Chập tối một ngày cuối thu năm Tân-tị, niên hiệu Càn-Phù hữu-đạo thứ ba, đời Lý Thái-Tông, cả một vùng Đảng Ro tựa hồ đã im hơi nép bóng dưới màn sương tỏa mịt mù. Cửa nhà nào nhà nấy đóng im ỉm. Trên các lối đi dầy xác lá, tuyệt nhiên không một bóng người. Cả những con chó hình như cũng vâng theo một lệnh bí mật nào đó, nên không con nào cắn sủa. Sự lặng lẽ gần thành ra một cái gì rờ mó được. Nó tiếp xúc với giác quan người ta chẳng khác một vật hữu hình, bí mật, đầy đe dọa.
Nhưng, vào khoảng đầu canh hai, ở trên con đường đất gồ ghề chạy thẳng tới một nếp nhà gỗ, mái thấp lụp xụp, một bóng người bỗng từ đâu hiện ra, đi êm êm như một giống ma quái hiện hình…
Phi Thống — một thứ người có đuôi — chăng?
Hay là Ma Cà Rồng, nhân canh khuya, mò đi tìm uế vật?
Ấy thực là một điều khó hiểu! Và ta, ta hãy thử nín lặng chờ xem nó làm những gì…
Nó đứng lại trước ngôi nhà thấp ; nó nghe ngóng hồi lâu rồi, thình lình, xô cửa bước vào trong nhà.
Một đám đông ngẩng nhìn: Ồ, Quái Đầu Đà!
Họ nghĩ thầm như vậy thôi, chứ tuyệt nhiên không ai hé răng nói nửa lời nào. Họ lặng lẽ ngồi xít lại với nhau, quanh đống củi đương cháy ngùn ngụt, để nhường cho lão già mới đến một chỗ xứng đáng.
Gần bọn đàn ông ngồi xổm này, là một đám vừa đàn bà vừa con gái lẫn lộn. Họ thản nhiên xe sợi, dệt cửi với những cử động đều như máy.
Năm bảy chiếc rễ thông vừa cháy vừa phun khói cố chiếu sáng cho cuộc hội họp kỳ quặc.
Những người đàn ông phần nhiều đều có những bộ mặt dữ tợn, thô lỗ và những thân hình cao lớn. Họ hút thuốc lá nhồi vào những cối điếu cau bằng đá gọt hình đầu các thú vật, như diều hâu, hổ, gấu chẳng hạn.
Bọn đàn bà, mặc cùng một kiểu áo bông rộng tay bọc vải chàm. Nhan-sắc họ chẳng có gì, trừ một vài người đẹp một cách quái dị.
Tất cả vẫn im thin-thít.
Họ không nói không phải vì họ không có nhiều chuyện quan trọng để nói.
Họ đương cố gắng chờ những tin tức mà ông già vừa vào kia đem đến cho họ vậy.
Ấy là một đạo-sĩ, một thày mo, một thày tạo, theo tiếng gọi của dân đường rừng.
Không ai rõ ông ta bao nhiêu tuổi. Họ chỉ biết ông là người có rất nhiều phép thần thông, biến hóa. Họ sợ ông vì ông có một thân hình, một trạng mạo thực hợp với cái tên Quái Đầu Đà, chẳng hiểu từ ai đặt cho ông.
Quái Đầu Đà thực là một thứ quái-vật.
Gọi lão là người cố-nhiên không đúng, nhưng bảo lão là đười ươi, khỉ, hay vượn cũng không phải.
Lão có một cái đầu nhọn hoắt, một cái đầu không tóc, chỉ lơ thơ một ít lông mềm đỏ quạch. Mặt lão mỏng như sống con dao quắm, và nhăn chẳng khác cái vỏ một quả thị rụng. Lão cao không kém chín thước, nhưng chân tay lão ngẳng nghiu và cong queo đến nực cười.
Lão không hay nói, nhưng hễ cất tiếng nói thì ai cùng phải giật mình. Là bởi giọng nói của lão oang oang như tiếng lệnh vỡ.
Trẻ con đương khóc mà thấy lão là y như nín bặt. Ai ra ngõ mà gặp Quái Đầu Đà, tức là người ấy gặp sự không may, dù làm việc gì cũng hỏng?
Lão già nhìn đám đông nín lặng quanh mình một lượt đoạn ngồi lên một bó củi khô. Lão giở điếu cau, châm lửa rít mấy hơi ngấu nghiến, nhổ vọt một tia nước rãi vào bếp lửa rồi, cũng thình lình như lão đến, Đầu Đà cất tiếng nói:
– Các người có biết tin gì không?
Một lão già khác:
– Có nghe mang máng thôi.
Quái Đầu Đà nhìn cử tọa:
– Không ai biết gì hơn à?
Một chàng tuổi trẻ đứng dậy:
– Chúng tôi chỉ nghe nói: Ninh-Đức Hoàng-hậu vừa cùng với đệ nhị Hoàng-tử là Nùng Trí-Cao từ Thất-Tuyền về đây…
Quái Đầu Đà gật:
– Phải rồi!
Chàng tuổi trẻ liếp:
– Nhưng chúng tôi chỉ mới nghe tin mà chưa được nhìn thấy Ninh-Đức Hoàng-hậu và Nùng Hoàng-tử..
Một vài tiếng khác:
– Ai trông thấy Hoàng-tử và nhất là Hoàng-hậu được…
Chàng tuổi trẻ vặn:
– Sao lại không ai trông thấy được?
Tiếng một người đàn bà:
– Vì rằng hễ ai nhìn thấy A Nùng (tên tục của Ninh-Đức Hoàng-hậu) người ấy sẽ mất đầu ngay tức khắc.
Quái Đấu Đà lẩm bẩm.
– Cậu ấy đúng!… Nhưng ta thì khắc biết rõ cái lai lịch bà nữa.
Mọi người xôn xao:
– Thật à?.. Một sự may quá nhỉ! Đầu Đà nói cho chúng tôi nghe về A Nùng với…
– A Nùng hình như một đứa con hoang của một đạo-sĩ với một con đười-ươi cái thì phải. Trước khi kết duyên với Nùng Tồn-Phúc, tức Chiêu-Thánh Hoàng-đế, A Nùng vẫn làm chúa ở một động Mèo khuất nẻo về phía Nam Đảng Ro này. Bà sống khác hẳn người thường, trong một hang đá lạnh lẽo.
Họa hoằn lắm bà mới hiện ra. Những giờ bà hiện ra là giờ Ngọ hoặc giờ Tí nửa đêm.
Bà hiện ra như một loài yêu ma, đứng chót vót mãi tận trên đỉnh núi cao hoặc nhảy thoăn thoắt từ tảng đá này sang tảng đá khác.
Ấy là một người đàn bà trắng như mặt trăng, có một mớ tóc vàng cũng như tơ. Bà ta khi hiện khi ẩn, lắm lúc rú lên những tiếng ghê rợn, như tiếng kẻ tội nhân bị lột da nhồi trấu.
Những đêm hè oi ả, người ta thường nghe A Nùng nhảy rỡn ầm ầm ngoài suối. Hình như những lúc ấy, da thịt A Nùng cháy lên như lửa và cần được ngâm vào nước lạnh cho ngọn lửa dịu bớt đi.
A Nùng cũng hay cưỡi con Bạch Long mã phi ra phố hoặc vào giữa nơi họp chợ.
Ai nấy, thoáng nghe tiếng nhạc đồng kêu lang rang, đều lập tức phäi nằm sấp xuống đất và lấy nón mũ che kín mặt lại.
Nhưng đấy là nói những cuộc chơi đùa bất thình lình của A Nùng. Thường thì mỗi lần có việc phải ra ngoài, A Nùng đã có lệnh báo trước để nhân dân biết mà đóng cửa. Là bởi vì rằng A Nùng không bao giờ tha thứ cho kẻ nào dám nhìn trộm bà hết. Kẻ phạm tội sẽ phải giết bằng trăm mũi tên, thân thể sẽ phải băm vằm ra và trộn lẫn vào cháo chó!
Bọn đàn bà rùng mình nhìn nhau:
– Dữ quá nhỉ!
Quái Đầu Đà gật gù:
– Dữ thật! Tuy thế một người đàn ông đã trị nổi A Nùng…
Chàng tuổi trẻ náo nức:
– Câu chuyện hẳn là hay lắm?…
– Ừ!
– Quái Đầu Đà làm ơn cho chúng tôi nghe luôn thể nào!
– Nguyên một hôm, A Nùng có việc phải ra phố. Tin quan trọng ấy đã báo trước cho mọi người. Các nhà đã đóng cửa im ỉm. Chợ đương họp cũng phải tan ngay tức khắc. A Nùng nằm rạp trên lưng con Bạch Long mã, vừa ra khỏi cửa động chừng hơn một dặm, bỗng một chàng trai trẻ không biết từ đâu mọc ra như cái cây to ở giữa đường.
A Nùng ngạc nhiên, gò mạnh giây cương làm cho con Bạch Long mã rách mép.
Sự ngạc-nhiên của bà chúa Liễu-sơn chớp mắt đổi ra một trận lôi đình, bởi chàng tuổi trẻ không những không tỏ ý sợ hãi mà còn làm ra mặt khiêu-khích nữa.
Hai mắt A Nùng nẩy lửa.
Bà quát hỏi:
– Mày là đứa nào mà dám cản lối ngựa của ta?
Chàng tuổi trẻ có cái mình lẳn tròn và mềm mại như mình con báo, một vẻ khôi ngô lạ lùng, khẽ mỉm cười:
– Ta là ta! Nếu đường này làm ra để cho ngựa của A Nùng đi thì nó cũng làm ra để cho ta đi chứ sao!
A Nùng gầm lên một tiếng ghê-rợn.
Đồng thời, một ánh gươm lòe sáng.
Nhưng nhanh như chớp, chàng tuổi trẻ đã ngồi thụp xuống trước đầu ngựa của A Nùng. Chàng nắm lấy hai chân trước con long mã, nhấc bổng lên khỏi mặt đất và lẳng mạnh một cái.
Cử tọa hớn hở:
– Con ngựa ngã chứ?
Quái Đầu Đà mỉm cười:
– Và cả A Nùng cũng lăn kềnh ra trên mặt đất!
– Thế rồi, hai người xông vào đánh nhau có đến non trăm hợp. Chàng tuổi trẻ càng đánh càng hăng. A Nùng, trái lại, phần là sức đàn bà, phần tức giận thái quá nên dần dần thua sút. Chàng tuổi trẻ lừa lúc A Nùng hở cơ liền một tay nắm thắt lưng, một tay nắm lấy A Nùng quật xuống.
– Ồ...
Quái Đầu Đà đợi cho sự náo-nức của cử-tọa dẹp xuống rồi mới tiếp theo:
– A Nùng cảm cái tài võ dũng của chàng tuổi trẻ, lại nhân thấy chàng là người khôi ngô lẫm-liệt nên đem lòng yêu mến và lấy chàng làm chồng…
– A, Nùng Tồn-Phúc phải không?
Quái Đầu Đà gật:
– Phải rồi, chính Nùng Tồn-Phúc, tức Chiêu-Thánh Hoàng-đế, ông vua rất anh hùng của chúng ta. Ngài đã chống nhau với các vua nhà Lý là có ý định làm vua nước Nam, lập nên một nước mới.
Chàng tuổi trẻ hỏi:
– Sao bảo ngài có ý phục-hưng nhà Lê?
Quái Đầu Đà gật gù:
– Ấy chỉ là một cách nói. Nhà Lê lấy ngôi của nhà Đinh thì nhà Lý lại lấy ngôi của nhà Lê. Thiên-hạ là của chung, ai có đức, có tài thì người ấy được hưởng? Chiêu-Thánh Hoàng-đế vì muốn có một cớ chính đáng để ra quân nên mới nói thác chuyện phù Lê để thu nhân tâm, các người hiểu chưa?
– Hiểu rồi!… Hiểu rồi!…
Chàng tuổi trẻ chép miệng:
– Chỉ tiếc rằng công việc của ngài mới làm được trong vòng có sáu tháng trời thì Ngài và Thái-tử Nùng Trí-Thông trúng kế của vua Lý Thái-Tông mà bị chết cả, thủ cấp phải đem bêu ở Thăng-Long ba ngày…
Quái Đầu Đà xua tay nói:
– Thắng bại có làm gì. Cổ nhân đã nói: đừng đem thành bại luận anh hùng. Ta chỉ nên biết rằng chúng ta đã có được một vị chúa tể xứng đáng. Nhờ Ngài mà ta được thiên hạ nể sợ, không dám coi ta như một tụi mán, mường ngu dại mãi mãi.
Cử tọa đồng thanh:
– Phải rồi, Quái Đầu Đà nói rất phải, chúng tôi chịu lắm.
Quái Đầu Đà vuốt râu nói tiếp:
– Tôi hỏi các người câu này nhé?
– Vâng. Đầu Đà cứ hỏi.
– Hiện có mặt tại đây Hoàng Sư Mật, Đoàn Hồng, Nguyễn Dư Khương, Đinh Ứng Long, bốn vị đầu lĩnh đã từng phù tá Chiêu-Thánh Hoàng-đế. Ngoài ra, các người đều là những tay võ dũng can đảm cả. Vậy thì nếu nay Hoàng-tử Nùng Trí-Cao lại dựng cờ khởi sự một phen nữa, các người có sẵn sàng đem thân ra giúp Hoàng-tử để làm nên nghiệp lớn, lưu tiếng thơm lại muôn đời sau chăng?
– A, gì chứ điều ấy thì chúng tôi xin ký cả hai tay!…
Đầu Đà nhếch một nụ cười gần như mếu:
– Ta đoán không sai mà! Ta đoán trước thể nào các người cũng còn nhớ ơn chúa cũ và sẵn lòng giúp giập tân-quân mà!
Đoàn Hồng hỏi:
– Nhưng, có điều cần biết là đệ nhị Hoàng-tử liệu có chí lớn làm như Hoàng-phụ khi xưa chăng?
Đầu Đà nhìn Đoàn Hồng bằng đôi mắt sáng quắc:
– Điều ấy thì còn phải nghi-ngờ gì nữa! Ninh-Đức Hoàng-hậu đã là một người đàn bà phi-thường, tất không đời nào lại cam chịu sống một đời tối tăm giữa thảo mộc. Vả lại, chẳng cần phải đoán già, đoán non gì nữa. Chỉ ngày mai đây, lệnh mộ quân thế nào cũng ban bố ra khắp vùng này và ta, ta nguyện sẽ đem những ngày cuối cùng của đời ta ra phù tá Nùng Trí-Cao Hoàng-tử.
– Chúng tôi cũng vậy!
Đám đông dứt lời, ai nấy cùng im lặng. Họ mơ màng nhìn ngọn lửa bốc, hình như đã trông thấy cái cảnh tượng kỳ sĩ rỡ ràng sắp lại bày ra một lần nữa ở chỗ nước non cùng tịch.
Bên ngoài, từng cơn gió lạnh thổi ào ào. Lá cây rụng sột soạt. Sương trắng càng lâu càng tỏa mịt mùng như bao phủ lấy một vùng rừng núi với cái bí-mật hãi-hùng và oanh liệt của nó….
Chương I
Tiến >>
bản PDF của gallica.bnf.fr - Đánh máy: Lê Thy
Nguồn: https://baovecovang2012.wordpress.com/
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 5 tháng 2 năm 2025