Con Trai

guy de maupassant

dịch giả: phan mỹ my lan

Hai người bạn già tản bộ trong khu vườn đầy hoa. Xuân về, muôn loài tưng bừng sức sống.

Một người là thượng nghị sĩ, người kia là học sĩ trong Hàn lâm viện của Pháp. Cả hai đều nghiêm nghị, nói năng chừng mực và lý luận chính xác. Họ được trọng vọng và nổi danh trong xã hội.

Thoạt đầu họ nói về chính trị, trao đổi ý tưởng; không chỉ về chính kiến mà còn về con người, về nhân cách, cái mà họ xem còn vượt trội hơn cả khả năng.

Họ hồi tưởng lại những gì đã qua, rồi yên lặng bước, mệt vì không khí ấm dần.

Từng thảm hoa quế trúc trải ra trước mắt, hương thơm ngọt ngào. Trăm loài hoa khoe sắc, toả hương trong làn gió nhẹ. Gió mang đám mây phấn hoa vàng gieo rắc khắp nơi, thoang thoảng mùi hương mật như những túi bột thơm.

Ông nghị sĩ dừng bước, hít thở hương phấn hoa, vàng như ánh dương, bụi phấn vương vấn lững lờ trong không trung, ông nói:

- Người ta cho rằng những bụi phấn thơm ngát này tạo nên sự sống cho hàng trăm loài hoa quanh đây. Nó toả trong không trung và đậu lại ở những cây hoa cái, tạo gốc rễ từ một tế bào, như chúng ta đa làm, bất tử như con người, và người này sẽ thay thế người khác, theo cùng một cách, giống với người trước.

Và, đứng trước cây keo rực rỡ, phân hoa rơi rụng theo từng cơn gió thoảng, ông nghị sĩ tiếp:

- Này anh, nếu anh xem cái cách con chúng ta phát triển, anh sẽ ngạc nhiên vô cùng. Có đứa sinh ra thật dễ dàng, lớn lên và trưởng thành mà không hề phiền hà gì đến người khác.

- Chúng ta cũng vậy mà.

- Vâng, tôi không chối cãi điều này; đôi khi chúng ta để con cái tự do, ông thượng nghị sĩ nói, nhưng chúng ta ý thức điều mình làm, và điều đó khiến ta hơn những người khác.

- Không, ý tôi không phải thế, người kia lắc đầu nói.

- Anh biết đó, có người có con mà không hề biết là mình có, những đứa trẻ - không cha - mà anh ta đã cho ra đời không ý thức, cũng như sự sinh sản của những cây hoa này.

- Nếu phải đếm những chuyện tình đã qua, chắc hẳn chúng ta bối rối như cây keo này khi tính toán nó có bao nhiêu hậu duệ, phải không anh?

- Từ tuổi mười tám đến bốn mươi, thật sự, chỉ những mối quen biết thoáng qua, chúng ta có thể quen từ hai trăm đến ba trăm phụ nữ.

- Này, bạn thân, với con số này anh có thể tin chắc rằng anh không có đứa con nào với ít nhất một người? Và tin rằng trên đường phố, hay trong nhà giam, có một gã đê tiện, một tay giết người nào đó lại không là con của chúng ta, hoặc một cô gái trong nhà chứa, hoặc nếu may mắn, một cô phụ bếp?

- Anh xem, cũng thế, hầu hết các cô, mà chúng ta gọi là “gái điếm” có một hoặc hai con không cha nhìn nhận, được sinh ra từ cái giá mười hay hai mươi quan. Trong mọi việc có được và mất. Những đứa trẻ như cây cỏ hoang sơ này cấu thành “cái mất”. Ai đã tạo ra chúng? Anh, tôi, chúng ta đều đã làm điều này, chúng ta, “những người đàn ông lịch lãm”! Chúng ta là kết quả của những bữa tiệc vui nho nhỏ, những chiều giải trí, và những giờ mà cơ thể tràn trề sinh lực của ta trỗi dậy cho những quan hệ bất chính.

- Những tên trộm cướp, những thành phần xấu xa đó, thực ra, là con của chúng ta. Điều này chẳng là gì cả nếu chúng ta cũng thuộc lớp hạ lưu.

- Tôi sẽ kể anh nghe một câu chuyện khủng khiếp. Nó khiến tôi hối hận triền miên, và hơn thế nữa, một sự ngờ vực dai dẳng, âm ỉ, hành hạ tôi mọi lúc.

Khi hai mươi lăm tuổi, tôi đã làm một chuyến đi bộ xuyên Brittany cùng một người bạn, nay là thành viên của nội các.

Sau mười lăm hoặc hai mươi ngày đi qua Cotes - du - Nord và một phần của Finistere, chúng tôi đến Douarnenez. Từ đó, chúng tôi đi một mạch đến mũi đất hoang sơ Raz gần vịnh Les Trepaases và qua đêm ở một ngôi làng nhỏ.

Sáng hôm sau, một cơn mệt mỏi khác lạ đã khiến bạn tôi liệt giường; tôi nói giường theo thói quen, vì đơn giản chúng tôi chỉ nằm trên hai ổ rơm.

Tôi chưa hề rơi vào tình huống thế này. Tôi dựng anh ấy dậy và chúng tôi đến Andieme lúc bốn hoặc năm giờ chiều hôm ấy.

Hôm sau anh ta khá hơn một chút, và chúng tôi lại lên đường. Nhưng rồi trên đường đi anh không thể chịu đựng nổi một cơn đau khủng khiếp, chúng tôi chỉ đến được Pont Labbe.

Ở đây, ít ra là có được một quán trọ. Bạn tôi nằm mê man, và người bác sĩ đến từ Quimper bảo rằng anh ấy sốt cao nhưng không tìm ra được bệnh gì.

Anh biết Pont Labbe không? Không à? Nó nổi bật nhất vùng Breton Brittany, kéo dài từ mũi đất Raz đến Morbihan. Nó mang đậm tính cách của người dân ở đây, nhiều truyền thuyết và phong tục tập quán vẫn còn lưu truyền. Ngay cả bây giờ, vùng đất này cũng không thay đổi mấy. Tôi nói “ngay bây giờ” vì, trời ạ, tôi đến đó mỗi năm!

Một lâu đài cổ nghiêng bóng những bức tường và tháp canh xuống mặt hồ êm đềm, chỉ một thoáng xôn xao vì những cánh chim dại lướt qua. Nó chảy thông ra một con sông tàu thuyền neo lại xa xa thị trấn. Trên những con đường nhỏ với nhà cửa cổ xưa, đàn ông mang những cái nón thật to, thắt lưng thêu bốn lớp, lớp này tiếp lớp khác; cái trong cùng, to bằng bàn tay, chỉ để che khoảng xương vai, va cái ngoài cùng vừa chấm thắt lưng.

Con gái, cao lớn, xinh đẹp và tươi tắn. Ngực họ nén chặt như mặc áo giáp, áo thì cũng rất lạ, từ trên cổ dài xuống chân. Trên trán là hai dải băng thêu dài, lẫn vào trong mái tóc được vấn lại trong chiếc nón lưỡi trai, thường được thêu trang trí chỉ màu vàng hoặc bạc.

Cô bồi phòng tại quán trọ chưa đầy mười tám tuổi, mắt xanh nhạt với hai đồng tử màu đen bé xíu, hàm răng trắng nhỏ đều khít, phô ra khi cô cười, trông chắc chắn như có thể nghiền cả đá granite.

Cô ấy không biết một chữ tiếng Pháp, chỉ dùng tiếng Breton như những đồng nghiệp của cô.

Vì bạn tôi không khá lên bao nhiêu, và mặc dù không biết rõ anh ấy bệnh gì, bác sĩ vẫn không cho anh tiếp tục chuyến đi, bắt phải hoàn toàn tịnh dưỡng. Tôi ở đó nhiều ngày với anh, và cô bồi phòng nhỏ không ngừng đến, khi thì đem cơm cho tôi, khi thì các loại thuốc bằng lá cây cho anh ấy.

Tôi chọc ghẹo cô ấy tí chút, có vẻ cô cũng vui vui, nhưng chúng tôi không hề nói chuyện, vì không thể hiểu nhau.

Nhưng có một tối, sau khi ở lại khá khuya với anh bạn, tôi quay về phòng. Tôi đi ngang qua cô gái khi cô ấy đang về phòng mình, đối diện phòng của tôi, và không suy nghĩ, chỉ đùa chứ không có ý gì khác, tôi thình lình túm lấy eo cô ta, và trước khi cô ấy kịp hoàn hồn, tôi đã quẳng cô vào phòng, chốt cửa lại.

Cô ấy nhìn tôi, sửng sốt và sợ hãi, không dám la lên vì xấu hổ và có thể bị đuổi việc, trước tiên là vì chủ quán trọ, có thể, là cha cô ấy.

Thoạt tiên tôi chỉ giỡn chơi. Cô ấy phòng thủ quyết liệt, thoát ra cửa, rút chốt và chạy biến.

Vài ngày sau đó tôi không hề gặp cô ấy. Cô ấy không để tôi đến gần. Nhưng khi bạn tôi bình phục và chúng tôi lại chuẩn bị cho cuộc hành trình, cô ấy đã đến phòng tôi vào giữa đêm, trước lúc chúng tôi lên đường.

Cô ấy nhảy vào lòng tôi và ôm tôi cuồng nhiệt, cho tôi tất cả sự dịu dàng và khát vọng của một người phụ nữ trong khi cô ấy không thể nói được một từ nào trong ngôn ngữ mẹ đẻ của tôi.

Một tuần sau tôi đã quên đi cuộc phiêu lưu này, rất thường xảy ra với những người hay đi đây đó. Những người bồi phòng thường chỉ làm vui du khách theo kiểu đó.

Năm ba mươi tuổi tôi có nghĩ đến việc này và có ý định trở lại Pont Labbe.

Nhưng mãi đến năm 1876 tôi mới tình cờ đến Brittany để tìm kiếm một số dữ liệu viết sách.

Dường như không có gì đổi thay. Những bức tường xám của toà lâu đài vẫn đổ bóng xuống mặt hồ bên ngoài tỉnh lỵ; quán trọ vẫn thế, dù nó đã được sửa chữa, đổi mới cho hiện đại hơn. Khi vào quán, tôi được hai cô bé người Breton khoảng chừng mười tám tuổi đón tiếp, tươi trẻ và xinh xắn, mặc áo bó sát, đội mũ màu ánh bạc và mang một dải băng thêu trên trán.

Khi ấy vào khoảng sáu giờ chiều. Tôi ngồi ăn cơm, và trong khi người chủ quán đang ân cần phục vụ, tự dưng tôi buộc miệng hỏi:

- Ông có biết những người chủ cũ của ngôi nhà này không? Cách đây ba mươi năm tôi đã có dịp ở đây khoảng mười ngày.

- Đó là cha mẹ tôi, thưa ông, ông ta đáp.

Rồi tôi kể lý do vì sao chúng tôi đã lưu lại nơi đây, bạn tôi đã bị trễ vì vướng bệnh. Ông ấy không đợi tôi nói xong.

- Vâng, tôi còn nhớ rất rõ. Khi ấy tôi vào khoảng mười lăm, mười sáu tuổi, ông nghỉ tại căn phòng cuối dãy và bạn ông nghỉ tại căn phòng này là phòng tôi, trông ra đường.

Chỉ khi ấy hồi ức về cô bồi phòng nhỏ trở về sống động trong trí. Tôi hỏi:

- Ông có nhớ cô bồi phòng nhỏ bé xinh xinh làm công cho cha mẹ anh, và là người, nếu tôi nhớ không lầm, có đôi mắt xinh đẹp và hàm răng trắng đều?

- Vâng, thưa ông; chị ấy chết khi sinh con một thời gian sau đó.

Và, chỉ tay ra sân nơi một người đàn ông gầy gò, què quặt đang xới phân bón, ông ấy thêm:

- Kia là con trai của chị ấy.

Tôi cười:

- Anh ta không đẹp trai và không giống mẹ mình. Chắc hẳn là giống cha.

- Có thể thế, người chủ quán đáp, Nhưng không ai biết nó là con của ai. Chị ấy chết mà không nói với một ai, và không ai ở đây biết chị ấy từng có bạn trai. Mọi người rất ngạc nhiên khi nghe chị ấy có thai, và không ai tin cả.

Tôi ớn lạnh cả người, lòng trĩu nặng như có một nỗi đau nào đó đang đe doạ. Và tôi nhìn gã đàn ông trong sân. Hắn ta vừa lấy nước cho ngựa uống, kéo lê hai cái xô khi bước, khó nhọc vì chân thấp chân cao, áo quần tả tơi, trông dơ bẩn đến kinh tởm, tóc dài cháy nắng, cứng ngắc như những sợi thừng rơi hai bên mặt gã.

- Nó chẳng được việc gì, người chủ quán tiếp, chúng tôi chỉ nuôi vì thương hại nó. Có thể nó khác đi nhiều nếu được nuôi nấng như những người khác. Nhưng chúng tôi có thể làm gì, thưa ông? Không cha, không mẹ, không tiền! Cha mẹ tôi tội nghiệp nó, nhưng nó không phải là con cháu, ông biết đó.

Tôi không nói gì.

Tôi ngủ trong căn phòng cũ, và suốt đêm dài tôi nghĩ về con người tàn tật dơ bẩn này, tự hỏi: “Giả sử nó là con tôi? Có thể tôi đã gây ra cái chết của người con gái đó và đã tạo nên sinh vật này? Có thể lắm chứ”.

Tôi quyết định nói chuyện với người này và tìm ra chính xác ngày sinh của gã. Nếu cách nhau khoảng hai tháng thì tôi có thể yên tâm không dằn vặt mình nữa.

Hôm sau tôi cho gọi gã đến. Nhưng gã không biết nói tiếng Pháp. Dường như gã chẳng hiểu gì, hoàn toàn không biết đến tuổi của mình. Một cô bồi phòng cho tôi biết thế. Gã đứng trước mặt tôi như một tên ngốc, xoay xoay chiếc nón trong đôi tay xương xẩu, gớm ghiếc, miệng cười ngu ngơ. Gã vẫn mang máng giống mẹ ở khoé miệng cười và cặp mắt.

Người chủ quán đã kiếm ra giấy khai sinh của sinh vật khốn khổ này.

Ngày gã ra đời là 8 tháng 26 ngày, sau ngày tôi ở tại Pont Labbe, vì tôi nhớ chính xác đã đến Lorient vao ngày 15 tháng 8. Khai sinh ghi "Cha vô danh”. Tên mẹ Jeanne Kerradec.

Tim tôi đập mạnh. Tôi không thể thốt nên lời, cảm thấy nghẹt thở. Tôi nhìn con thú ấy, và gã, bối rối vì cái nhìn của tôi, thôi không cười nữa, quay đầu chực bỏ đi.

Suốt ngày tôi lang thang bên dòng sông nhỏ, tìm lời đáp trong hồi ức đớn đau. Nhưng hồi ức thì có ích gì? Tôi không thể chắc chắn điều gì cả. Trong nhiều giờ tôi cân nhắc liệu có khả năng tôi là cha, căng thẳng vì những giả thiết không thể lý giải, chỉ là sự ngờ vực dai dẳng, rồi đưa đến một bản án đau xót gã là con của tôi.

Tôi bỏ bữa, quay về phòng.

Trằn trọc mãi, tôi thiếp đi với một giấc mơ khủng khiếp. Tôi thấy gã cười vào mặt và gọi tôi là “Cha". Rồi gã hoá thành con chó và cắn mắt cá chân tôi, tôi gắng sức chạy thật nhanh, gã vẫn theo bén gót, không ngừng sủa và mắng nhiếc tôi. Rồi gã xuất hiện trước các đồng nghiệp của tôi ở Học viện, những người này đang tụ tập ở đây để quyết định xem tôi có phải cha của gã. Một người trong họ la lên:

“Không nghi ngờ gì nữa! Xem gã giống ông ta chưa kìa”. Và, quả thật, tôi thấy gã quái vật ấy rất giống tôi.

Tôi thức giấc với ý nghĩ này và với mong muốn điên cuồng là nhìn thấy gã một lần nữa và xem xem chúng tôi có những điểm giống nhau chăng.

Tôi gặp gã khi gã sắp hoà vào đám đông đi lễ - hôm ấy là chủ nhật - và tôi cho gã năm quan tiền trong khi lo lắng nhìn chăm chăm vào gã. Gã lại cười ngây ngô, cầm lấy tiền, bối rối trước cái nhìn của tôi, rồi chạy mất - sau khi lắp bắp vài từ không rõ, chắc hẳn là “cám ơn”.

Ngày lại qua trong nỗi đau như đêm trước, tôi đi kiếm người chủ quán, và rất cẩn trọng, khéo léo, tôi nói với ông ta là tôi quan tâm đến sinh vật khốn khổ này, bị mọi người ruồng bỏ, sống trong tận cùng xã hội, và tôi muốn làm cho gã một điều gì đó.

Nhưng người này nói: ồ, thưa ông, xin đừng nghĩ đến điều này, gã không đáng đâu, ông chỉ chuốc thêm phiền nhiễu mà thôi. Tôi thuê gã dọn chuồng ngựa, và đó là tất cả những gì gã có thể làm. Tôi cho gã ăn và ngủ chung với ngựa. Gã không cần gì hơn nữa. Nếu ông có cái quần cũ nào đó, ông có thể cho gã, nhưng rồi nó sẽ rách bươm sau một tuần.

Gã khốn khổ về đến nhà chiều hôm ấy, say be bét, suýt chút thì nổi lửa đốt căn nhà, giết chết một con ngựa bằng cái cuốc chim và chỉ thôi khi nằm lăn ra ngủ trong vũng bùn dưới trời mưa. Đó là vì món tiền tôi cho.

Ngày hôm sau họ năn nỉ tôi đừng cho gã đồng nào nữa. Rượu làm gã điên, và ngay khi gã có hai xu trong túi, gã quẳng ngay vào quầy rượu. Người chủ quán nói thêm: “Cho gã tiền cũng như giết gã". Chưa bao giờ trong đời gã có nhiều hơn vai xu được du khách quẳng cho, và gã không biết nơi nào khác để tiêu tiền ngoài quán rượu.

Tôi ngồi hàng giờ trước quyển sách mở rộng, giả vờ đọc, nhưng thực ra để nhìn con vật ấy, con trai tôi! Con trai tôi! Cố gắng tìm xem gã có nết nào giống tôi. Sau khi xem xét kỹ tôi như thấy cái nền trán ấy, cái sống mũi ấy giống với tôi, và nhanh chóng tôi tin chắc rằng giữa chúng tôi có sự giống nhau đã được che giấu trong quần áo và trong khuôn mặt khuất sau mái tóc.

Tôi không thể ở đó mà lòng không trỗi dậy ngờ vực, nên bỏ đi, trái tim tan nát, để lại cho người chủ quán một ít tiền ngõ hầu làm nhẹ đi cuộc sống của gã giúp việc.

Sáu năm nay tôi đã sống với ý nghĩ này trong đầu, với sự ngờ vực khủng khiếp, kinh tởm. Và mỗi năm một sức mạnh không cưỡng được lại kéo tôi về Pont Labbe. Mỗi năm tôi đày đoạ mình bằng hình ảnh con thú ấy đang xới phân bón, tưởng tượng ra rằng gã giống tôi, và cố gắng luôn vô hiệu, giúp gã chút gì đó. Và mỗi năm tôi trở lại, ngờ vực hơn, day dứt hơn, và lo lắng hơn.

Tôi gắng kiếm người dạy dỗ gã, nhưng gã chỉ là một tên ngốc vô vọng. Tôi gắng làm cho cuộc sống gã ít khốn khổ hơn. Gã là một tên nát rượu không cải tạo được, tiêu tất cả tiền được cho vào rượu, và đủ khôn ngoan để bán quần áo mới đi mua rượu.

Tôi gắng gợi lòng thương của người chủ quán, để ông ta trông nom gã, trả công ông ta vì việc này. Người chủ quán, rốt cuộc rất ngạc nhiên, khôn khéo nói: “Thưa ông, tất cả những gì ông làm cho nó chỉ là huỷ hoại nó thôi. Nó phải được canh như canh tù. Ngay khi nó rảnh, hay an nhàn, nó trở nên nguy hiểm. Nếu ông muốn làm điều thiện, không thiếu những đứa trẻ bị bỏ rơi biết nhận thức và biết ơn sự quan tâm của ông”.

Tôi có thể nói gì đây?

Nếu tôi để lộ một chút ngờ vực của mình, gã ngốc này sẽ trở nên xảo trá ngay, để tống tiền tôi, làm tổn thương và huỷ hoại tôi. Gã có thể gọi “Cha” như trong cơn ác mộng.

Và tôi tự nói với mình rằng tôi đã giết người mẹ và huỷ diệt sinh vật này, con ký sinh trùng nơi chuồng ngựa, được sinh ra và lớn lên chỉ biết có phân ngựa; con người mà, nếu được nuôi dưỡng như người khác, chắc hẳn đã có cuộc sống bình thường như bao người.

Và anh không thể tưởng tượng được cái cảm giác lạ lùng, bối rối, không chịu nổi đến với tôi khi gã đứng trước mặt và tôi nghĩ rằng gã đã được sinh ra từ con người của tôi, rằng gã thuộc về tôi thông qua sự ràng buộc cha con, và với quy luật di truyền, gã chính là tôi, trong máu thịt, có cùng tế bào gây bệnh, cùng một chất men trước mọi xúc cảm.

Tôi mang nặng khát khao không ngừng được nhìn thấy gã; và hình ảnh của gã làm tôi đau đớn. Từ cửa sổ phòng, tôi nhìn gã thu dọn và đẩy xe đầy phân ngựa, tự nói: “Kia là con tôi”.

Và đôi khi tôi khao khát được ôm chầm lấy gã, tôi chưa hề đụng đến bàn tay dơ bẩn ấy.

Ông học sĩ im lặng. Bạn ông thì thầm:

- Vâng, quả thật, chúng ta phải quan tâm nhiều hơn đến những đứa trẻ không cha.

Một cơn gió làm lay động những chùm hoa vàng, mang theo mùi hương ngan ngát mà hai người đàn ông lớn tuổi khát khao đón lấy.

Ông thượng nghị sĩ thở dài: “Cái tuổi hai mươi lăm thật đẹp, ngay cả khi có những đứa con như vậy”. *

Đánh máy: hoi_ls
Nguồn: hoi_ls -
Tạp chí Kiến thức Ngày nay
VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 4 tháng 9 năm 2020