câu hỏi thăm tắc trách, chắc người đó sẽ được lấy làm sung sướng vô cùng khi được trở về với cái không khí của ngoài đường và thề không bao giờ dám trở lại cái xó tối tăm thiểu não ấy làm gì nữa.
Nhưng tôi vẫn cứ phải đi lại ra vào cái buồng bệnh – thật là tôi « phải » ra vào nơi này – mặc dầu tôi vẫn biết rằng ở ngoài mấy thước khối không khí bị đầu độc ấy chỉ có mấy bước thôi, tôi sẽ được tự nhiên, tôi sẽ được vui vẻ cử động, cười nói với tất cả những cái gì có sinh khí. Ở đây là một sự chết mòn. Ở đây là một cái mồ sống.
Những buổi phải chui vào trong cái màn khai ẩm nửa cuốn nửa buông đó, cầm cái mũi tiêm sắt soạn bữa a phiến hàng ngày cho con bệnh chờ chết kia, tôi muốn rỏ một giọt nước mắt vô ích để tiếc cho ông Thông Phu và để thương rộng ra đến tất cả những cuộc đời phóng lãng khác lúc lâm vào cảnh ốm liệt, bệnh giữ riệt ở một chốn tối tắm làm nó trì chiết và gây buồn phiền cho mình đến thế là cùng.
Ông Trời chơi nhiều miếng khăm mà thật vậy! mỗi được dịp chứng kiến là mình mỗi thêm khiếp sợ.
Một người hay bôn tẩu vì sinh kế và cũng vì cảm thêm thấy nhàn tản là một hứng thú, như ông Thông Phán đây chẳng hạn, thì đâm ra bán thân bất toại, cái bộ chân ấy què một nửa tức là cuộc đời ấy gẫy cả, gẫy hết cả. Trông cái miệng ông ta méo mó, để chỉ còn phát ra những tiếng ú ớ thôi thì mình lại càng hết muốn sống.
Ông Thông Phu vốn là một người hào hoạt, nửa cuộc đời trở về trước chỉ dùng cái miệng có duyên ấy để đọc thơ mình bình thơ thiên hạ và những mẩu chuyện góp cổ tích do ông kể là những tác phẩm linh tinh mà không mấy ai phỏng theo được. Uổng không sinh vào một thời Chiến Quốc, chứ thực ra, cái miệng ấy thuyết khách cũng có tài lôi kéo người ta về hùa với mình lắm. Nhiều kẻ đã lấy làm sợ kiêng cái tài biện báo của ông Thông Phu và lúc biết miệng ông mang tật, họ bèn mượn một câu trong bài Xích Bích « cố nhất thế chi hùng dã… ãã… ừ… như kim yên tại… ạại… tai… hừ… » mà thương vay cho, theo một giọng ả đào đọc phú.
Ông Thông Phu mà què, mà câm thì là một chuyện tối phi lý ở cuộc đời này, thì tức là một người kiếm hiệp cụt tay của một thời dụng võ vậy. Ngó rộng ra xa ngoài buồng bệnh này, tôi càng nhận thấy nhiều kẻ kia lành lặn, không chút tật bệnh là sống một cách phí phạm quá. Nhưng cái thân thể toàn vẹn và bất tài ấy quả là thừa, quả là đã làm uổng đến công sinh thành của tạo hóa. Có một đôi chân vững chãi mà chỉ để ngồi bó gối trên giường vợ, hễ động ra đến ngoài là đi không thành bước, rồi đâm bước bậy bước bạ dẫm cả lên mu chân người khác, thì sao Giời lại không bắt những người ấy què quặt, có một cái miệng tròn trĩnh chỉ để thốt ra những câu vô duyên và những lời xàm bậy, ăn không nên đọi, nói không nên nhời, thì sao những người ấy Giời lại không bắt họ cấm khẩu đi, để gây cho nền trật tự mới cho cuộc sống đầy hỗn độn này.
Từ khi ông Thông Phu bị cấm khẩu, tôi thiệt thòi rất nhiều, còn đi lại với ông ngày nào là chỉ thấy có lỗ vốn thôi. Tôi nhớ đến cái hồi miệng ông chưa có tật những đêm nhà hát thưa vắng khách, ông cho đốt một ít trầm vụn vào cái lư đồng nhỏ bé đặt trong lòng khay đèn, rồi ông ngâm thơ cho tôi nghe. Thơ của ông làm ra cũng có, thơ của người lớp trước và người đồng thời cũng có. Ấy, những câu thơ hay như thế mà không có ông Thông Phu giảng dần cho ra nguồn gốc sự tích lai lịch thì về sau này, khối kẻ sưu tầm khảo cứu nông nổi sẽ qui nó vào cái đám vô danh thị hoặc gán bậy cho những người ở đâu đâu đấy. Chính ông đã đọc cho tôi nghe một bài ca đượm mùi thời thế của một người giả vờ làm đồ gàn.
« Đời là thế, thế là đời
Ai là người biết, biết người là ai
Trăm năm trước đã qua rồi
Trăm năm sau, lại tẻ vui còn chờ
Hãy bàn cái quãng lửng lơ
Sinh ra lơ lửng bây giờ mà hay
Nghìn xưa ai có thể này
Nghìn sau ai biết thế này là sao?
Ai hay, ai dở, ai sao?
Nước cờ nước thấp nước cao là gì?
Có khi… rồi cũng có khi! »
Và một bài khác – cũng một điệu ngang phè như thế – vốn là lời tự trào của viên thừa phái ngông nghênh, suốt một bài chỉ day dứt mãi vào chữ Thừa.
« Ông là thừa phái Hoàng Nông
Ông ngồi ông nghĩ mình ông cũng thừa
Người trong trời đất đã vừa
Cớ sao con tạo lọc lừa ra ông
Mắt thừa ông chẳng buồn trông
Thấy gái má hồng ông chỉ liếc qua
Miệng thừa ông chẳng nói ra
Câu chuyện đậm đà, ông nói đủ nghe
Sẵn dấu đỏ nhòe, ông nhấn mực đen
Chân thừa ông chẳng buồn len
Ông cứ đường liền ông bước ông đi
Bụng thừa ông chẳng buồn suy
Ông cứ gan lì mà việc cũng xong
Ông còn thừa cái gì không?
… … … 2 »
Còn như riêng thơ của ông Thông Phu ngâm vịnh, tôi chỉ còn nhớ được ít câu vụn vặt. Đề cảnh Sầm Sơn, ông có bốn câu:
« Ai dựng thôn quê thành phố sá
Vì đâu bãi cát nổi lâu đài
Lạ cho nước mặn đồng chua thế
Những mặt sang giầu mới biết chơi ».
Và vịnh cảnh thị Kiều về cái đoạn Từ Hải chết đứng rồi lỡ sa vào Hồ Tôn Hiến, có những câu quái quỷ như là: « Bốn bể anh hùng còn dại gái – Thập thành con đĩ mắc mưu quan ». Bắt bẻ Tản Đà về bài Tây Hồ Vọng Nguyệt: « mảnh tình sẻ nửa ngây vì nước, tri kỷ trông lên đứng tận trời », ông cho như thế chưa đủ để thích thực cái đề bài thơ. Như ý ông làm, ông cho là phải làm hai câu đó ra như thế này: « Này nước Kim Ngưu ba mặt rộng – Kìa con Ngọc Thỏ chín từng cao », thì mới là sát đề và chữ đối nhau chan chát.
Phải trông thấy ông Thông Phu huênh hoang, tự phụ cười mũi, giang tay lúc đọc mỗi giai cú lên thì mới thấy cái thú rung đùi ké và góp nhời bàn về thi phú.
Cái miệng đọc và ngâm thơ ấy giờ đã có tật nguyền, chống nẹ nơi giường bệnh, mọi khi ông còn tỉnh táo thích chí về một giai thoại văn chương gì do bọn tôi góp lẫn với nhau cho nó hết những đêm hầu cận con bệnh, ông Thông Phu muốn nói mà chỉ ấm ớ và tội nhất là phải trông thấy ông ta tỏ ý chia vui cùng anh em. Ông Thông Phu cười mà như mếu, mặt dăn dúm lại như khuôn mặt lệch lạc vỡ nát của một kẻ chiến bại bị hơi ngạt cùng diêm sinh ở mặt trận về. Để lánh thảm cảnh đó, bọn tôi từ đấy không dám nói vui trong lá màn bệnh nữa, định tránh cho phế nhân đó những nét cười gắng gượng đau khổ.
Vậy rồi, có một buổi tối, tôi đang ngồi nướng thuốc cho con bệnh nghiện như mọi ngày, tôi phải giựt bắn mình lên vì tôi trông ông Thông Phu có tất cả dáng điệu một người lên cơn bệnh chó dại cắn. Đầu nghiêng, hai mắt đảo ngược, miệng ú ớ như người bị ma mộc đè và chân tay cứ động như một con đồng bị giấc ngủ thôi miên xui khiến. Và lúc mà tứ chi ấy co ruỗi được với sự mệt mỏi quái dị thì chân tay ấy oằn oại như chân tay một con bệnh già đã tử lúc đã đâm ra phát phiền. Tôi vội chạy ra gọi bà Thông Phu vào.
- Chị vào xem anh ấy làm sao ấy. Nhanh lên.
Tôi lặng ra ngoài, chờ, phần vì sợ, phần vì tưởng cái phút này đã là lúc ông Thông Phu được trả hết nợ sống, được thoái hết cái khổ sở và nỗi sống nhục và trong cái phút lâm chung thiêng liêng ấy, tôi không nên có mặt ở đầu giường để cho người chồng bất hạnh ấy được tự nhiên mà dối dăng cùng vợ một đôi chút việc nhà còn đọng lại chăng. Ai mà chẳng có một chút tâm sự để dành. Trái với sự chờ đợi của tôi, bà Thông Phu đã trở ra với một nụ cười:
- Gớm chết, chú làm tôi hết hồn. Tưởng là cái gì. Anh định cho chú cái lư đồng ở bàn đèn ấy đấy. Vào lĩnh lấy và đem về nhà mà làm gia bảo. Úi chà, anh quý nó hơn vàng đấy. Chú đi lại đây mãi – từ lúc nhà tôi còn chưa lâm nạn – thì chú biết đấy chứ còn gì nữa. Khối người định lấy mà chú xem, dầu thân đến mấy đi nữa, đã có ai nhắc nó ra khỏi cái nhà này một phút chưa. Chú đừng làm ra bộ ngờ nghệch nữa. Tôi nhớ hình như hồi anh còn lành mạnh – mấy lần chú đã nằn nì định lấy mà nhà tôi chỉ cười không thôi, không nói ra sao cả.
Tôi trở vào buồng bệnh, tay vẫn giơ cầm cái tiêm sắt đầu nhọn có điều thuốc nướng chưa chín hết. Con bệnh nhìn tôi, lấy mắt ra hiệu chỉ xuống chiếc lư đồng mắt cua nơi khay đèn và lúc thấy tôi kính cẩn nâng cái vật kim khí ấy lên ngang ánh đèn với vẻ trầm ngâm, thì ông Thông Phu nấc cười lên mấy tiếng. (Bây giờ, mỗi lúc phải nằm trong khi mê ngủ, tôi lại hồi tưởng đến tiếng cười ông Thông Phu khi ông vui lòng sang chiếc lư đồng đó cho tôi làm chủ). Những nét cười thành tiếng ngắn đó càng làm cho khuôn mặt ông Thông Phu mếu máo thêm. Tôi lại đặt chiếc lư đồng ấy xuống lòng khay đèn, buồn rầu nói với kẻ tật nguyền:
- Anh cho cái vật này là quý lắm. Nhưng hãy gửi lại đây. Để hôm nào kiếm được một cút thuốc phiện ngang – độ một hai lạng – đưa xuống cho anh dùng, gọi là đánh đổi, rồi sẽ đem lư về.
Ông Thông Phu gật gật, nở thêm mấy nụ cười để tỏ ý cám ơn sự chu tất của tôi. Nét mặt người đau khổ ấy muốn biểu lộ sự hài lòng, lại càng dăn dúm thêm như một cái mật gấu đem phơi nắng.
Tôi làm bạn với cây roi chầu từ ở đất Thanh Hóa, một năm gì đó trước ngày làm bạn lệch tuổi của ông Thông Phu.
Nhưng thực ra, từ lúc kết giao với ông Thông Phu, tôi mới nhận rõ cái chân tướng nơi hàng viện. Rồi từ ấy, ngày tháng lần nữa, tôi đã có dịp được nghe tiếng đàn đáy ở giữa một sòng bạc Cốc Lếu lần trong tiếng nước non sông biên giới chạy xuống phía Hồ Kiều (tôi ở lầu Cai có một đêm, một đêm không trăng, vị trí lập tỉnh tôi không thuộc, nên không rõ giòng nước chảy về Hồ Kiều hay chảy từ Hồ Kiều ngoặt lại) ; Tôi đã lắng một cô Đào xứ Nghệ chọ chẹ ngâm bản Tỳ Bà bên bờ Sông Hương, « giọng líu lô buồn nỗi khó nghe », tôi đã cho đánh một cái xe thổ mộ xứ Nam kỳ lên Phú Nhuận để suýt nữa phải nghe một cô đào Bắc trôi dạt vào đây đã lâu năm, giọng hát cổ kính và hồ biến thành khúc ca cải lương. Tôi còn… tôi còn những gì nữa?
Tập vở này không phải là một tập phóng sự về nhà hát và cũng không phải là một thiên nhật ký ghi lại đủ một thời kỳ khủng hoảng tâm thần. Có lẽ tập vở này cũng lại chỉ là những trang tùy bút chép lại một ít tâm trạng tôi trong những ngày phóng túng hình hài. Đối với xã hội trưởng giả, tôi vốn chịu tiếng là một đứa chơi bời nghịch ngợm. Nghe người ta dị nghị mãi, nó cũng đã quen đi rồi. Quãng đường lêu lổng của tôi, không rõ đến niên hiệu nào là chấm dấu hết. Nhưng vụt nhớ lại chuyện mười năm cũ, tôi đã thấy những thôi đường ấy mở đầu từ lúc ông Thông Phu cho tôi cái lư đồng mắt cua nhỏ bé ấy.
Về người tiền chủ cái kỷ vật ấy đã để lại những kỷ niệm thiết tha đó cho tôi, lâu nay tôi không nhận được một chút tin tức nào. Lâu nay, nghĩa là đã ba bốn năm nay.
Có người bạn phùng trưởng tác hí gặp lại hồi đầu năm nay lại bảo ông đã tị trần rồi.
Hỡi ôi
Cố nhân
Một vệt khói nhạt trên lư đồng.
Thang Quận, Tân Tỵ, tiết Thanh Minh.
Trời đất gì mà lâu bền mãi thế này. Ngày giờ gì mà dềnh dàng ra mãi như thế này. Hai que đồng hồ đẩy xô cũng như không muốn nhích thêm quá cái đà nhất định của cái vật máy. Trở ra rồi lại trở vào, tôi chẳng làm gì, tôi chẳng nghĩ gì, tôi chỉ chú ý vào cái bóng nắng. Ánh nắng ngoài hè mới chỉ đến có đỉnh đầu. Bao giờ mới được hoàng hôn? Và đến bao giờ thì anh tà dương mới tận cùng? Trông mấy cây cột đèn bằng si moong cốt sắt giồng bên lề đường, lưng chừng thân cột lủng lẳng chiếc bóng thủy tinh hình quả vả không có tia lửa điện lòe, tôi hoài cảm vẩn vơ như một khúc sông lấp. Cột đèn si moong màu xám bệch như màu sắc những ngày tháng đã vô sự mà lại hết rượu. Thủy tinh bóng đèn điện không có lửa, dưới ánh nắng bóng bẩy như đồ tế nhuyễn mạ và vô liêm sỉ như những cuộc đời không có chân giá, mỗi tí hào nhoáng phủ lên trên chỉ toàn là của đi mượn hoặc lường gạt của tất cả chung quanh.
Hồi còn ở trong lao, lẩn quẩn suốt ngày, tôi chỉ nghĩ đến những chuyện ăn uống. Của chua, mặn, ngọt béo bùi cay, cái gì cũng thèm, thèm quá đứa ốm đòi ăn giả bữa.
Đi tù về, tôi chỉ thèm chơi. Chơi cảnh, chơi người. Cảnh, bất cứ chỗ nào của tự nhiên. Người, bất cứ là ai, bất cứ hạng nào ; chơi xong rồi bỏ, có định giữ gìn đâu mà phải lựa lọc. Cái đám người quen của tôi thực đã tạp và bất đẳng quá chừng.
Từ một cuộc gặp gỡ tình cờ một tối bữa trước, cái người bạn hành lạc ấy đã hẹn chắc với lòng tôi rằng tối bữa này phải gặp nhau nữa để đi tìm vui. Trong những nhà hát. Tiền bỏ ra mua vui, cái anh bạn ấy cam đoan là gánh lấy hết.
- Đã đành, nhưng ở đâu?
- Chọn xem. Thích chỗ nào thì ở. Tôi đến nhà nào cũng được. Thế nào tôi chơi cũng xong cả.
Nghe cái anh bạn mới có một dúm tuổi đầu, mặt bấm ra sữa mà lại cũng nói cái giọng lão giang hồ, tôi đã lộn cả tiết lên, định cho một trận, nhưng nghĩ lại làm như thế thì mất một người chơi, tôi vội nói:
- Việc gì mà nói cái giọng chán chường yến oanh như thế. Chỗ nào vui vẻ sạch sẽ gọn gàng chu tất thì mình phải tìm mà tới hơn là những nơi luộm thuộm khác. Tiền thật chứ có phải là gỗ đẽo đâu.
- Vậy thì để đến lúc ấy sẽ hay. Tôi sẽ lại tìm anh đằng nhà, cùng đi rồi tiện đâu tươm tất, chúng ta sẽ cùng bước vào.
- Tìm tôi ở nhà không tiện. Như mọi anh em đều biết cả đấy, có việc gì giao thiệp cùng ai, có mấy khi tôi tiếp bạn ở nhà đâu. Mọi việc khác còn thế, huống hồ việc của bọn ta bây giờ lại chỉ là việc đi hát.
- Thôi thế thì lại cứ đến cái nhà này vậy. Ai đến trước thì nổi trống trước cho nó tiện. Anh có người bạn nào thú vị thì cứ mời đến.
Đứng ngắm một cái mặt trời ba giờ chiều rầu úa sau một con chai ung vỡ rỏ máu, đang chênh chênh ngả về Đoài, tôi đã nhớ lại cả những đoạn đối thoại này. Và lòng càng cầu nguyện cho ngày chóng tắt hết những tia nắng cuối cùng đi. Thành phố bật đèn là cái giờ phút của tôi.
Lâu nay tôi không chịu sống ban ngày, hình như chỉ có được đêm tối thôi. Tôi thích đêm tối lắm. Thích nó hơn cả một người đàn bà phong tình, hơn cả một anh kép hát yêu mọi cái hoạt động bằng ánh đèn, bằng màu bằng tiếng tu chung quanh một cái sân khấu.
Ban ngày, thường tôi lừ đừ, tối thì tôi lại trở nên nhanh nhẹn. Đến như câu truyện trao đổi với bất cứ là ai cũng vậy. Ban ngày tôi nói chuyện uể oải, nhát gừng dở dở ương ương, mặc dầu tôi thừa hiểu rằng cái thói phát ngôn như thế là có hại đến quyền lợi của mình. Tôi nghiệm ra tôi chỉ say đắm những lời tôi nói vào lúc đã lên đèn rồi. Câu chuyện của tôi trình gửi với chung quanh chỉ có duyên, có lễ độ, có thủy chung có mạch lạc, dưới một cái ánh đèn thôi. Người ta đã nói đến những bộ mặt có nước da ăn đèn. Người ta đã đả động đến những khách đã đi chơi đêm nói chuyện có duyên. Cái duyên của một câu chuyện « ăn » đèn. Tại đèn? Tại chuyện? Tại người nói? Hay tại có bóng tối chùm lên?
Nào tôi có hay. Hình như trong người tôi có hai cái tôi. Một cái bản ngã khác thuộc hẳn về phần đêm. Nếu ban ngày tôi đã thờ ơ, lửng khửng, e lệ, chán mỏi thì từ buổi tối trở đi, tôi lại nhanh nhẹn, tha thiết ham sống và cười đùa luôn luôn. Chừng như chỉ có đêm hôm và bóng tối mới là cái hoàn cảnh vững chắc cho tâm thần bất định của tôi. Cái tâm thần ấy có lẽ là tâm thần của tất cả những người quen thân lạc và nhiễm những tập quán của truy hoan.
Đêm đến, đi ở ngoài đường – không cần đến con đường ấy tối om, đầy ánh sáng điện, hoặc bóng tối lại chen lẫn từng đoạn với hình kỷ hà học những mẩu ánh sáng của các nhà còn thức rọi ngang lên mặt đường – ngậm một điếu xì gà, chống một cây gậy đầu khoằm lỏn trong bàn tay, vừa đi vừa lắng rượu của mình thấm vào máu mình, vừa nghe tiếng chân mình dẫn đường cho cái bóng bẹp lép mình, tất cả bấy nhiêu đều được nhòe lẫn trong cái nặc danh của Đêm, trời ôi, cuộc sống tình cảm của tôi về phần đêm sao giầu có đến thế được nhỉ. Cái phong phú về tính tình tôi giữa cảnh khuya nhiều khi đã làm tôi quên hẳn rằng trước lúc này chỉ có mấy giờ, trước cái phút thiên hạ đỏ lửa tôi đã chỉ là một người nghèo nàn, hèn nhát, sợ cả mọi biểu diễn của cuộc sống.
Khi nào tôi yêu được cái người bạn đạo đức khô khan ấy mỗi lần phải từ giã là chỉ để lại cho mình cái dư vị ấy một bát cơm nguội rưới nước ốc. Vậy mà những lúc gặp ông đứng vẩn vơ dưới cái quầng đèn điện chỗ ngã tư đường phố, nhìn cái đám thiêu thân, muỗi mắt và châu chấu non kẻ vẽ những hình tròn nhanh gấp dưới chao đèn công cộng mà tôi lại có cảm tình với ông. Tôi lại cảm thấy rằng ông ta cũng có lẽ phải của ông ta. Và nhiều buổi ban ngày, ra tôi đã bất công đối với nhiều người chỉ vì người ta không giống mình. Ra ban ngày, trước nhiều giá trị tinh thần, lòng tôi đã khép lại một cách vô lý.
Xô rẽ lớp không khí trời tối, tôi đã tháo mở cả một tấm lòng, đãi những người quen đang xuôi ngược kia một cái chào tử tế chỉnh đốn hoặc gửi vào tâm họ một câu hỏi thăm săn đón. Rồi tôi lại còn có thể niềm nở chuyện vãn và dừng chân rất lâu, đứng lại với cái bọn người quá tầm thường vô vị ấy. Cả người họ không có một tí gì đáng kể. Nhưng đêm tối đã cho họ được ngang hàng với bất cứ là ai ở cuộc đời này. Không những thế, họ lại còn nghênh ngang, đi đứng ngả nghiêng, cười nói oang oang là khác nữa. Họ dám gọi tất cả người chung quanh là thằng là con hết cả. Chỉ có bóng tối nặc danh làm chứng cho những nhời bất kính ấy thôi. Ở giữa một thời máy móc dễ san bằng phẩm giá người này, khi mà người ta đã leo được lên một chiếc xe hàng chạy bằng nhân lực gợi nhắc đến những kỷ nguyên trung cổ, khi mà người ta đã vắt được cái chân lên giục một cái xe chạy vùn vụt dưới dãy đèn điện thì ai mà chẳng giống như ai. Bóng tối đánh lộn sòng hết. Ngồi trên một chiếc xe kéo ban đêm kẻ thường nhân vô danh tiểu tốt cũng có quyền ngồi chễm chệ như những đấng thiên tài tốt chúng, như những bực vĩ nhân hiền giả xuất phàm.
Mặt trời đã rụng xuống đằng sau một dải thành gạch kiểu Vauban. Lòng tôi hứng khởi dần lên. Bụng dạ tôi cũng rạng tỏ luôn một lúc với đèn điện phố bật tung. Cả người tôi rung động lên như cái rạp tuồng kia ở Cửa Tả đã bắt đầu nổi những trống giáo đầu. Tôi rước tôi bước ra đường. Đuổi theo tôi là những lườm nguýt và thở dài vô hiệu lực của thân quyến.
Chân tôi nhẹ, đầu tôi bận bịu những vui thú, lòng tôi rộn ràng. Trong ấy đang có một đám rước đèn. Đám rước đã đỗ ở một hiệu tạp hóa người Chệt. Lấy cớ là đổi một đồng bạc ra để có hào lẻ trả xe, tôi bóc ra một gói thuốc Ăng Lê và khói lam một điếu yên nương thổi phèo ra ngay ở mặt quầy hàng đã vẽ lên không gian hình ảnh một khuôn mặt ca nhi. Luôn mấy đêm không gần con người từng trải ấy, tôi đã tơ tưởng đến người ta như là người khác tưởng vọng đến một thiếu phụ lương thiện. Tôi đã nhớ đến cái hoàn cảnh đặc biệt nơi người con hát ở, qua một cô gái nhẩy kinh thành, chiều chiều lại nhớ chiều chiều, nhớ dịp kèn, một khi về ở với một người đàn ông tỉnh thượng du, định làm lại cuộc đời.
Từ lúc thôi không làm thư ký hãng bán điện nữa, tôi ít giữ đúng lời hẹn với những người cố tri chỗ lầu hồng. Một lời hứa chắc tứ là tiền bạc rồi đấy, nhưng đảm bảo chắc chắn cho lời hứa, thường là dư tiền, sẵn tiền. Chẳng biết cái ông Quý Bố ấy xưa vốn có là một người giầu có không?
Gần một năm tròn đi làm sổ sách cho cái sở tư ấy, tôi tịnh không đưa về nhà một đồng nào, đem tiêu tất cả đi như là một thứ của bất nghĩa. Tôi đã đem cái tiền ấy ra mua lấy những cái cười hời giá và rã rời – nhiều cô đào cười để chẳng bao giờ tỏ một ý vui chân thành – và để tập đòi lấy những thói khinh bạc hèn nhát cùng những lối ngôn ngữ lếu láo giả dối. Lúc không đi làm nữa, đâm ra xoay tiền quanh để phụng sự những thói quen cũ, tôi đã đem lại những điều hay ấy mà truyền cho những người khờ khạo khác. Cái đám trẻ trung một lứa như tôi này đã bầu tôi làm quân sư.
- Anh là người thớ lợ
- Anh là người vừa tung vừa hứng, vừa đánh trống vừa ăn cướp. Câu chuyện chỉ có thế thôi đấy. Anh nói cả lấy một mình.
- Ai thèm đấu khẩu với. Ngồi với anh khó nói chuyện lắm. Mà thôi đi, đừng nói chuyện vờ vĩnh, dăm bảy hôm lại giả đò giở cái bộ tịch « hấp lìm » ra. Đây thừa biết rồi.
- Truyện của anh thức đem ra mà cúng được. Chả mọc sưng sưng ra. Tài thế. Chúng em mà có định nói niếc cái gì thì ít ra là cũng phải mục « đích » cho hai năm rõ mười đã.
- Anh nói như thế mà không sợ mù mồm à. Không sợ chị ấy ở nhà đẻ ra con gỗ, chân ra trước à.
- Em cắn cỏ lạy anh. Đối với các anh ấy đang mến bác em, đi lại đây xướng hát luôn luôn, anh đừng nên đem những việc cũ của em ra mà nói. Anh thề độc với em một câu là không bao giờ lật tẩy em nhá. Chúng em làm mối cho một người, người thì không đẹp nhưng được cái nói chuyện màu mè thì có thể đẹp gấp rưỡi anh. Chị ấy cũng đã ba chìm bẩy nổi chín lênh đênh, nếm cơm thiên hạ đã chai cả mồm ra rồi. Làm mối luôn tức thì nhá!
Trong cái thời kỳ tôi đi hát bằng tiền người khác, những câu đại để như trên, nghe đã nhàm. Động thấy tôi đến cùng với một bọn đông người lấc cấc là đã có một cô bấm riêng ra một chỗ để nhắn nhỏ một vài lời. Một bên là những người bạn chơi ngang, một bên là những người đàn bà quái quỷ cười cợt để sinh nhai, tôi đứng giữa nhận làm một cái hộp thư tâm sự, để rồi nhiều khi phản cả đôi bên, chẳng khác gì một tên do thám ăn lương cả của hai nước đang găng nhau từng tấc đất biên giới.
Có nhiều chủ nhà hát đã gọi tôi là giặc, là một tên làng chơi hay sinh chuyện đẻ điều, quấy nhiễu xóm hát cứ vữa cả ra. Nhưng vốn biết tôi hay làm cố vấn giết người cho một vài đám trẻ dại thừa tiền và lại thích đàn đúm, nhiều chủ nhà hát chiều chuộng tôi ra mặt. Họ gọi tôi là người ngọc là anh ấm, là ông cụ non, là ông chủ báo, là quan tham nhật trình (!) – tôi lúc bấy giờ làm thông tin viên quèn cho một tờ nhật báo phía Bắc. Ồ, nói đến chuyện một người phóng viên nhật báo ở tỉnh xép thì quái lạ lắm. Chắc những kẻ bỉnh bút có tài nhưng mà chỉ lão thành sống với nghề ở chính giữa chỗ kinh đô xuất bản ra những tờ báo thôi, không tài nào hiểu được cái uy danh của một ký giả xoàng ở các địa phương. Ở một tỉnh nhỏ mà mọi người ở mọi từng lớp xã hội đều có một quan niệm rất trưởng giả về danh phận và nhân phẩm, mỗi khi trong nhà mình thoáng có một việc gì xảy ra là chỉ sợ hàng xóm và phố phường dị nghị, họ đã e dè cái bọn thông tin cho các báo. Cái việc tường thuật hàng ngày ấy theo mục việc vặt các tỉnh, họ chỉ gọi là việc hớt lẻo. Trông thấy bóng một kẻ thông tin cho báo chí là họ lánh như lánh hủi. Không bao giờ họ yêu kính được, nhưng họ gớm, tởm, sợ. Mỗi lúc có việc gì xảy ra trong hạt mình, cái anh thông tin viên chạy cứ nhặng lên, cái đó đã đành ; những lúc ngồi rồi tán láo, câu chuyện của bực ký giả ấy lại càng nhặng nữa, nói toàn chuyện châm lửa đốt giời ghẹo người trong gương. Ấy thế rồi giữa một mâm rượu bừa bộn của nhà hát, người ta bô bô khoe mẽ với đám đàn bà khờ khạo ấy rằng « cứ để đấy, về là đả cho nó mấy cột ». Nó đây là những bậc quan viên có án tích với nhà hát này hoặc trên cái trường tình đấy họ đã gửi lại những kỷ niệm xấu xa đau xót đến của đến người. Cái lúc này – có rượu, có hơi đàn bà, một thứ đàn bà mua chuộc được bằng tiền – cái lúc này là cái lúc một người phóng viên đớn hèn bất tài cũng dám gọi những ông quan đầu tỉnh mình là, là… một cách rất xách mé, mặc dầu họ vẫn biết rằng những vị Thủ hiến ấy muốn trục xuất mình khỏi tỉnh lúc nào cũng được. Ấy thế rồi cứ theo cái đà huếnh hoáng ấy, người ta dám đem tên những bực đáng tôn kính trong nước ra mà gọi là thằng. Chưa có cái thứ người thanh niên nào trong dân gian lại có cái thái độ bất kính và anh hùng rơm như một người phóng viên tỉnh xép lúc cao hứng rượu bên một đoàn cô đào. Cái đám son phấn lầu hồng, vào giờ phút ồ ạt cười rỡn này lại là những con chim họa mi cái rất lợi hại, mỗi nhời lơi lả gửi vào tai kẻ nghiêng ngả kia là cả một thùng dầu tây tưới thêm vào bếp lửa lòng.
Tôi đã kiêu hãnh ngay một cách rất rởm khi bà chủ nhà hát không ngủ được vì những câu chuyện hài hước, hảo hớn rất huyên náo nơi cách cái buồng riêng của bà chỉ có một bức tường con kiến, lò đầu ra góp vào mâm rượu hỗn độn một câu khen tôi:
- Mồm mép nhà báo có khác. Kiến trong lỗ phải bò ra. Tiếc rằng dì nó lại ra Bắc mất rồi. Dì nó cũng vui chuyện lắm. Phải cái tính ngang ngược, miệng lưỡi lại đá chút « càn long » thành ra không ăn giọng với đám quan viên ở đây. Giá còn dì nó ở nhà, những lúc này đối đáp cùng ông, chắc tâm đầu ý hợp lắm. Dì nó đâu cũng con nhà gia thế tử tế như ông…
Con nhà gia thế như tôi? Tôi tự nhiên uống thìa rượu thấy đắng. Ngừng ngay đũa, ngồi thần người ra, tôi đã nhìn rất lâu một khoảng sân nhà hát nước mưa làm loang như tráng mỡ nước. Lòng tôi rầu buồn hơn cả mấy chục bó cúc rầu dãi giữa ngoài trời ấy từ mấy tháng trước, thân đã tua tủa nhô lên những hình nấm không có tên gọi.
Tôi bước chân lên tầu. Con tầu lửa ấy đến Nghệ không đỗ hẳn lại, còn đi nhiều nữa trên đường sắt, nhưng tôi đã bỏ đoàn tầu đẹp đẽ ấy mà tạt xuống nhà ga Vinh. Cái chuyến ấy tôi định đi Nam Kỳ, nhưng lại chia đường đất ra làm hai chặng mà thành phố Vinh là một cái đoản đình. Không đành lòng đi thẳng, tôi đã muốn ghé xuống đấy để chào một người bạn, tòng sự ở Bến Thủy. Tôi còn nhớ hôm tôi lên tầu ấy là một ngày thứ hai hoặc thứ năm gì của một tuần lễ buồn tênh.
Ở mãi một chỗ, ngày nào cũng đi hát, cũng nhắc lại bấy nhiêu câu nhảm nhí, diễn lại mãi mấy chương tình sử ôi rẻ ấy, có mà là người đời. Ngày giờ của tôi không thể rời rạc hơn thế nữa. Thời ấy tôi còn đội mũ và tôi đặt nhiều buổi phiền bực gắt gỏng cả với một cái đinh bảy phân đóng ngập nửa vào bức tường vôi. Tối đến, mũ áo để ra đi rồi ngày mai trở về nhà, lại móc mũ áo vào cái đinh cũ ấy. Cái đinh của mọi ngày. Cái đinh của những ngày đã cũ.
Tôi nhớ ra rằng tôi đóng nó vào vách vôi đã hơn một năm trời. Hôm ấy tôi mới lĩnh tháng lương đầu tiên, mua được cái mũ dạ, bèn đóng cái đinh ấy vào tường treo ngay cái mũ ấy lên. Không những treo mũ, tôi lại còn móc bao nhiêu áo tây vào đấy nữa. Cái gánh mũ áo ấy cũng khá nặng. Sức nặng trĩu ấy có thể lôi kéo cái đinh ấy xuống, làm đinh phải bật long ra khỏi tường. Tôi đã chờ một tiếng đổ ầm xuống sàn gác, giữa một đêm ngủ nhà, để rồi lồm ngồm dậy dọn cất cái đống mũ áo rơi ấy.
Nhưng lạ quá cái đinh ấy chẳng bao giờ bật ra khỏi tường. Tôi vẫn chờ mãi. Thời tiết hết hanh rồi lại nồm cứ đều đều kế tiếp mà đổi thay quanh một cái đinh. Mùa mưa ẩm thấp đã qua. Kế đến mùa nắng gắt. Nóng nỏ đã làm khô cứng lại cái lớp dỉ sắt mà mùa ẩm trước đã ký gửi lên thỏi sắt bé nhọn. Hòn gạch xưa của bức tường, tôi! cứ việc như thế mà ngậm chặt lấy đầu đinh. Cái đinh chẳng còn rụng rời xuống nữa. Đã bao nhiêu lần tôi móc lên đấy những đồ vặt phục sức đầy những hơi hướng của tôi? Bên cạnh tôi, ở xa, ở gần, bao nhiêu cái gì không phải là tôi đã đổi thay! Mà cái sống gượng gạo của tôi thì cứ chết cứng trên một cái đinh đã hơn một năm. Ngày nào cũng quanh quẩn ở đây để treo vào đấy một cái mũ và để lại nhắc cái mũ ấy ra rồi đội lên đầu mình (Trên đỉnh đầu, giá dúm tóc ấy chẳng bao giờ ngả màu). Thói quen. Thói quen hàng ngày. Những thói quen hàng ngày tầm thường của một cuộc sống tầm thường.
Phải ruồng bỏ những thói quen xoàng xĩnh đó đi. Ấy thế rồi một buổi ngồi nhà uống rượu một mình nhắm với nỗi bực mình phát nguồn ngay từ trong lòng mình ra, tôi đã cùng đứng dậy, đi lại mé tường nhổ mạnh cái đinh bẩy phân định vứt nó đi. Tôi lay cái đinh không chuyển. Tôi càng lay mạnh. Nhổ có một cái đinh nhỏ, tôi không ngờ rằng thân thể tôi đã hoàn toàn vận động. Mồ hôi vã ra. Cả một thân sau sơ mi ướt đẫm. Tôi đứng cạnh bức tường, một tay phải tì vào tường cho đầu đỡ choáng váng, lặng nghe tiếng con tim đập mau gấp như sau một cuộc chạy nhanh. Việc cử động thân thể ấy đã đem lại một nỗi buồn sợ rất lớn cho tâm thần. Tôi đã không lay được một cái đinh chứ đừng nói tới chuyện nhổ nó ra khỏi tấm tường vôi nữa.
Tôi thoáng nghĩ đến truyện những người tập luyện thân thể, giữ sức khỏe của mình như vật báu, thường có tài rút một cái đinh đóng thuyền đã ngập sâu vào thân một cây cột lim. Họ rút đinh ra nhẹ nhàng, tưởng chừng như đấy chỉ là một trò đùa của trẻ con nghịch nhấc những chân que hương lên khỏi bát nhang nêm tro.
Thế này thì ra tinh thần tôi bạc nhược lắm rồi. Tôi tính lại niên xỉ của tôi. Chao ôi đấy là cái thành tích rực rỡ của những đêm trăng bên những bông huê tàn. Thức nữa vào. Cười nữa đi. Uống mãi vào. Hít nữa vào. Hát xong thì lại không bao giờ nên để chén cạn và phải cạn mãi cho hết những chén đầy nữa vào, ối! ối tôi ơi! ối những người bạn thân nhất của tôi ơi!
Đã thế này, thì tôi không thể để cho cái đinh ấy yên lành ở tường được nữa. Ồ, đã có chiếc kìm. Lập tức tôi đi mượn ngay cặp kìm thép của ông hàng xóm. Thế mà cũng hì hục loay hoay mất một lúc. Đinh rút nhổ rồi, vôi chát tường ải vỡ xuống, tường phô bầy một lỗ gạch loe từ trong ra như một cái miệng phễu. Bột gạch già nhuộm lên miệng lỗ tròn một màu đỏ chết. Tôi ngắm chuôi đinh cũng nhuộm đỏ một màu tối ấy, nghĩ đến mấy phút lao lực vừa qua, tôi tưởng rằng tôi vừa bẻ hộ một cái răng hàm cho một người có tuổi. Lỗ hổng tường tuôn bớt gạch đỏ ra, vẫn há hốc miệng máu chờ một cái chổi lau chùi cho.
Ngay tối hôm nhổ đinh, không phải mắc mũ áo vào một cái mấu nào nơi tường cũ đã mất rồi, tôi cứ để luôn mũ trên đầu và đóng luôn quần áo mà ngồi lù lù giữa nhà. Mệt quá tôi ngả lưng xuống tràng kỷ, kéo luôn mũ phủ kín mặt như người hành khách hạng tư kiếm một giấc ngủ trên ghế dài con tầu tối.
Không ai gọi tôi dậy cả, nhưng linh tính tôi nhớ đến giờ ra tầu tối, đã đánh thức tôi dậy. Nhà tôi thấy tôi xách va li ra xe, kéo riêng vào buồng hỏi tôi đi đâu.
- Đi làm ăn xa. Hơi xa một tí. Sẽ có thư về sau. Đừng cho ông bà biết vội.
- Mình lại đi làm hãng điện nữa à?
Tôi không trả lời, bước ra. Thấy từ nẻo xa đang đi lại phía cửa nhà tôi một cô đào trẻ rất quen thuộc, tôi lại vội thụt vào, không lên xe vội. Không phải là tôi có thói mê tín sợ gặp gái lúc xuất hành nhưng tôi đã muốn tránh cho tôi một việc phiền. Thế nào gặp tôi ngồi trên xe với chiếc va li, cái cô đào sắp đi lại kia cũng vồn vã chào và hỏi một câu. Mà vợ tôi thì lúc ấy đang mặc cả xe đứng ngay ở cửa.
Người đào nương đi qua cửa nhà. Nàng nhìn tôi, lấm lét nhìn vợ tôi, tủm tỉm, vừa bước đi nhanh vừa cười úp xuống những hòn đá trên đường cái phố. Cái người phu xe già vốn vẫn kéo đưa tôi xuống xóm hát và đang ghếch càng xe lên hè chờ tôi ra ga, mở một nụ cười a tòng rất có tính cách buộc tội cho tôi, trước mặt vợ tôi đang ngần ngại.
[←1] Kiểm duyệt bỏ 3 dòng.
[←2] LỜI NHÀ XUẤT BẢN: Còn ba câu nữa tự ý tác giả rút bớt ra. Quý độc giả cố hiểu lấy vậy.
Phần 1
Tiến >>
Nhà xuất bản : XUÂN THU
Nguồn sách : tusachtiengviet.com Đánh máy : Đỗ Trung Thực Kiểm tra chính tả : Trần Lê Nam, Nguyễn Ngọc Thanh, Phan Anh Quốc, Nguyễn Thị Huyền Biên tập chữ Hán-Nôm : Đỗ Văn Huy Biên tập ebook : Nguyễn Xuân Huy, Thư Võ Ngày hoàn thành : 03/09/2019
Nguồn: TVE-4U
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 13 tháng 2 năm 2022