Theo danh mục “Sách của Nguyễn Hiến Lê” in trong tập Mười câu chuyện văn chương thì cuốn Mạnh Tử do nhà Cảo Thơm xuất bản vào năm 1975. Trong bộ Hồi kí (Nxb Văn học - năm 1993), cụ Nguyễn Hiến Lê tự nhận định tác phẩm Mạnh tử của mình như sau:
“Cuốn này dày hơn 160 trang[1], cũng do Cảo Thơm xuất bản như cuốn trên[2].
Tôi cố làm nổi bậc sự khác biệt giữa thời đại xã hội của Khổng và thời đại xã hội của Mạnh, giữa tính tình của hai vị. Khổng có lúc muốn chiều đời được việc, Mạnh thì hiên ngang quá, khẳng khái quá, giữ vững nguyên tắc, không chịu thoả hiệp.
Ông Thu Thuỷ (Võ Phiến) trên tờ Chính luận (số 9.3.75), phê bình cuốn Mạnh Tử như sau:
“Về thời đại, về tính tình, về tư cách Mạnh Tử, cách ông (Nguyễn Hiến Lê) trình bày thật sống động lí thú.
Về tư tưởng của Mạnh Tử, trình bày cũng thật là rõ ràng dứt khoát (…). Trong lối viết gãy gọn, thẳng thắn của ông Nguyễn có lúc đột ngột, gần như thân mật. Trước đây nửa thế kỉ, ông Trần Trọng Kim không thể có cái giọng ấy.
Cái dứt khoát của ông Nguyễn khiến người ta nghĩ tới Mạnh tử, mà cái thân mật khiến nghĩ tới cụ Khổng…”. (Hồi kí, trang 455).
Trong bộ Sử Trung Quốc (Nxb Tổng hơp TP Hồ Chí Minh - năm 2006), tiết xét về tư tưởng chính trị của các triết gia thời Tiên Tần, cụ Nguyễn Hiến Lê sắp Mạnh tử vào phái Nhân trị – Hữu vi. Cụ bảo:
“Về tư tưởng chính trị thời Tiên Tần, tôi chia làm hai phái:
- Phái hữu vi, can thiệp vào đời sống của dân.
- Phái vô vi, không can thiệp vào đời sống của dân.
Phe hữu vi lại gồm hai chủ trương:
- nhân trị, cho rằng tư cách (đạo đức, tài năng) của người cầm quyền quan trọng nhất; vua phải yêu dân, giáo hóa dân, can thiệp vừa phải vào đời sống của dân thôi;
- pháp trị, trái lại bảo nhà cầm quyền không cần có tư cách, hễ pháp luật nghiêm khắc, thưởng phạt công bằng thì một người không có tài đức cũng có thể trị nước được; phe này cũng có thể gọi là cực hữu vi, rất chuyên chế, can thiệp vào mỗi hành động của dân.
Để độc giả thấy sự biến chuyển của tư tưởng chính trị thời Tiên Tần, tôi theo thứ tự thời gian, lập bảng các triết gia với năm sinh, năm tử, từ cuối đời Xuân Thu đến cuối đời Chiến Quốc với chủ trương của họ.
Những niên đại trên đều theo Vũ Đồng, tác giả cuốn Trung Quốc triết học đại cương”. (Sử Trung Quốc, trang 114-115).
Bản đồ thời Chiến Quốc năm -260
(Nguồn: Wikipedia)
Trong bộ Sử Trung Quốc, cụ Nguyễn Hiến Lê còn dành một tiết viết về Mạnh tử, tiết đó khá dài nên tôi đưa vào phần Đọc thêm ở cuối eBook. Ở đây tôi xin trích thêm một đoạn nữa trong bộ Hồi kí, mục “Viết nốt về triết học Tiên Tần”:
“Khổng học tới Mạnh Tử trải một lần biến, tới Tuân Tử lại trải một lần biến nữa. Khổng Tử chỉ nói “tính tương cận, tập tương viễn” (bản tính con người giống nhau, do tập nhiễm mới khác xa nhau), và trọng đức nhân hơn cả; Mạnh tử đưa ra thuyết tính thiện, ai sinh ra cũng có sẵn có bốn đầu mối: nhân nghĩa lễ trí (tứ đoan), ông ít nói đến nhân mà nói nhiều đến nghĩa; Tuân tử, trái lại chủ trương tính ác (tính người vốn ác), và “thiên nhân bất tương quan” (người với trời không quan hệ gì với nhau), ông ít nói với nhân, nghĩa mà trọng lễ.
Mạnh là một triết gia kiêm chính trị gia; Tuân hoàn toàn là một triết gia, học rất rộng, có nhiều tư tưởng độc đáo, bàn cả về trí thức, danh (công dụng của danh, nguyên lí chí danh…), về biện thuyết (phạm vi của biện thuyết, phương pháp biện thuyết…), nên được nhiều người tôn là học giả uyên bác nhất thời Chiến Quốc.
Cho tới đầu nhà Hán, học thuyết của Mạnh và của Tuân được trọng ngang nhau; từ đời Đường trở đi, Mạnh được tôn mà Tuân bị nén; nhưng gần đây ở Trung Hoa, Tuân lại được nghiên cứu hơn Mạnh, vì tư tưởng của Tuân hợp thời hơn; tìm hiểu các hiện tượng thiên nhiên, lợi dụng thiên nhiên, trọng khoa học, lễ (gần như pháp luật, hiến pháp…)”. (Hồi kí, trang 539-540).
*
Theo các thông tin trên mạng, sau năm 1975, cuốn Mạnh tử được Nxb Thành phố Hồ Chí Minh và Nxb Văn hoá Thông tin in lại. Mặc dù không có cuốn “sách giấy” nào trong tay, tôi cũng xin làm lại eBook Mạnh tử vì eBook cũ (tôi tải về từ ngày 04-07-2009 – về sau gọi là “bản nguồn”), không rõ do bạn nào thực hiện, nay không thấy lưu hành trên e-thuvien nữa.
Goldfish
Tháng 6 năm 2013
Gần đây tôi tìm lại được cuốn Mạnh Tử do Nhà xuất bản Văn hoá in tháng 5 năm 1996 - tôi mua ngày 06/07/1996 (trong các chú thích mới viết thêm sẽ gọi tắt là “sách”) - nên tôi kiểm tra lại eBook cũ để sửa lỗi, chép thêm các chỗ thiếu, ghi thêm một số chú thích. Trong eBook mới này tôi cũng cho vào phần Đọc thêm: Truyện người nước Tề có hai vợ và Một số danh ngôn trong sách Mạnh tử.
Trước cuốn Mạnh Tử, cụ Nguyễn Hiến Lê đã có 4 tác phẩm viết về triết học Trung Quốc: Mạnh Tử, đó là: Nho giáo – một triết lý chính trị, Đại cương triết học Trung Quốc (chung với cụ Giản Chi), Nhà giáo họ Khổng, Liệt tử và Dương tử. Sau cuốn Mạnh Tử, cụ Nguyễn Hiến Lê còn viết thêm mỗi số tác phẩm về Trung triết như: Trang Tử, Hàn Phi (chung với cụ Giản Chi), Tuân Tử (chung với cụ Giản Chi), Mạc học (chung với cụ Giản Chi), Lão tử, Luận ngữ, Khổng Tử, Kinh Dịch (ta cũng có thể kể thêm bộ Sử Trung Quốc vì trong đó có rất nhiều đoạn viết về Trung triết).
Đọc các sách viết sau, chúng ta thỉnh thoảng thấy lời dịch hoặc nhận định của cụ đã thay đổi, có khi khác hẳn với lời dịch hoặc nhận định của cụ trong một số cuốn viết trước. Dĩ nhiên là chúng ta nên theo những gì cụ viết trong các cuốn sau. Điều này tôi đã nhiều lần nêu ra trong một số eBook mà tôi đã thực hiện. Trong cuốn Mạnh Tử này cũng vậy. Ví dụ như trong chương 8, cụ Nguyễn Hiến Lê bảo:
“Quan niệm về “khí” xuất hiện ở Trung Hoa vào thế kỉ thứ IV trước Tây lịch (thời Chiến Quốc) và ba triết gia đầu tiên nói tới khí là Cáo tử, Mạnh tử và Trang tử, nhưng quan niệm của hai nhà trên hơi khác với quan niệm của nhà dưới” (Sđd, trang 177).
Tiếp đến, cụ trích dẫn hai đoạn trong sách Trang Tử, một trong thiên Trí Bắc du, một trong thiên Chí lạc. Cả hai đoạn đó, trong bộ Trang Tử - Nam Hoa Kinh, cụ đều dịch lại, lời dịch tuy có khác nhưng ý nghĩa thì cũng tương tự; điều đáng nói là cụ cho rằng cả hai thiên đó (và nhiều thiên khác nữa) do những người đời sau thêm vào, và hai đoạn trích dẫn đó lại không phản ánh đúng tư tưởng của Trang Tử [3]. Như vậy, ta có thể suy ra rằng Trang Tử không nói về “khí” và hai (chứ không phải ba) triết gia đầu tiên nói tới “khí” là Cáo Tử và Mạnh Tử.
Chú thích:
[1] Trong cuốn Đời viết văn của tôi ghi là: 180 trang. (Goldfish).
[2] Tức cuốn Nhà giáo họ Khổng. (Goldfish).
[3] Trong bộ Đại cương triết học Trung Quốc, hai cụ Gian Chi và Nguyễn Hiến Lê cho rằng Trang Tử chủ trương “vô chính phủ”, nhưng trong bộ Trang Tử - Nam Hoa kinh, cụ Nguyễn Hiến Lê lại bảo rằng tư tưởng đó không phải của Trang Tử mà là của những người đời sau.Vài lời thưa trước
Tiến >>
ebook: Goldfish
Nguồn: Nhà xuất bản: Văn Hoá 1996 - TVE-4U
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 4 năm 2023