Saadat Hasan Manto (1912 –1955), tiểu thuyết gia, nhà báo, nhà viết kịch, nhà biên kịch, dịch giả người Pakistan, người đã hoạt động ở Ấn Độ thuộc Anh và sau đó, sau sự phân chia của Ấn Độ năm 1947, ở Pakistan.
Viết chủ yếu bằng tiếng Urdu, ông đã cho ra đời 22 tập truyện ngắn, một tiểu thuyết, năm loạt vở kịch phát thanh, năm tập tiểu luận. Những truyện ngắn hay nhất của ông được các nhà văn và nhà phê bình đánh giá cao. Ông được biết đến nhiều nhất với những câu chuyện về sự phân chia Ấn Độ mà ông phản đối ngay sau khi giành được độc lập vào năm 1947. Nhiều tác phẩm của ông đề cập đến bi kịch của sự phân chia Ấn Độ, đặc biệt nổi tiếng trong số đó là những câu chuyện trong tuyển tập “Siyah Hashiye” (Những cánh đồng đen), xuất bản năm 1948, và tuyển tập “Sarak ke kinare” (Bên đường), xuất bản năm 1953. Năm 1953, hai tuyển tập của ông được xuất bản: “Parde ke pichhe” (Phía sau bức màn)—những câu chuyện về những người công nhân trong ngành điện ảnh Ấn Độ và “Ganje farishte” (Những thiên thần hói)—tiểu luận hồi ký v.v…
Manto đã bị xét xử về tội viết tác phẩm tục tĩu sáu lần; ba lần trước năm 1947 ở Ấn Độ thuộc Anh và ba lần sau khi giành được độc lập vào năm 1947 ở Pakistan, nhưng chưa bao giờ bị kết án. Ông được công nhận là một trong những nhà văn Urdu xuất sắc nhất thế kỷ XX và là chủ đề của hai bộ phim tiểu sử: bộ phim “Manto” năm 2015, do Sarmad Khoosat đạo diễn và bộ phim “Manto” năm 2018, do Nandita Das đạo diễn.
Saadat Hasan Manto được nhận được danh hiệu cao quý nhất của nhà nước Pakistan, Huân chương Nishan-e-Imtias.
Dịch giả Nguyễn Văn Chiến giới thiệu và dịch
Nhà văn người Pakistan Saadat Hasan Manto (1912 –1955)
*
Người đánh xe Abu rất nổi tiếng và cỗ xe của anh nổi tiếng là đẹp nhất thành phố. Anh chỉ chở khách hàng thường xuyên. Mỗi ngày anh chàng kiếm được từ mười đến mười lăm rupee từ họ, số tiền này đủ để anh ta có một cuộc sống bình thường. Không giống như những người đánh xe khác, anh không thích rượu nhưng lại có đam mê là ăn mặc thời trang.
Mỗi khi cỗ xe ngựa của anh đi qua, tiếng chuông lại leng keng và mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía anh: “Abu lại đến rồi. Hãy nhìn xem anh ấy ngồi uy nghi thế nào kìa. Và chiếc khăn xếp thật lộng lẫy, anh ấy đội lệch sang một bên!”
Khi Abu nghe những lời như vậy và nhận thấy sự ngưỡng mộ trong mắt mọi người, anh kiêu hãnh ngẩng đầu lên và con ngựa Chunni của anh phóng nhanh hơn. Abu luôn giữ dây cương như thể không cần đến chúng, như thể Chunni không cần sự chỉ dẫn của chủ nhân và sẽ tiếp tục chạy một cách duyên dáng mà không cần đến cương cũng như chủ. Đôi khi tưởng chừng như Abu và Chunni là một, hay nói đúng hơn là cả cỗ xe ngựa dường như là một hiện thân của một sức mạnh khẳng định sự sống – nếu không phải Abu thì tên gọi chung của sức sống ấy là gì?
Những hành khách bị Abu từ chối thường tỏ ra tức giận với anh. Một số người chân thành mong muốn làm hại anh, phun ra những lời nguyền khủng khiếp: “Cầu xin Chúa nghiền nát sự kiêu ngạo của người đàn ông này, và cầu mong cỗ xe và con ngựa của anh ta chết đuối ở một dòng sông nào đó!”
Bộ ria mép của Abu luôn nở một nụ cười nhè nhẹ đầy kiêu hãnh. Nhiều người đánh xe ghen tị với anh. Vẻ ngoài rực rỡ của Abu đã đẩy họ vào con đường tống tiền, thủ đoạn, nợ nần – chỉ để trang trí cỗ xe bằng khung đồng thau. Nhưng không ai có thể vượt qua phong cách độc đáo và sang trọng của Abu. Không ai trong số họ có thể dụ được những khách hàng vốn chỉ thừa nhận sự hấp dẫn của Abu.
Một buổi chiều, khi Abu đang nằm yên bình trong xe ngựa dưới bóng cây và dần dần chìm vào giấc ngủ thì một giọng nói vang lên. Khẽ mở mắt ra, chàng trai nhìn thấy cô gái. Một khoảnh khắc cũng đủ để tuổi trẻ đang sung mãn của cô chinh phục trái tim người đánh xe. Cô ấy vẫn còn rất trẻ, mười sáu, mười bảy tuổi – mảnh mai, khỏe mạnh, với làn da ngăm đen, rạng rỡ. Đôi bông tai bạc đeo trên tai cô. Mái tóc của cô ấy được rẽ ngôi một cách duyên dáng, và trên chóp chiếc mũi nhọn của cô ấy có một đốm nhỏ tôn lên vẻ đẹp siêu phàm này. Cô mặc áo khoác dài và váy xanh, trên đầu quấn nhẹ một chiếc khăn vải mỏng.
– Anh sẽ đưa em đến ga xe lửa hết bao nhiêu tiền? – giọng cô gái nghe du dương.
Một nụ cười nhẹ nở trên môi Abu:
– Miễn phí cho em.
Khuôn mặt ngăm đen của người lạ ửng hồng.
– Đi xe ngựa đến ga xe lửa mất bao nhiêu tiền? – cô lặp lại.
Abu nhìn cô bằng ánh mắt tinh nghịch:
– Được rồi, một người may mắn như tôi có thể yêu cầu gì ở em đây? Thôi nào, ngồi xuống phía sau đi.
Cô gái run rẩy khẽ khàng che ngực:
– Ý anh là sao?
Abu mỉm cười:
– Nào, ngồi xuống đi. Anh đồng ý với bất kỳ khoản thanh toán nào em cho là công bằng.
Cô gái lạ mặt lưỡng lự một lúc rồi đứng lên bậc lên xuống và trèo vào trong.
– Vậy thì, chúng ta đi nhanh lên.
Abu quay lại:
– Em vội à, em có vui không?
– Anh… anh… – cô gái định nói gì đó, nhưng dừng lại giữa chừng.
Cỗ xe bắt đầu phóng đi.
Rõ ràng là người đẹp đang lo lắng. Và nụ cười tinh nghịch cũng hiện trên môi Abu.
Họ đã đi được một lúc lâu, và cô gái thực sự lo lắng:
– Không phải bây giờ là chúng ta đã đến nhà ga rồi sao?
Abu trả lời đầy ẩn ý:
– Chưa đâu. Đường đi của chúng ta đã hòa làm một.
– Anh đang nói gì vậy?
– Em không ngây thơ như em đang cố tỏ ra là vậy, đúng không? Đường đi của chúng ta thực sự đã hòa làm một. – Đó là khoảnh khắc Abu nhận ra một điều rất quan trọng. – Anh thề trên mạng sống của mình rằng anh là người hầu vĩnh viễn của em. Anh đang nói sự thật đấy.
Cô gái vuốt thẳng chiếc khăn quàng cổ. Từ đôi mắt của cô có thể thấy rõ rằng cô hiểu ý nghĩa của những lời anh vừa nói với mình. Cô xử sự với những lời ấy nhẹ nhàng và giản dị. Nhưng cô bị dằn vặt với câu hỏi: Anh ấy kiên định đến mức nào? Anh ấy thông minh và ăn mặc đẹp, nhưng liệu một phẩm chất như lòng trung thành có phải là đặc điểm của anh ấy không? Cô có nên quên nhà ga của mình, nơi mà dù sao thì chuyến tàu của cô cũng đã khởi hành vì anh ấy không?
Đột nhiên giọng nói của Abu làm cô rùng mình:
– Em đang nghĩ gì vậy, cô gái hạnh phúc ơi?
Con ngựa phi nước đại về phía trước thật vui vẻ. Một cơn gió mát thổi qua. Những cái cây với những cành cây bất động đang lao vút dọc theo con phố. Không một âm thanh nào được nghe thấy, chỉ có tiếng chuông reo vui tai.
Cúi đầu, Abu mơ về những nụ hôn ngọt ngào của người đẹp da ngăm đen. Một lúc sau, anh buộc dây cương vào băng ghế trước và với một cú nhảy khéo léo đáp xuống băng ghế sau cạnh cô gái. Cô không nói một lời nào. Abu nhiệt tình nắm lấy tay cô:
– Hãy tin anh đi!
Cô gái chỉ có thể lắp bắp:
– Làm ơn, đủ rồi… nhưng ngược lại, Abu lại bám lấy cô. Cô chống cự. Tim cô đập mạnh và nhanh như muốn bật ra khỏi lồng ngực và bay lên trời.
– Con ngựa và cỗ xe này đối với anh còn quý giá hơn cả mạng sống, – Abu nói bằng giọng nhẹ nhàng, đầy yêu thương. – Nhưng anh xin thề với vị Imam thứ mười một[1] rằng anh sẽ bán chúng và mua cho em những chiếc vòng tay vàng. Anh sẵn sàng mặc quần áo cũ rách chỉ để nâng đỡ em như một nàng công chúa! Anh thề trước Chúa toàn năng: em là tình yêu đích thực đầu tiên trong đời anh. Nếu em không là của anh, anh sẽ cắt cổ mình trước mặt em! – Đột nhiên anh ấy rời xa cô gái. – Anh không biết điều gì đã xảy ra với anh ngày hôm nay và đã làm gì. Đi thôi, bây giờ anh sẽ đưa em đến nhà ga.
– Không, – người đẹp nhẹ nhàng nói, – anh đã quá kiên trì theo đuổi em.
Abu cúi đầu.
– Anh xin lỗi. Anh đã phạm sai lầm.
– Anh có thể sửa lỗi đó không?”- Giọng cô có vẻ thách thức, như thể có ai đó đã nói với Abu, – Chúng ta hãy xem cỗ xe của anh có thể chạy nhanh hơn cỗ xe của em không.
Anh ngẩng đầu. Mắt anh sáng lên.
– Hỡi cô gái hạnh phúc…- vừa nói xong anh đặt tay cô lên lồng ngực rắn chắc của mình và trịnh trọng nói lời thề:
– Abu sẽ hy sinh mạng sống của mình vì em!”
Cô gái bám chặt tay vào người cầu hôn mình:
– Vậy hãy nắm lấy tay em.
Abu nắm chặt tay cô:
– Anhi thề bằng tuổi trẻ của em rằng từ giờ trở đi Abu sẽ là người hầu vĩnh viễn của em.
Ngày hôm sau đôi tình nhân kết hôn. Người xa lạ hóa ra là con gái của một thợ đóng giày ở Gujarat. Tên cô ấy là Inayat, hay đơn giản là Niti. Cô đến thành phố cùng người thân. Những người này đã trung thành đợi cô ở nhà ga ngay cả khi cô bị lỡ chuyến tàu sau khi gặp Abu.
Cặp đôi trẻ rất vui mừng. Người đánh xe tất nhiên không bán ngựa và xe ngựa để mua vòng tay vàng cho vợ mà tất cả tiền tiết kiệm của anh đều dành để mua những chiếc khuyên tai đắt tiền và áo choàng lụa cho cô.
Trái tim anh tràn ngập niềm vui khi nhìn thấy cô đung đưa hông trong bộ áo choàng mới.
– Anh xin thề trước năm ánh sáng thanh tịnh[2] rằng trên đời không có ai đẹp hơn em, – vừa nói anh vừa ôm vợ vào ngực. – Em là nữ hoàng của trái tim anh.
Hai con người này đang thanh thản tận hưởng những thú vui dành cho tuổi trẻ. Họ hát, cười, đi dạo nhiều, thề trung thành với nhau.
Một tháng trôi qua như vậy – đúng cho đến cái ngày định mệnh đó khi cảnh sát bắt giữ Abu. Một vụ án hình sự đã được mở ra chống lại anh ta vì nghi ngờ lạm dụng tình dục một cô gái. Niti hết lòng ủng hộ chồng, kiên quyết chứng minh anh vô tội. Nhưng bất chấp mọi nỗ lực của cô, Abu vẫn bị kết án hai năm tù. Khi tòa tuyên án, Niti lao vào vòng tay của Abu:
– Em sẽ không bao giờ trở về với bố mẹ mình,”- cô vừa nói vừa nức nở, – em sẽ ngồi ở nhà và đợi anh trở về.
Abu nhẹ nhàng chạm vào bụng cô:
– Anh chúc phúc cho em. Anh đã đưa ngựa và xe cho Dina. Đừng quên tính tiền thuê nhà với anh ta, em nhé.
Cha mẹ Niti kiên trì thuyết phục cô quay lại nhưng cô kiên quyết từ chối. Cuối cùng họ cam chịu và rút lui, để mặc cô xoay sở với số phận của chính mình. Niti bắt đầu sống một mình.
Mỗi tối Dina đưa ra năm rupee, đủ cho những chi phí hiện tại. Cô cũng có một ít tiền tiết kiệm.
Một tuần một lần, Abu và Niti gặp nhau trong tù. Trong những lần gặp gỡ này, họ luôn thiếu thời gian. Người phụ nữ bất hạnh đã dành phần lớn tiền tiết kiệm của mình để mua đồ cho Abu, nhằm mục đích hỗ trợ chồng cô. Trong một lần gặp gỡ, người đánh xe ngựa đã để ý thấy đôi tai trần của cô, anh đã tỏ ý rất lo lắng:
– Bông tai của em đâu rồi, hả Niti?
Cô gái che giấu sự thật khó chịu:
– Em đã đánh mất chúng ở đâu đó mà anh.
– Em khỏi cần phải quan tâm đến anh nhiều như vậy, em à, – Abu nói vẻ tức giận, – dù sao thì anh vẫn ổn.
Niti không nói một lời đáp lại. Thời gian dành cho lượt thăm đã hết.
Cô rời khỏi nhà tù, tạm biệt anh với nụ cười trên môi, nhưng khi về đến nhà, cô nằm vật ra giường và bật khóc. Cô khóc hàng giờ liền, vì sức khỏe của Abu đang suy yếu nhanh chóng. Trong lần gặp cuối cùng, cô hầu như không nhận ra anh. Người đánh xe ngựa bị xích trông như cái bóng nhợt nhạt của chính anh trước đây. Niti nghĩ rằng bất hạnh đã giáng xuống anh và sự chia ly của họ đã khiến anh suy kiệt. Cô không biết rằng Abu đang mắc bệnh lao và căn bệnh này di truyền trong gia đình anh. Cha của anh, mặc dù được coi là khỏe mạnh hơn nhiều so với con trai mình, nhưng đã nhanh chóng bị bệnh lao đưa xuống mồ. Anh trai của Abu được coi là một thanh niên khỏe mạnh, nhưng căn bệnh của anh cũng khiến anh héo mòn.
Bản thân Abu không hề biết gì về căn bệnh của mình cho đến phút cuối cùng, nhưng khi đối mặt với nó, anh nhanh chóng chấp nhận điều không thể tránh khỏi. Trong bệnh xá nhà tù, anh quay sang Nitya với những lời chia tay cuối cùng:
-Nếu anh biết mình phải chết khi còn quá trẻ, anh thề với Chúa toàn năng, anh đã không lấy em làm vợ. Anh đã đối xử rất bất công với em. Xin hãy tha thứ cho anh. Ngựa và xe ngựa của anh là tài sản lớn nhất của anh. Hãy chăm sóc chúng. Em hãy vuốt ve đầu con ngựa Chunni và nói với nó rằng Abu yêu quý nó lắm.
Abu qua đời, để lại một khoảng trống lớn trong thế giới của Niti. Và ngôi nhà trống rỗng.
Nhưng cô không phải là người phụ nữ sẵn sàng bỏ cuộc mà không đấu tranh. Cô đã cố gắng đương đầu với nỗi đau. Vào buổi tối, Dina đến an ủi cô:
– Đừng buồn, em yêu. Không ai có thể vượt qua Chúa. Abu là anh trai của anh. Bất cứ điều gì anh có thể làm cho em, anh sẽ làm với sự giúp đỡ của Chúa.
Lúc đầu, Niti không đoán được ý nghĩa thực sự trong lời nói của anh ta. Nhưng thời gian để tang đã qua, Dina dứt khoát nói rằng cô nên cưới anh ta. Khi nghe thấy điều này, bản năng đầu tiên của cô là lập tức đuổi anh ta ra khỏi nhà, nhưng cô quyết định cư xử tế nhị hơn:
– Anh Dina này, tôi không muốn làm điều này lần thứ hai.
Sau cuộc trò chuyện như vậy, Dina bắt đầu trì hoãn việc trả tiền thuê nhà. Anh ta thường đưa cho cô ấy năm rupee một ngày. Bây giờ – đôi khi là bốn, và đôi khi thậm chí là ba. Anh ta nói rằng thời điểm khó khăn đã đến và mọi việc không diễn ra tốt đẹp. Sau đó anh ta không xuất hiện trong hai hoặc ba ngày. Đôi khi anh ta phàn nàn rằng mình cảm thấy không khỏe và đề cập đến những vấn đề với chiếc xe. Có lúc anh ta đã đi quá xa và Niti quyết định chấm dứt chuyện đó:
– Nghe này Dina, anh không cần phải lo lắng nhiều nữa đâu. Hãy trả lại xe và ngựa cho tôi.
Sau nhiều lần thuyết phục và tán gẫu, anh ta đã trả lại tất cả. Niti nhường chiếc xe cho Maje, người được coi là bạn cũ của Abu. Vài ngày sau, anh ngỏ lời cầu hôn cô. Cô cũng từ chối anh, và ánh mắt của Maje ngay lập tức thay đổi – dường như sự ấm áp đã biến mất khỏi đó. Hoảng sợ trước ánh nhìn này, Niti lấy ngựa và xe ngựa từ tay anh ta, giao chúng cho một người đánh xe xa lạ. Người này vượt qua mọi ranh giới có thể tưởng tượng được, xuất hiện trong tình trạng say khướt vào đêm khuya để đưa tiền cho cô, bám lấy cô ngay khi được phép bước vào ngưỡng cửa. Cô đã loại bỏ anh ta một cách vô cùng khó khăn, và sau đó ngay lập tức đuổi anh ta đi.
Chiếc xe ngựa đứng im trong chuồng ngựa trong mười ngày. Các khoản nợ nhanh chóng tích tụ: thức ăn, tiền thuê chuồng – mọi thứ đều cần tiền. Nitti vô cùng bối rối: cô phải làm gì đây? Mọi người đều cố gắng kết hôn với cô, hoặc cưỡng hiếp cô, hoặc lừa dối cô. Khi cô ra ngoài phố, cô nhận được những cái nhìn khinh thường. Đến mức một đêm nọ, một gã hàng xóm trèo qua hàng rào và bắt đầu quấy rối người góa phụ bất hạnh. Nitti ngày càng bấn loạn, không biết phải làm gì.
Một ngày nọ, cô nảy ra một ý nghĩ dường như là giải pháp cho mọi vấn đề của mình: điều gì sẽ xảy ra nếu cô bắt đầu tự mình đánh xe ngựa? Quả thực, khi cô và Abu đi dạo, cô thường làm điều này. Cô biết rõ những con đường có lợi nhất về khoảng cách. Nhưng còn trong trường hợp bị dư luận chỉ trích thì sao? Về điều này, nhiều ý kiến phản đối hợp lý đã xuất hiện trong đầu cô: hoạt động như vậy có xấu xa không? Ở nhiều ngành nghề khác, phụ nữ không phải kiếm sống bằng lao động chân tay sao? Một số làm việc ở hầm mỏ, số khác làm việc ở văn phòng, hàng nghìn người làm việc đó ở nhà. Bằng cách này hay cách khác, con người ta cần phải làm việc ở đâu đó để có một miếng bánh mì trên bàn ăn chứ!
Cô đã suy nghĩ cẩn thận trong nhiều ngày và cuối cùng đã quyết định. Cô ấy cảm thấy mình có thể xử lý công việc. Sau khi cầu xin Chúa giúp đỡ, Niti đã đến chuồng ngựa vào một buổi sáng. Khi cô bắt đầu đóng ngựa vào xe ngựa, những người đánh xe ngựa có phần bối rối. Một số người cho rằng đó là một trò đùa và phá lên cười. Những người đại diện từ lâu trong nghề đã cố gắng can ngăn cô, nói rằng làm như vậy là không đứng đắn. Nhưng Niti không để ý đến họ. Cô dẫn cỗ xe ngựa ra khỏi chuồng, đánh bóng các phụ kiện bằng đồng và nhẹ nhàng nói những lời của Abu với con ngựa, rồi rời khỏi chuồng. Những người đánh xe ngựa đã sửng sốt trước kỹ năng điều khiển xe ngựa của Niti.
Cô đã suy nghĩ cẩn thận về mọi thứ trong vài ngày – và cuối cùng đã quyết định. Cô cảm thấy mình có thể đảm đương được công việc này. Sau khi cầu xin sự giúp đỡ của Chúa, một buổi sáng Niti đến chuồng ngựa. Khi con ngựa bắt đầu được buộc vào xe, những người đánh xe có phần bối rối. Một số người cho rằng đó là một trò đùa và phá lên cười. Những người đại diện cũ trong nghề đã cố gắng khuyên can cô: họ nói, làm như vậy là không đứng đắn. Nhưng Niti không để ý đến họ. Cô dẫn xe ra khỏi bãi chăn, đánh bóng các thiết bị bằng đồng và nhẹ nhàng nói với con ngựa những lời của Abu rồi cưỡi ngựa ra khỏi chuồng. Những người đánh xe đã choáng váng trước sự khéo léo của Niti khi điều khiển cỗ xe.
Tin đồn nhanh chóng lan truyền khắp thành phố rằng một người phụ nữ xinh đẹp đang đánh xe ngựa. Tin đồn này thực sự được bàn tán ở mọi ngóc ngách. Mọi người háo hức chờ đợi khoảnh khắc cô đưa xe xuống phố của họ.
Lúc đầu, các hành khách nam tránh mặt Niti, nhưng chẳng mấy chốc họ đã quen và cô gái bắt đầu kiếm được thu nhập kha khá. Cỗ xe không phải đứng yên một phút: ngay khi một hành khách khác bước xuống, một hành khách mới ngay lập tức xuất hiện ở chỗ của anh ta. Đôi khi khách hàng thậm chí còn bắt đầu cãi nhau, tranh cãi xem ai vẫy dừng xe trước.
Do công việc quá nhiều nên cô quyết định đặt ra một lịch trình nhất định: buổi sáng từ bảy giờ đến mười hai giờ, buổi trưa từ hai giờ đến bốn giờ. Sự đổi mới này hóa ra rất hữu ích vì nó cho phép cô được nghỉ ngơi đầy đủ. Con Chunni cũng rất vui. Tuy nhiên, Niti không thể không khỏi nghi ngờ và cô đoán rằng nhiều khách hàng thích cỗ xe của cô chỉ vì nó cho họ cơ hội được ở gần cô. Họ bảo cô đánh xe đi không điểm đến và kể những câu chuyện cười tục tĩu ở phía sau. Họ tiếp cận cô với một số câu hỏi, chỉ để nghe thấy giọng nói của cô. Đôi khi cô có cảm giác như có người đang bí mật mua chuộc mình.
Cô không thể không chú ý đến việc những người đánh xe khác tỏ ra thù địch với cô. Tuy nhiên, cô không hề lay chuyển. Niềm tin vào sức mạnh của chính mình đã hỗ trợ cô.
Rồi một buổi sáng, Niti bị triệu tập đến tòa thị chính và được thông báo rằng giấy phép của cô sắp bị thu hồi. Lý do là theo luật, phụ nữ không được phép lái xe ngựa. Niti sửng sốt hỏi thẳng:
– Thưa ngài, tại sao phụ nữ không được phép làm việc này?
– Cấm, – câu trả lời khô khốc vang lên. – Giấy phép của cô đã bị thu hồi.
Niti vẫn khăng khăng:
– Thưa ngài, ngài có thể lấy ngựa và xe ngựa của tôi, nhưng hãy cho tôi một câu trả lời rõ ràng: tại sao phụ nữ không được phép lái xe ngựa? Phụ nữ có thể kiếm sống bằng nghề xay ngũ cốc trong nhà máy. Phụ nữ có thể kiếm sống bằng nghề đội những chiếc giỏ đựng rác nặng trên đầu. Phụ nữ có thể kiếm sống bằng nghề sàng than trong các mỏ. Tại sao tôi không thể kiếm sống bằng nghề lái xe ngựa? Đó là việc duy nhất tôi biết làm. Xe ngựa và ngựa là của người chồng quá cố của tôi – tại sao tôi không thể sử dụng chúng cho mục đích đã định? Làm sao tôi có thể kiếm sống?” Thưa ngài, xin hãy thương xót. Tại sao ngài lại lấy đi khoản thu nhập khó khăn nhưng lương thiện của tôi? Bây giờ tôi phải làm gì? Ngài hãy trả lời đi!
Than ôi, viên chức thành phố đã kiên quyết:
– Hãy đi ra chợ và tìm một chỗ cho mình ở đó. Điều này sẽ giúp cô kiếm được nhiều hơn.
Nghe những lời này, Niti thực sự – con người bên trong cô ấy – tan thành tro bụi.
– Vâng, thưa ngài, – cô nhẹ nhàng trả lời, kết thúc cuộc trò chuyện.
Chẳng bao lâu sau, người phụ nữ đã bán ngựa và xe ngựa với giá mà cô có thể ngã giá được, và ngay sau đó cô đến mộ của Abu. Cô đứng im lặng một lúc gần bia mộ. Đôi mắt cô khô khốc, giống như một sa mạc không chút hơi ẩm. Đôi môi của người phụ nữ hé mở và cô nói:
– Abu anh ơi, Niti của anh đã chết trong bức tường của chính quyền thành phố rồi…
Sau đó cô rời đi.
Ngày hôm sau cô nộp đơn đăng ký theo yêu cầu. Gần như ngay lập tức cô được cấp giấy phép cho phép cô bán thân xác của mình.
SAADAT HASAN MANTO
NGUYỄN VĂN CHIẾN
(Dịch từ bản tiếng Nga do K.V. Strukov dịch từ nguyên bản tiếng Urdu)
Chú thích:
[1] Iman thứ mười một: Đối với đa số tín hữu Islam giáo Shi‘a, các Imam là các giáo sĩ tuyệt đối vô ngộ của cộng đồng Islam giáo, chỉ xếp sau tiên tri Muhammad. Iman thứ mười một là Hasan ibn Ali ibn Muhammad (khoảng 846 – 874 ), hay được biết đến với cái tên Hasan al-Askari, hậu duệ của nhà tiên tri Hồi giáo Muhammad. Ông được coi là người thứ mười một trong số Mười hai Imam, kế vị cha mình, Ali al-Hadi. (ND)
[2] Năm Ánh Sáng Thanh Tịnh: Giáo lý thiết yếu trong truyền thống Dzogchen của tôn giáo bản địa Tây Tạng Bon và Phật giáo Tây Tạng. Đối với những người bị mê hoặc thì chỉ vật chất dường như xuất hiện. Điều này là do không nhận ra năm ánh sáng. Vật chất bao gồm mahābhūta hoặc các nguyên tố cổ điển, cụ thể là: không gian, không khí, nước, lửa, đất. Kiến thức (rigpa) là sự vắng mặt của ảo tưởng liên quan đến sự hiển thị của năm ánh sáng. Mức độ nhận thức này được gọi là thân cầu vồng. (ND)
Nguồn: https://vanhocsaigon.com
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 25 tháng 3 năm 2025