Lỡ Một Kiếp Người

lê văn trương

Lỡ một kiếp người

ANH ta trông thấy tôi, gọi ầm lên như người kêu cứu, làm cho những người đi ở phố đứng dừng cả lại, tưởng có đám đánh nhau. Anh ta nắm vai tôi, nắm tay tôi, lắc-lắc mãi, dường như để được tin chắc rằng người anh gặp là tôi, chính tôi. Rồi anh nói, rồi anh hỏi, khiến tôi chẳng còn biết đằng nào mà đáp nữa:

— Thế nào? Anh vẫn ở Hanoi đấy chứ? Anh chắc không rời Hanoi được. Vì tôi nhớ mang máng, anh đã viết ở đâu rằng: Hanoi là người vợ tào-khang của các nhà nghệ-sĩ, muốn đi đâu thi đi, muốn lăng băng thế nào thì lăng băng, rồi cũng có lúc phải quay về với cái gái sề. À! Độ này anh có viết được nhiều không? Tôi vẫn đọc anh luôn đấy. Thì anh bảo ở trên ấy, ngoài sự đọc sách, còn thú-vui gì nữa. À, mà sao mấy lần anh hẹn lên, rồi chẳng thấy lên. Tôi cứ đợi anh mãi để cùng vào rừng săn-bắn. Mà chắc anh, còn vui với Hanoi nhớ gì đến tôi!

Tôi để cho cái luồng sóng tình-cảm vồ-vập của ông bạn xa-cách lâu ngày ấy qua đi, cho tiếng thở-dài qua đi, cái tiếng thở dài của con người mà bề ngcài sốc-nổi dấu một tấm lòng giầu tình-cảm, rồi thủng-thẳng đáp:

— Vâng, tôi bận, nhưng tôi không quên anh đâu. Tôi vẫn nhớ những buổi sải ngựa trên đồn điền anh, những cuộc săn vòng quanh miền Lâm - Thao, cũng như vẫn nhớ cái tình bạn khăng khít giữa chúng ta. Nhưng, như lời anh vừa nói đó: Hanoi là một người vợ tào-khang, không những không bỏ được nó, đến rời nó, cũng khó thay. Những công việc, những thói quen, những giây liên-lạc về tình cảm nó ràng buộc ta lỏng mà chặt lắm đấy, anh Thái ạ.

Anh Vương-hữu-Thái nhìn tôi rồi gật gật, như tin ở lời nói của tôi, tin ở cái tình bạn của tôi đối với anh, dẫu tháng, năm xa cách cũng vẫn như ngày còn cùng học một lớp, cùng ngồi một ghế.

— Nhưng, thế nào trước Tết anh cũng phải lên với tôi một tháng.

Tôi khẽ lắc đầu:

— Không thể hẹn trước với anh được.

Sang năm, sang năm nữa, hay ngày mai, thì giờ cũng như những điều dự định của tôi, không có gì chắc trước được. Có điều nếu có dịp xa Hà-thành được, là tôi sẽ lên đồn điền anh ngay.

— Anh tha thiết Hanoi đến thế kia ư? Hay lại bị phu-nhân giữ cẳng?

Tôi cười:

— Các bà nó nhà tôi ấy à? Tha hồ! Tôi muốn ở, muốn đi, mặc sức. Các bà ấy lại mong cho tôi đi là khác, bởi các bà ấy đã có chứng cớ rằng mỗi lần đi vắng lâu là một lần về để yêu các bà ấy hơn lên. À, thế nào? Nghe nói năm ngoái anh đã tục-huyền rồi phải không?

Anh Thái gật đầu, rồi lắc đầu, hai cử chỉ liền nhau ấy lộ ra một cái gì như ngao ngán:

— Có, cũng như không. Lần trước, ly dị lần này séparation de corps (1).

Tôi ngạc nhiên:

— Sao lần này cũng lại thế nhỉ? Tôi tưởng một người như anh thừa những điều kiện để có được một người vợ. Có lẽ số anh vất vả. Và tôi chắc phần lỗi không phải là về anh, vì tôi cứ xem như lần trước anh đối với chị ấy thế nào thì anh không phải là người không biết chiều vợ.

Anh Thái, lần thứ hai trong buổi gặp tôi ấy, buông tiếng thở dài, và trong tiếng thở dài lần này, tôi cảm thấy hàm chứa một buồn nản, một chán chường mênh-mang.

— Tại cả hai bên. Buồn lắm, anh ạ,

Nghe tiếng thở dài ấy, và thứ nhất là ngắm đôi mắt, đôi mắt tuy sắc và long lanh sáng, nhưng nhiều lúc lờ đờ như bọc trong một tấm màn âm thầm, tôi biết bạn tôi buồn lắm. Tôi biết, trong tấm thân cao lớn, hùng-dũng, trong dáng-điệu, cử chỉ sảng khoái, khẳng khái, của con người kẻ cả ấy, có ngầm chứa một tâm sự gì đây.

Là bạn, tôi cùng chia cái buồn mà tôi cảm thấy rằng bạn tôi đang mang nặng bên lòng. Là kẻ luôn luôn đi tìm một chân lý nhân đạo trong lòng người, luôn luôn cố đào sâu vào tình đời, tôi ‘‘ngửi’’ thấy một cái kho tình cảm đầy. Tôi nhất định không bỏ lỡ một dịp để biết thêm một tấm lòng với tất cả những cái sâu thẳm-, thấm thía của nó.

Tôi liền chỉ bộ râu lún phún đen trên mép và giòng tóc mai rậm dài của anh Thái, rồi cười:

— Tại râu, tóc anh lúc nào cũng như lông gấu thế kia, chả trách các mợ không chịu được. Thôi, vào hiệu hớt tóc ‘‘bạt’’ nó đi, rồi chúng ta đi chén, rồi chúng ta xuống xóm. Đã lâu lắm, chúng ta chưa cảm khái với nhau lần nào. Hôm nay, tôi quyết ‘‘bắt’’ anh cho tôi một đêm. Điều đó, chắc anh không từ chối, vì tôi biết anh không có họ hàng thân thích gì ở Hanoi. Mà bạn, thì không ai thân bằng tôi. Anh vẫn thưòrng nói thế.

Rồi, không để anh kịp nói ra rằng nhận lời hay không, tôi kéo anh đi về phía một hiệu thợ cạo gần đấy. Và tôi nói, giọng cương quyết:

— Và thứ nhất là anh phải để yên cái portefeuille (cái ví) của anh đêm tay, cũng như để yên nó những ngày anh còn ở Hanoi. Vì tôi nhất định ‘‘bắt’’ anh trong những ngày anh chưa lên đồn điền. Anh nên biết rằng tôi tuy là nhà văn, nhưng trước kia tôi cũng là điền chủ, là thầu khoán như anh.

Anh Vương hữu Thái ngần ngừ một lúc rồi:

- Đêm nay thì xin vâng. Nhưng đêm nay, tôi đã ‘‘sí-chỗ’’ rồi, anh phải chiều tôi.

Tôi cười:

— Thế ư? Nếu thế thì còn gì bằng! Nhưng ở đâu thế?

— Khâm-Thiên,

— Có khá không?

— Ngất lắm. 137 ấy mà!

Tôi gật gật đầu:

— À, tôi biết rồi. Chị Tuyết-Anh. Người thì khá đấy, nhưng không biết lòng ruột thế nào. Anh Thái cười, cái cười sắc và xâu:

— Lòng ruột nó ấy à? Lòng ruột nó ở trong cái này này!

Vừa nói, anh vừa lấy tay vỗ vỗ vào túi áo trên, đựng cái ví da dầy cộp.

Cái vẻ ‘‘tăng-phủ tú’’; trong lời nói, trong cử chỉ ấy, khiến tôi đồ chừng rằng: anh bạn tôi đã đau đớn nhiều đây, cho nên bây giờ mới nói những câu nói mới nghe như khinh người rẻ của ấy. Chứ thực ra, cái khuôn mặt nở nang, lồ-lộ, cái giọng nói bô bô, bộc lộ cái phần thẳng thắn, của một tâm hồn, không phải một con người khinh bạc mà có được. Chẳng qua người này ăn chua nuốt cay đã nhiều, cho nên trong tiếng nói mới thoảng cái dư vị tranh-ớt của thế- tình đấy thôi.

Anh ta đặt cái dọc-tẩu rgang ngực, mắt lim-dim như dõi - theo những hình-ảnh mơ-hồ nhẩy múa trong làn khói thuốc một lúc rồi:

— Lắm lúc, tôi cũng muốn nghiện quách. Anh tính, một mình trên một cái đồn điền vẳng vẻ, giữa rừng, lắm lúc mưa lũ nó chút xuống hàng tháng, lành đến như bụt cũng muốn phát điên lên vì buồn.

Vân, một đào nương ngồi bên tôi, hỏi ngay:

— Thế chị ấy đâu?

Thái đáp:

— Anh chưa có vợ.

Vân nhìn Tuyết- Anh, lúc ấy đang luồn ngón tay vào mái tóc Thái, rồi nói bằng một cái giọng riễu cợt:

— Chắc là vì có chị tôi đây, cho nên anh

mới nói thế. Anh mà lại chưa có vợ!

Tuyết-Anh nghiêm sắc mặt:

— Đừng nói thế em. Anh Thái là người lớn, chị chắc anh ấy không nói dối. Mà một khi đã yêu nhau, thì chưa có vợ, hay có vợ rồi, điều ấy có nghĩa gì! Với lại anh Thái đã gắn bó trăm năm tơ tóc gì với chúng mình mà bảo anh ấy cần phải nói dối. Đây này, điều này tôi nói thật: chẳng qua anh ấy thích tôi, tôi thích anh ấy, gặp mặt thì cũng vui, rồi lại mỗi người một ngã, thế thôi.

Thái gật đầu:

— Mình nói thế mà đúng đấy. Chúng ta

gặp nhau lúc nào, hẵng biết lúc ấy. Thích nhau thì gần nhau, thẳng thắn mà cùng vui, có việc thì chia tay. Miễn là đừng có dối nhau, đừng có hứa hão để rồi trông thấy nhau mà thêm thẹn.

Vàn nói sen vào:

— Như thế, không gọi là tình yêu được. Thái thẳng thẳng buông:

— Cô đầu với quan-viên, làm gì có tình yêu.

— Thế thì chán chết!

— Thế mà người ta vẫn sống đấy. Người ta vẫn làm cô đầu, vẫn làm quan-viên đấy!

Vân nhìn tôi bằng một cái nhìn tình tứ:

— Em thì giá gặp được người nào yêu em, thành thực yêu em, là em cũng yêu ngay, yêu thành thực!

Tôi nói đùa:

— Gặp người như anh, chẳng hạn?

Vân phát vào đùi tôi:

— Cái anh này! Chỉ được cái vơ vào!

Tôi cười:

— Ấy, vơ vào chưa biết có nên chuyện gì không, chứ lại ruỗi ra như anh chị đây ấy à?

Thì còn ‘‘ngẫu’’ gì nữa!

Thái quàng một tay quanh lưng Tuyết-Anh.

— Ấy thế mà chúng tôi yêu nhau đáo-để, Nghĩa là không lần nào gặp nhau mà chúng

tôi không vui. Có phải thế không, mình?

Anh Thái vừa nói, vừa kéo Tuyết-Anh ngã xuống lòng mình, áp má nàng vào má mình. Tuyết- Anh khẽ nhắm đôi mắt nhung, như sung sướng nhận cái cử-chỉ yêu đương. Một lúc lâu, nàng từ từ ngồi dậy, nhìn Thái bằng một cái nhìn tha thiết:

— Lắm lúc gần mình, tôi cũng thấy yêu mình đáo để.

Thái cười:

— Thế nghĩa là xa thì lại thấy không yêu nữa, chứ gì?

Tuyết-Anh trầm-ngâm một lúc rồi gật đầu:

— Có lẽ thế.

Thấy lời nói thẳng thắn ấy ở miệng một người kỹ nữ, tôi không thể không khen nàng.

— Chị thế mà thành thực đấy. Cái thành thực hiếm có ở trong làng son phấn, - Xin lỗi chị. - Kẻ khác thì đã giẫy nẩy lên, và nói trái lại.

Thái vỗ vào vai Tuyết-Anh, rồi cũng nói:

— Không, tôi biết, em Tuyết - Anh là người vừa biết điều, vừa không thớ-lợ, cho nên tôi rất quý. — Ấy nói thế, không phải để ‘‘chú’’ lên râu đâu đấy nhé

Tuyết-Anh lừ mắt:

— Thì ai đã làm gì mà chưa chi đã vội chẹn

họng!

Thái rấm-rẳn:

— Ấy tôi cứ nói trước đi thế thì vừa.

Im lặng một lác, rồi Tuyết-Anh vùng ngồi giậy, nói bằng một giọng tha-thiết;

— Này, lắm lúc tôi thấy tôi yêu anh ấy đáo-để, yêu ghê yêu gớm.

— Thế có bao giờ mình nghĩ đến sự lấy anh không?

Tuyết-Anh ngẫm- nghĩ một lúc, không trả lời ngay. Tôi liền bảo nàng:

— Cái tiếng lòng mà lâu chưa bật ra như thế, thì tình yêu cũng khả nghi lắm!

Tuyết-Anh ngửng phắt đầu lên:

— Không, yêu thì nhiều lúc em yêu lắm, nhưng chưa bao giờ em nghĩ đến sự lấy anh ấy.

Thái ngẩng nhìn Tuyết-Anh rồi hỏi:

— Tại sao?

Không ngần ngừ, Tuyết-Anh trả lời:

— Lựa là anh còn phải hỏi em câu ấy?

Tôi nghe cái giọng nói của nàng trầm - lặng như một giòng nước chảy dưới chân cầu, nó mang-máng một hơi buồn của sự đành lòng, như con nước đành lòng với sự chẫy-chôi. Tôi thấy cái dung nhan hoa phấn của nàng như mơ hồ sau một tấm màn âm thầm chi đó vừa buông rủ xuống, như bóng hoàng hôn vừa buông rủ xuống cánh đồng cuối xuân. Lòng tôi ngùi-ngùi ; cái ngùi-ngùi của một tấm lòng trước một sự thật buồn thảm.

Phải, một cô gái giang hồ, mà lại là cô gái giang hồ biết điều như Tuyết-Anh có bao giờ lại đi dại dột mà nghĩ tới, mà nói đến sự kết fóc xe tơ với một người hơn nàng ở tất cả các phương diện. Tiền bạc, danh vọng, cái gì ở anh Thái cũng không cho Tuyết Anh nghĩ đến sự ghép liền đời nàng với đời anh.

Vì, ít ra, trong cái đoạn đời buôn phấn bán hương của nàng, đã hơn một lần nàng trao thân gửi phận, trong hi vọng, với một vài trang anh tuấn nào đó tới lui nhà nàng, để rồi mà buồn tủi, mà xót xa lúc vỡ mộng.

Thế cho nên bây giờ, nàng rút cái quân bài cuối cùng của canh bạc đời nàng: cứ phóng tâm. Cứ biết cái phút hiện-tại.

Trông cặp mắt to và sáng, cái trán cao, cái cằm nở của Tuyết-Anh, tôi nghĩ thầm: Người đàn bà này, ít ra cũng có một vài cái thực của tâm hồn đây. Và tâm hồn này cũng có một vài điểm đẹp đẽ đây.

Tôi tuy không tin ở tướng số, ở sự giầu,

nghèo, sang, hèn định sẵn từ đâu, nhưng tôi cũng biết trông diện mạo mà đoán được tính tình. Cái con người:

Khuôn giănq đầy đặn, nét ngài nở nang này, tất không đến nỗi có những cái thấp hèn của những cái đầu mặt giơi, tai chuột.

— Anh hỏi chứ! Vì, biết đâu...

Anh Thái nói lửng một câu thế, rồi với chiếc tiêm chấm vào hộp thuốc.

Tôi nắm tay anh Thái, hỏi bằng một giọng rất thân thiết:

— Anh có còn nghĩ đến sự lấy vợ nữa không?

Anh tiêm thuốc, hút luôn một hồi ba điếu rồi chậm rãi:

— Tôi mất cái ‘‘vĩ’’ở những người đàn bà mà ta gọi là ‘‘tử-tế’’ rồi. Tôi đâm sợ những con gái nhà ‘‘lương-gia’’. Họ tầm thường lắm. Họ chỉ có cái ham muốn những sự hưởng thụ làm sẵn. Cũng có người khi bước chân về nhà chồng là mang về nhà chồng cái lòng mong muốn làm vợ, làm mẹ, làm những người vợ, người mẹ mẫu mực đấy. Mà những người như thế, rất hiếm, rất khó gặp. Anh tính, một người bận rộn như tôi, cần phải kinh doanh, nay đó mai đây như tôi, còn có thì giờ đâu mà theo đuổi những cuộc tình duyên năm lừa bẩy lọc. Thế mà anh bảo không mất thì giờ, không lừa lọc, không thử thách, không trải qua những trường hợp, những phút nghiêng ngửa nó lột trần lòng con người ta ra, nó gọi rõ mặt, chỉ đúng tên, thì biết ai là người hay, ai là kẻ dở; Những tin đi, mối lại, láo hết! Chính mình, mình phải làm mối cho mình. Ấy chỉ vì tôi để người ta làm mối cho tôi hai lần, cho nên hai lần, tôi lấy vợ mà bây giờ vẫn không vợ!

— Anh không nên bi quan quá thế. Con gái nhà lương- gia chán người tử tế, chẳng qua anh không may nên chưa gặp đấy thôi.

Thái lắc đầu, chán chường:

— Rất có thể có người khá. Rất có thể tôi lầm. Nhưng, biết làm thế nào! Những ý nghĩ ấy nó đã ăn sâu vào tim - óc tôi, có lẽ đó là một thành kiến không hay, nhưng nó đã mọc rễ chắc trong lòng tôi rồi. Chịu! Chịu! Con ông giời, cháu bà giời, cũng xin chịu!

— Lấy vợ, cứ gì phải lương-gia, tử đệ. Miễn người có lòng là được...

Anh Thái lại lắc đầu:

— Ấy thế mà vợ cái, con cột, lại cử phải

chọn ở trong đám con nhà tử tế. Nói thế,

không phải là hẹp nghĩ, là hủ lậu đâu. Chỉ có những thiếu nữ con nhà nền nếp, mới có thể là bông hoa tinh khiết trong nhà, mới có đủ đức tính để làm một người mẹ hiền, sinh con đẻ cái, nuôi con, giậy con nên người. Anh có thấy mấy người trong chốn hoa nghuyệt giở về mà có được những đức tính ấy đâu? Lấy về nó không cắm sừng cho ta ngay là phúc!

Tuyết-Anh bĩu môi rồi cười nhạt;

— Cũng tùy chứ. Ai cũng như thế cả hay sao.

Thái cười xòa:

— À em khác. Với lại tôi có nói em đâu!

Tuyết-Anh vặn:

— Khác là khác thế rào?

— Khác là không bao giờ em cắm sừng cho anh cả!

— Tại sao anh biết?

Thái cười, hóm hỉnh:

— Tại không bao giờ em lấy anh. Tại không bao giờ anh lấy em. Tại không bao giờ chúng ta lấy nhau. Thế thì còn cắm sừng vào chỗ nào nữa. Hỏi nữa thôi?

Tuyết-Anh phát vào vai Thái:

— Nói thế mà nghe được!

— Thế thì nói thế nào, em bảo anh nói đi?

Cái vui vẻ phù du thoáng qua, rồi tan rụrg, để câu chuyện lại tiếp tục trong một bầu không khí đượm buồn.

— Vợ cái con cột phải tìm trong đám con nhà tử tế, mà con nhà tử tế, lại khó mà hiểu được mình, được cái chân giá trị thằng đàn ông của mình, để cùng vui với mình, rung lên một điệu với mình, để cùng đi cho hết con đường đời. Hiểu được mình, vì đã so-sánh bao nhiêu đàn ông khác, cùng rung với mình trong nhiều trường hợp tình cảm sôi nổi, chỉ có gái giang hồ, mà gái giang hồ, — xin lỗi em — lại thiếu cái đức tính của người vợ, người mẹ.

Tuyết-Anh cười nhạt;

— Thế thì có giời chiều được ‘‘ông’’

Thái gật đầu:

— Khó nghĩ thật. Bởi thế cho nên anh đã tìm ra được một cách giản dị hơn cả.

— ?!

— ... là từ nay trở đi, sẽ không bao giờ lấy vợ nữa!

Vân, từ nẫy đến giờ vẫn ngỗi nghe, bấy giờ mới lên tiếng:

— Thế thì đời buồn lắm. Buồn lắm!

— Em thì biết gì! Đời còn có rượu, có thuốc phiện, có các em. Ăn chơi!

Thái reo lên như thế, rồi vơ lấy cái dọc tẩu, tiêm, hút một chập.

Rồi, bỗng anh ngồi nhỏm giậy, đưa mắt nhìn khắp gian nhà một lượt, rồi nhìn chúng tôi:

- Một cái lò ấm áp, một người vợ trẻ đẹp, những đứa con kháu-khỉnh, ngoan-ngoãn, ai là không muốn? Nhưng, những cái ấy, nhiều khi mua bằng giá rất đắt. Mà cái giá đắt nhất là sự làm hèn cái thằng người của ta đi. À, cái gì, chứ cái ấy thì không, không. Nhất là sống cô độc suốt đời. Chứ phải uốn mình để chiều những cái con khỉ con tườu, thì đây chịu.

— Nếu anh cứ nghĩ thế, nếu anh không chịu nhượng bộ một chút, thì không bao giờ anh yên bề gia thất. Mà bề trong không yên, anh cũng không thề để hết tâm vào sự nghiệp kinh doanh được.

-Tôi đã nhượng bộ nhiều rồi. Bây giờ, tôi thấy những sự nhượng bộ ấy không đưa đến cái gì cả.

Rồi, giọng anh cảm-khái lên:

— Và, bây giờ, tôi chỉ say về công việc. Chí tôi có nhiều hoài bão, mà nếu không đạt được, thì không bao giờ tôi yên dạ để tính đến việc vợ, con kia khác.

Tôi để yên anh hút thuốc phiện một lúc, rồi hỏi:

— Nhưng, thực ra, cứ sống như thế, nhiều Iúc anh cũng thấy lạnh lòng chứ?

Anh nhìn lên trần nhà, cái nhìn mơ-hồ:

— Có lẽ không! Có lẽ tôi rập tắt hẳn được cái ham muốn ái ân ngùn ngụt đốt lòng tôi. Tôi cũng không biết rằng như thế là đáng vui hay là đáng buồn. Tôi chỉ biết rằng tôi thấy lòng tôi thanh thản hơn trước, tính việc sáng hơn trước.

— Cái thanh thản ấy, không khéo là cái thứ thanh thản tự diệt., cái thanh thản chết của một đạo sĩ. Mà anh thì không phải là một đạo sĩ vùi mình ở trong am vắng được. Đời anh là đời vật lộn, anh còn gặp nhiều nỗi khó khan, còn phải trải nhiều cơn vất vả, gian lao. Anh phải cần được an ủi mà cái nguồn an ủi độc nhất của người đàn ông họat động chỉ có ở người tình nhân, ở người vợ, ở người đàn bà tâm đầu ý hợp. Anh chưa gặp đó thôi, mà anh chưa gặp, vì anh chưa chịu để hết tâm cơ tìm kiếm. Của giời, mà nhất là của quý — thì người đàn bà tâm đầu ý hợp chả là của quý là gì – có bao giờ tự dưng rơi xuống cho ta đâu? Anh đừng nên ngã lòng.

— Không, tôi không ngã lòng. Tôi đành lòng với định mệnh...

— Đành lòng cũng không phải là thái độ thích đáng của kẻ đi chinh phục cuộc đời. Đời ta, là ở tay ta, ở trí ta, ở lòng ta. Ta phải làm lấy đời ta.

— Thì đấy, tôi đã tự tay tôi, tự trí tôi, tự lòng tôi, mà làm cho tôi một cuộc đời có thể gọi được là rực-rỡ...

Tôi dơ tay, ngắt lời:

— Mặc dầu, đời anh vẫn thiếu, mà thiếu cái phần chính nhất. Những kẻ đề xướng cái chủ nghĩa độc thân, chẳng qua là bất lực, là vô tài, ốc chưa mang nổi mình ốc, phải tự tước đi những bổn phận và luôn đó, tước cả cái phần hạnh-phúc của đời mình.

Thái nói, giọng phản đối:

— Xưa nay, những bậc danh-nhân không

vợ cũng nhiều.

Tôi cười nhạt:

__ Thế anh có là danh-nhân đâu? Anh đã hy sinh những gì? Anh đã làm được cái gì lớn lao, để khả dĩ bắt chước danh nhân mà không vợ? Hay anh cũng chỉ như tôi, như trăm nghìn người dân khác?

Thái lặng im một lúc rồi vùng nói:

— Đây này, bây giờ tôi chỉ quan niệm về đàn bà về phương diện vật chất. Tôi cho rằng đàn bà chỉ có thể ngang hàng với ta ở cái phần đó thôi. Lẽ tất nhiên, một cô gái con nhà lương thiện, không thể cùng chung với tôi cái quan niệm ấy, như vậy, tôi không đợi gì ở bọn họ. Tôi cũng lại không thể chung sống hàng ngày với đàn bà được. Tôi chỉ có thể dâng cho họ cái xác thịt của tôi.

— Thế anh muốn gì?

— Tôi chỉ muốn có một cái nhà ở Hà-nội, nó cũng là một thứ tổ ấm áp — vì có lò sưởi điện! Cái nhà ấy, tôi sẽ trang hoàng, bầy biện một cách mà nhà văn các anh gọi là nên thơ, hay là gì gì cũng được. Rồi tôi sẽ mời một mợ xinh xinh — như em Tuyết-Anh đây chẳng hạn, về ở cái nhà ấy. Rồi tháng tháng, tôi đem về, hay gửi về một số tiền, tùy sự bằng long của cả hai bên, giá cả phải chăng, thuận mua vừa bán. Rồi tuần lễ, nửa tháng, năm ngày ba ngày, tôi về Hanoi, tôi đến. Đấy, như thế đấy, em Tuyết-Anh có bằng lòng thì nhận lời đi. Giá cả tùy em định lấy, sao cho phải chẳng.

— Có họa ông là bố người ta. Ai chứ đây xin lạy ông cả nón.

Thái cười hềnh hệch ;

— Chơi thì chơi, thôi thì thôi. Tùy. Điều ấy, anh không bắt ép

— Ép cũng chẳng được.

— Đã đành!

Anh Thái về đồn điền đã hơn ba tháng. Buổi gặp gỡ, với những điều anh nói với tôi đêm ấy nhòa dần trong trí tôi. Rồi công việc hàng ngày đem đến sự quên lãng, tôi cũng không còn nhớ rằng tôi đã hẹn anh, nếu có thể, trước Tết năm ấy, lên săn bắn với anh một tuần.

Mà nhớ thế nào được, nhớ để làm gì, câu chuyện với một người bạn gặp trong một đêm, nếu không có cơ hội gì xẩy ra đáng ghi nhớ!

Thì cái cơ hội đáng ghi nhớ ấy đã đến với tôi, một buổi chiều.

Một buổi chiều, tôi đi chơi về, thấy thằng nhỏ nhà tôi đưa ra một cái danh thiếp. Tôi đọc ngay thấy ba chữ:

Vương hữu Thái

Điền-chủ

Tôi lại thấy mấy hàng chữ ở mặt sau:

‘‘Anh Văn,

Chờ mãi, có việc phải đi, 6 giờ lại, đón anh đi ăn bữa cơm đầu tiên với ‘‘vợ chồng’’ đệ.

Ký tên.

Tôi thật là xa cái sự Thái lấy vợ trăm dậm!

Thái lấy vợ! Lấy bao giờ? Lấy ai? Mà sao không cho tôi biết để đi mừng bạn? Mà sao lại bữa cơm đầu tiên? Mà sao hai chữ vợ chồng lại vòng dấu ngoặc?

Từng ấy câu hỏi đang múa lộn trong đầu tôi, thì Thái đánh ô tô đến.

— Thế nào? Cưới bao giờ thế? Sao không cho biết sớm?

Thái tươi-cười:

— Cưới ngày hôm nay!

— Hôm nay??

Thái gật đầu.

— Chị ấy người Hanoi hay sao?

Thái lại gật.

— Mes félicitations, alors! Nhưng chị ấy …con ông bà nào thế?

Thái nở một nụ cười bí mật:

— Đừng hỏi... Chốc nữa sẽ biết.

Thái vặn ô tô đưa tôi đi một loáng tới phố Quan Thánh, rồi đỗ trước một tòa nhà hai tầng, nho nhỏ, xinh xinh, có hoa ti-gôn trước cửa, có lệ liễu buông tơ bên cửa sổ. Rõ ra bề ngoài của một cái tổ ấm con con.

Thái đưa tôi vào trong cái ‘‘tổ ấm’’ xinh xinh ấy.

Tôi thấy... Tôi thấy gì?

Tôi thấy một thiếu phụ ra đón tôi.

Thiếu phụ ấy là... Tuyết-Anh.

Tôi chưa hết ngạc nhiên, thì nàng đã tươi

cười, cúi đầu chào tôi:

— Thưa bác, lẽ ra em cùng đi với nhà em lại đón bác, nhưng vì nhà mới dọn, phải trông cho chúng nó bầy biện cho nó khỏi trướng mắt một chút.

Tôi phải đáp suôi:

— Đáng lẽ phải đến mừng anh chị sớm kia

đấy, nhưng vì mãi đến chiều nay, anh ấy

mới cho biết tin mừng.

— Ấy, chúng em cũng vừa mới dọn đến nhà

mới xong đấy.

- Và bữa cơm chúng tôi mời anh đây, là

bữa cơm gia-đình đầu tiên của chúng tôi đấy.

Tôi cười:

— Thế thì hân hạnh quá nhỉ! Nhưng tiếc quá, tôi không được biết sớm, chẳng có gì

mừng hai... bác được. Thôi để...

Thái gạt ngay:

— Ồ, anh với tôi, có phải người xa lạ ở đâu mà phải mừng với miệc gì. Anh đến chơi với chúng tôi, tức là anh mừng cho chúng tôi rồi, mà sự mừng ấy mới quí.

Phút ngạc nhiên qua. Trong khi sắp định một thái độ đối với Tuyết - Anh, từ nay đã là vợ bạn tôi, tôi chú ý nhìn nàng, vẫn thấy cái ‘‘khuôn giăng đầy đặn, nét ngài nở nang’’ ấy, nhưng một cái gì khác đã thay mần sắc từ y-phục, cử chỉ, cho đến tiếng nói nụ cười của người đào nuơng bữa trước.

Có lẽ cái gì ấy là cái phép nhiệm mầu của tưởng tượng. Tuyết-Anh vẫn là Tuyết- Anh.

Nhưng, với tôi, từ nay Tuyết-Anh là vợ anh Vương hữu Thái, bạn tôi.

— Anh chị ở tòa nhà này vừa xinh. Thực là một cái tổ uyên-ương.

Tôi vừa nói, vừa đưa tay khoát một cử chỉ bao quát khắp gian phòng, trên bộ sa-lông có lò-so, trên những đồng hồ, quạt máy, tranh sơn, tượng bán thân, nghĩa là đủ những đồ đạc tiện lợi tân thời và mỹ thuật quí giá.

Ánh đèn điện sáng trưng, làm nổi hẳn lên mầu đồng ám khói của gỗ, mầu trắng xanh của xứ, màu ngà của tượng nặn, màu sặc-sỡ của tranh ảnh, và, đậm hơn, mặn mà hơn, cái màu của má hồng môi thắm.

Tôi cười bảo Thái:

— Anh thực là một người sành. Nhà cửa trang hoàng cực nhã. Lại thêm một vị nữ chủ nhân như chị tôi đây ra vào thướt tha như một nàng tiên.

Tuyết-Anh ngắt lời:

— Thôi, anh đừng nịnh em quá, e không xứng. Các anh, nhà văn, cái gì cũng tô điểm thêm.

— Không, tôi nói thực. Trông chị ra vào trong căn phòng này, tôi có cảm tưởng là bước vào một cái động tiên. Tôi mừng cho cái hạnh phúc của anh chị, và nhất là của anh đấy.

Anh Thái điềm nhiên:

— Hãy biết được lúc nào hay lúc ấy.

Nhân một lúc, Tuyết-Anh vào trong nhà sai bảo đầy tớ, Thái bảo riêng tôi:

— Ấy cho nó về đây cho nó yên việc. Mình nghĩ: nó xem ra bụng dạ cũng không đến nỗi bẩn lắm, mà lần nào về Hà-nội, không đến với nó thì hình như nó cũng làm sao ấy, âu bằng tính cách thế này cho nó ổn.

— Nhưng anh định lấy làm vợ hẳn, hay làm tình nhân, hay làm gái bao tháng?

— Không hẳn ra hạng nào cả. Chỉ biết rằng tôi với hắn đã ký kết bằng sự ưng thuận của hai tấm lòng, một tờ giao kèo trong tinh thần: mỗi tháng tôi cho hắn trăm bạc tiền ăn, trăm bạc tiền mặc, trăm bạc tiêu pha vặt vãnh. Tiền nhà, tiền thằng bếp, con sen, tôi chịu. Cái điều kiện duy nhất tôi buộc hắn, là ở với tôi ngày nào, phải một niềm đoan chính trung thành ngày ấy. Ngày nào mà hắn chán tôi, hay tôi chán hắn, thì cứ việc bảo thẳng cho nhau biết không cần phải dấu diếm. Như thế tôi tưởng minh bạch đấy chứ?

— Minh bạch thì có minh bạch. Nhưng tôi nghe nó thế nào ấy.

Thái hỏi dồn:

— Sao? Sao lại thế nào?

— Như thế, tôi thấy ở trong chả có chút tình nghĩa nào.

Thái vỗ vai tôi:

— Sao anh gàn thế. Đã bảo tôi không cần đến tình nghĩa nữa mà! Tôi đã biết thế nào là tình, là nghĩa rồi mà. Bây giờ, tôi chỉ cần có một sự bằng lòng phải chẳng.

Rồi ank chắp hai tay sau đít đi đi lại lại quanh phòng, miệng nói liên miên như người bị chiếm hồn bởi những ý nghĩ mê sảng:

— Tình là gì? Nghĩa là gì? Một người con gái, chưa quen biết ta và ta cũng chưa quen biết, hay có biết nhau cũng chỉ là thoáng trông mặt, biết họ tên, còn nhất thiết tâm tính một tí gì ta cũng không biết, nhất đán những lễ nghi đem ghép đời người ấy với đời ta. Người ấy không yêu ta, mà đến với ta như thế, có khác gì bán mình cho ta không! Bán mình một cách công khai, bán mình cho pháo đỏ, lợn quay, cho tiền dẫn cưới, cho ô-tô đón dâu, cho cái địa vị ta, tài sản ta. Người ấy bán mình, mà không chịu là bán mình. Người ấy lại có quyền hạch xách ta, nhăn mặt khi ta thở khói thuốc lá, mặt xưng mày xỉa khi ta đi chơi đêm. Thế mà người ấy lại không tự nhận là bán mình, tiếm quyền mà không biết rằng tiếm quyền, không yêu thương ta mà tại đòi ta yêu, ta thương, như thế là ăn cắp tình cảm của ta. Ấy vậy mà luật pháp che chở, dư luận kính nể. Mà ta không yêu mà vẫn phải chung sống. À, đã không nghĩ thấu những lý lẽ đó thì thôi, biết rõ, không thể chịu yêu trước tình thế ấy được..

Tôi ngắt cái tràng ngụy biện, đang nở như hoa cà hoa cải ấy bằng một tiếng cười ròn và nói chặn:

— Thế nghĩa là anh sắp sửa ca tụng Tuyết-Anh?

— Tôi không ca tụng. Trước, sau, tôi chỉ coi Tuyết-Anh là một gái giang-hồ, nghĩa là nó nôm là một con đĩ. Tôi đến hát nhà hắn, mất tiền. Tôi đem hắn về đây, tôi cũng mất tiền. Hắn cho tôi những phút khoái lạc hả hê, thì tôi đem đến cho hắn những điều kiện sinh sống dễ dàng, sung túc. Chúng tôi còn ở với nhau ngày nào, sự trao đổi ấy vẫn còn. Chán nhau, thì xa nhau, thì chia rẽ. Giản-dị lắm.

Giữa lúc tôi toan cất tiếng phản đối, thì

Tuyết-Anh bước vào. Hình như nàng đã thóang nghe thấy những điều chúng tôi nói với nhau, cho nên vừa bước vào là nàng nói ngay:

— Ấy thế mà rồi chúng em nên vợ, nên

chồng chưa biết chừng đấy.

Tôi cuời:

— Thì thế nào nữa mới là vợ chồng! Vợ chồng thì cũng đến ăn ở với nhau như anh chị thế này thôi chứ gì?

Tuyểt-Anh khẽ lắc đầu. Trong cái lắc đầu ấy, tôi thấy như hàm chứa một ngao ngán bâng khuâng.

— Tuy thế, nhưng cũng khác.

Rồi nàng nhìn Thái cười cái cười cố làm ra hồn nhiên:

— Khác một tị, có phải không mình?

Tôi thấy đôi lông mày Thái như hơi nhíu lại một chút.

Nhưng sự đó chỉ thoáng qua như một cái bóng nhạt. Thái lại tuơi ngay nét mặt:

— Thôi, không nói truyện đường trường dông dài. Tôi mời anh đến ăn bữa cơm gia đình đầu tiên của chúng tôi. Đến giờ rồi, thôi, ta sang buồng ăn.

Những ngày Thái về Hanoi, anh khôngquên đến chơi tôi, vì tôi là bạn thân của anh, vì tôi thỉnh thoảng làm vui anh bằng một vài câu chuyện lý thú, và có lẽ thứ nhất, vì cái mối tình oái oăm - có thể gọi được là tình không?— giữa Thái và Tuyết-Anh.

Tôi, trước sau, vẫn không biểu đồng tình cái tấn kịch ân ái ấy, hay nói cho đúng, không cho nó cái vẻ quan-trọng của những mối liên lạc tình cảm chặt chẽ. Tôi chỉ coi là một trò du hí, một con đú đởn, dửng mỡ của những nguời mà trái tim ‘‘thất nghiệp’’ trong tình ái không biết làm gì cho qua cái trống rỗng, làm giăng làm gió ra thế mà thôi. Rồi cái trò du hí ấy có lúc cũng phải hạ màn, chẳng mấy lúc mà hạ màn.

Tôi tuy vì lễ độ xã giao không nói ra miệng, nhưng anh Thái ngầm hiểu, bởi mặc dầu lần nào anh cũng dặn tôi thỉnh thoảng đến thăm Tuyết Anh, và hễ có việc gì cần mà anh chậm về, thì thông tin ngay cho anh biết, nhưng tôi chỉ lại cái ‘‘sào-huyệt’’ » ân ái ấy, khi nào anh Thái về tìm tôi.

À, tôi phải giữ tiếng, phải phòng xa chứ. Tuyết-Anh trẻ, đẹp, thứ nhất lại xuất thân ở một chốn mà trước kia, ai cũng có thể đũa bỡn được, cả tôi nữa, nếu tôi muốn.

Anh Thái hình như hơi khô khổ về cái chỗ tôi không coi Tuyết-Anh như vợ một người bạn, nghĩa là như chị gái của tôi. Tuy bề ngoài, vẫn một điều, hai điều, chị chị em em, nhưng nghe kỹ thì dường như ở trong tiếng đàn vẫn có vài chỗ ngang cung vậy.

Thì biết làm sao được! Chính Thái cũng không coi Tuyết-Anh là vợ mình, thì tôi, tôi nhận Tuyết Anh là vợ Thái sao được.

— Con bé dạo này ngoan đáo để, anh ạ.

Mình nghĩ lắm lúc cũng thương thương.

— Thế thì anh chính thức lấy đi rồi đem chị ấy lên đồn điền có được không. Tội gì cứ làm cái lối giở giăng giở đèn như thế?

Thái lắc đầu, khăng khăng:

— Lấy thế nào được. Thương là thương vậy, chứ của một đồng, giả một nén sao được. Cái gì, ta cũng phải xử theo giá của nó mới được chứ!

Cũng có lần, anh đến tôi với một bộ mặt hầm hầm:

— Con khốn nạn. Nó khốn nạn quá! Tôi phải tống nó ra khỏi mới được.

Tôi vội hỏi:

— Làm sao? Chị ấy làm cái gì mà anh giận dữ thế?

Anh Thái nói như quát vào tai tôi:

— Làm cái gì? Nó làm cái gì? Anh còn hỏi làm gì? Nó chỉ đáng đá vào đít, tống ra khỏi cửa.

— Thì đầu đuôi thế nào mới được chứ?

Thái ngồi bệt xuống ghế, giơ hai tay lên trời;

— Còn thế nào nữa! Tôi đã dặn nó từ tuần trước, chiều thứ bẩy này phải chờ tôi về rồi cùng ăn cơm, thế mà nó nhất định ăn cơm trước. Hỏi, nó lại nhăn răng ra cười, kêu: ‘‘em xấu đói lắm’’. Thế thì anh bảo thánh cũng không đừng tức được.

Tôi bật cười:

— Thánh và anh không nhịn cái tức được, nhưng tôi, tôi thấy rằng cái cớ ấy chẳng đáng khiến cho anh có cái vẻ mặt hung thần thế kia.

Rồi tôi cầm chiếc gương dí vào mũi anh;

— Đây, anh thử coi cái diện mạo của anh xem, đối với một người đàn bà mà anh nói là anh không yêu, và do một cớ nhỏ mọn như thế, lầm lầm sát khí thế kia, có đáng hay không?

Thài liếc qua chiếc gương, nín lặng một lúc rồi nói:

— Ừ, kể mình cũng khí quá nóng.

— Lại còn khí quá. Phải nói rằng vô lối mới đúng.

Thái thấy mình hơi lố bịch, nói lảng ra truyện săn bắn, săn biếc.

Lại một lần nữa, anh đến chơi tôi giữa cơn mưa gió với một bộ mặt rầu rầu.

Anh bảo tôi:

— Này, anh ạ, lúc nãy nằm bên con bé, tôi thấy nó ngủ một giấc ngủ lành hiền, hình như phó mặc cả thân thể lẫn linh hồn cho tôi, tôi thấy lòng cũng nao nao làm sao ấy.

— Thế chắc anh yêu thật rồi chứ gì?

Thái lắc đầu, vẻ mặt băn khoăn.

— Cũng không hẳn ra yêu. Nhưng tôi thấy lòng như bất nhẫn thế nào ấy. Kể nó cũng có nhiều điểm tốt. Chỉ ghét cái nhiều lúc nó ngang cành bứa, đến khó giậy.

— Thì... không phải là vợ anh hẳn, cần gì phải giậy dỗ cho nó tốn công nhọc sức

— Cũng phải giậy chứ. Để cho mỗi khi gần nó, mình khỏi phải gặp những cái khó chịu.

— Tôi tưởng anh đã đành lòng với Định Mệnh, đành lòng với Cuộc Đời, thì những cái nhỏ nhặt, cần gì anh phải để ý đến, cần gì phải bận tâm đến, mua lấy những cái rắc rối vào mình, vô ích.

Thái lặng im nghe tôi nói một lúc rồi đứng

giậy:

— Tâm hồn con người ta, có lắm cái phiền phức lắm. Anh là nhà văn, chắc anh hiểu rõ tôi hơn ai hết.

Anh nói rồi buồn bã ra về.

Phải, tôi hiểu rõ anh, tôi hiểu cái tâm hồn phiền tạp của anh. Tôi hiểu rằng anh chỉ định ‘‘bao’’ một người gái giang hồ làm một thứ đồ chơi tiêu khiển. Tôi hiểu rằng người con gái giang hồ ấy có một tâm hồn — ai mà chẳng có một tâm hồn — Tuy không được cao quí, không được trong trắng như ai, nhưng nhiều khi cũng có một vài cái dễ thương nó phát biểu ra trước mắt anh mà len lén đi vào lòng anh. Rồi nó bám chắc ở đấy, gây nên một thắc mắc, cảm thương pha lẫn với hối hận.

Phải, tôi hiểu, tôi biết, con người không phải là gỗ đá, một đêm nằm một năm ở, huống hồ quen hơi bén tiếng bấy lâu.

Thứ nhất Tuyết-Anh lại là một người con gái dễ thương, lại nhiều khi biết thành thực, dù có lúc cái thành thực ấy có phần tráo trợn những cái tráo trợn nó đánh thẳng vào tâm hồn người ta.

Và tôi lại biết rằng Thái cũng nhận thấy cái phần hương nhụy còn xót lại trong đóa hoa rụng ấy, nhận thấy để quí, để yêu, và để chua xót thay. Vì, xung quanh cái tinh khiết gạn lọc ấy, chàng lại nhìn thấy đầy rẫy những bùa lấm, nó vấy khắp bông cánh rã rời.

Vì thế nên lòng anh bị căng xé bởi hai thứ tình cảm tương phản cho đến một ngày kia, tất anh phải chênh dạ về một bên.

Cái cuộc phối hợp khác thường của đôi trai gái không ra vợ chồng, không ra nhân ngãi ấy cứ cọc cạch kéo mãi, thấm thoát đã được một năm.

Trong cái thời gian ấy, chắc bao nhiêu vui buồn đã xẩy đến trong cái tòa nhà xinh xinh ẩn giữa những chòm lệ liễu, những bông ti-gôn. Mà sự chung đụng ấy không biết để giáp lại hai tấm lòng, hay để giãn ra hai số kiếp.

Bẵng đi đến hai tháng, không thấy Thái lại chơi, tôi đã toan viết thư lên hỏi, thì một hôm, Tuyết-Anh đến thăm tôi.

‘‘ — Nàng đến, tất có việc gì bất thường đây.’’

Tôi nghĩ bụng thế, vì từ ngày lấy Thái đến giờ, chỉ có một lần nàng cùng đi với Thái đến thăm tôi mà thôi.

Thấy nàng, tôi chào rồi hỏi ngay:

— Chị đến chơi em, tất có việc gì cần đấy chứ? Anh ấy có làm sao không?

Tuyết-Anh đáp, tiếng nói như người nuốt than trong cổ:

— Cần…nhưng cũng không cấp lắm. Có điều em đến đây để từ giã anh đây.

Tôi ngạc nhiên:

— Ơ hay? Chị sắp đi đâu vậy? Hay chị lên đồn điền với anh ấy?

Tôi hỏi là hỏi thế thôi, chứ tôi biết trước rằng câu giả lời của nàng sẽ trái lại. Vì tôi trông nàng ủ rột như một cây sầu đông về chiều hôm.

Trên cái khuôn mặt đầy hơn dạo tôi gặp nàng mấy tháng trước nhiều, như in rõ bao nhiêu dấu vết của những cuộc xung đột của các tình cảm, bao nhiêu dấu vết của gắng gỏi hóa ra chán chường, của hăm hở hóa ra thối chí.

Trông quầng mắt hõm thâm ấy, đôi con mắt lừ đừ ấy, ta thấy như in rõ lên một câu:

— Người đàn bà này đã khóc nhiều rồi đây.

Nàng cất cái giọng buồn rầu như cái giọng của một người tu hành, chẳng may cảnh ngộ bắt phải phá giới quay về vòng tục.

— Em không bao giờ lên đồn điền anh Thái nửa. Em đến để phiền anh giúp em một việc

có lẽ là lần đầu mà là lần cuối cùng.

— Việc gì thế chị? Lành hay dữ?

Nàng đáp chậm rãi:

— Không lành cũng không dữ. Nhưng một việc quan trọng, em nhờ anh viết hộ em một bức thư cho anh Thái.

Tôi linh cảm thấy một sự biến cố chi đây.

— Chị định viết gì cho anh ấy?

Tuyết-Anh ngồi xuống chiếc ghế tôi vừa kéo mời nàng, rồi ngước cặp mắt đượm buồn nhìn tôi:

— Trước hết, em đến xin anh một chút tình thương, và mong anh lấy lòng rộng hiểu mà tha tội trước đi cho em,

Tôi băn khoăn, nói vội:

— Thì bao giờ tôi chả quí mến anh chị. Có điều gì chị cần mà tôi có thể giúp chị được, tôi xin vui lòng giúp ngay.

Tuyết-Anh ngập ngừng một lúc, đưa mắt trông quanh phòng. Tôi hiểu ý, nói ngay:

— Nhà tôi rất tự nhiên, có một mình tôi, chị đừng ngại gì ai nghe thấy điều bí-mật – nếu quả cái điều chị sắp nói với tôi là một bí mật. Và nếu cần, tôi cam đoan sẽ giữ kín cho chị.

— Không, không lấy gì làm bí mật lắm. Tôi lại đây chỉ cốt nhờ anh viết cho nhà tôi một bức thư, để...

— Chị cứ nói. Chị có thể tin tôi, tin cái danh dự làm người của tôi như con chiên xưng tội trước ông cố — nếu quả chị đã phạm tội gì?

Tuyết-Anh ngập ngừng một giây, rồi:

— Không, em không phạm tội gì hết. Em chỉ nhờ anh viết thư nhắc lại cho anh Thái cái điều trước kia chúng tôi giao ước với nhau. Hễ khi nào chán nhau, cứ việc nói thẳng. Em tin rằng anh ấy sẽ giữ lời hứa mà trả lại sự tự do cho em!

Tôi trố mắt nhìn Tuyết-Anh:

— Chị định bỏ anh ấy?

Tuyết-Anh trả lời gọn lỏn ;

— Vâng!

— Thế chị không yêu anh ấy hay sao?

— Có, em vẫn yêu anh ấy. Nhưng em cảm thấy rằng anh ấy không yêu em, anh ấy chỉ coi em như một thứ đồ chơi mà thôi. Trước kia, em vì...tiền mà ăn ở với anh ấy, em coi cái thái độ của anh ấy đối với em là thường, thế nào cũng được, miễn cứ tháng tháng anh ấy cho em đúng số tiền đã định. Nhưng, dần dần, em thấy yêu anh ấy, em thấy cần phải có anh ấy, đời em mới đáng sống, thì em thấy cái đồng tiền anh ấy đưa cho em không phải bằng một bàn tay yêu đương mà bằng một bàn tay của ông chủ trả tiền công cho người làm, em thấy tủi lắm. Em không thể sống cái đời ‘‘gái bao’’ như thế nữa. Em thấy nó dơ bẩn lắm.

— Thế sao chị không ngỏ cái tình của chị ra cho anh ấy biết lòng chị?

— Có, em đã nói nhiều lần, và lần nào anh ấy cũng chỉ cười mà không nói gì. Cho đến tuần trước đây, em quỳ xuống chân anh ấy, em xin anh ấy đừng tháng tháng trả tiền em nữa, mà cứ coi em như một đứa tôi mọi, cho được ở gần hầu hạ. Thì anh ấy chỉ lắc đầu cười, và bảo là em điên, nếu có cần phải lêa nhà thương Vôi thì anh ấy cho tiền đi.

— Anh ấy nói đùa biết đâu!

— Không, anh ấy nói thật, anh ấy không có nói đùa bao giờ, em biết tính anh ấy như thế ; và em đã nói cho anh ấy biết rằng nếu anh ấy không xét cho lòng em. Nếu anh ấy coi thường lời em nói, thì sẽ có sự không hay xẩy tới giữa chúng ta. Anh ấy vẫn không coi vào đâu cả.

Tôi gắng khuyên nàng:

— Chị đã có lòng yêu anh ấy như thế,cố gắng công một lần nữa có được không? Cố kiên nhẫn ít lâu nữa có được không!

Tuyết-Anh lắc đầu:

— Em đã gắng công nhiều lắm, đã kiên tâm nhiều lắm rồi. Bây giờ, em thấy rằng sự gắng

công, sự kiên nhẫn của em gặp một cái núi đá.

Tôi cố thêm:

— Thì chị... biết anh đã được bao lâu mà đã vội đứng núi này, trông núi nọ.

Tuyết-Anh cau mày:

— Không, không phải em có trông mong gì cây cao lá dài hơn đâu. Em xin thề với anh rằng nếu lúc này mà em có nghĩ đến một người đàn ông nào thì em chết, không còn sống thêm lấy một ngày nào nữa.

— Thế thì sao chị không cố thêm, cố thêm một chút nữa thôi? Ở đời, chỉ có sự cố gắng cuối cùng, phút cuối cùng là đáng kể.

Tuyết-Anh lắc đầu một cách tuyệt-vọng:

— Em đã làm hết sức một người đàn bà có thể làm rồi. Nhưng em không thể cố gắng được với lòng em, vì lòng em luôn luôn gào thét rằng: Còn sống ngày nào như thế là sống trong sự bẩn thỉu, trong sự nhục nhã.

— Nếu quả chị yêu anh ấy thì chị há lại không chịu được một vài điều khó chịu mà chị phóng đại lên, cho là nhục nhã đó hay sao! Yêu, ta phải biết chịu đựng chứ!

— Em chịu đựng như thế, đủ lắm rồi. Anh Thái anh ấy không biết lòng cho em thì thôi.

Tôi cười gằn:

— Thế thì chị yêu anh ấy được bao nhiêu!

Tuyết-Anh nhìn thẳng vào mặt tôi. Trong cái nhìn ấy, tôi thấy đầy vẽ trách móc. Duờng như nó bảo tôi rằng:

— Sao anh lại nói thế? Anh nói thế tức là anh cười giữa một đám tang đó.

Tôi tự nhủ: Nguời đàn bà này đã yêu đây, và đã linh cảm thấy rằng mình phải vươn tay lên để với một cái gì không bao giờ với tới, nhưng người ấy bây giờ đã ôm hận mà rụt tay về, đành lòng thu tay lại. Cái đành lòng ấy là một cái gì bình thản lạnh như một tảng băng, không trận gió nào làm cho dăn nếp được nữa.

Tôi liền thở dài, sau một khắc yên lặng:

— Vâng, thì tôi xin viết. Nhưng chị muốn viết những gì cho anh ấy?

Tuyết-Anh đứng dậy, bước đến bên tôi, rồi nắm chặt lấy tay tôi, như van Iơn,như cầu khẩn:

— Anh làm ơn viết cho anh ấy rằng: Em nhắc lại cái điều kiện trước, là bây giờ em chán anh ấy rồi, xin anh ấy về nhận lấy nhà cửa, đồ đạc. Em đợi anh ấy ba ngày. Thế thôi. Xin anh làm ơn viết ngay cho em đi.

Tôi ép lòng đi làm cái công việc không hứng khởi một chút nào ấy.

Tuyết-Anh đứng ngay đầu bàn giấy, trông tôi viết. Nàng mỉm cười, nửa buồn bã, nửa hóm hỉnh:

— Ấy, xin anh viết đúng như những điều em vừa dặn anh đấy. Em không viết được nhưng em đọc được, anh đừng để em phải bắt anh viết lại đấy.

Nàng cầm bức thư tôi viết xong, đọc lại cẩn thận, niêm kín, rồi bảo tôi:

— Cám ơn anh và xin lỗi anh, vì em đã làm phiền rộn, mất cả giấc ngủ trưa của anh.

— Có gì mà phiền rộn. Nhưng rồi chị đi đâu?

— Em cũng chưa biết rồi em sẽ đi đâu. Có điều em sẽ đi xa lắm.

Rồi nàng thở dài một tiếng ảo não, nó như rút hết những cái buồn thảm đen tối trong tâm hồn nàng, mà trút sang hồn tôi.

— Cũng là một kiếp người. Số cả!

Năm hôm sau, khi tôi vừa viết xong một cuốn truyện dài, đang không biết làm cái gì, chơi cái gì trong những ngày nghỉ, cho rãn cái khối trí lự đã phải bắt ép làm việc suốt … một tuần ròng, thì anh Thái đẩy cửa bước vào.

Anh bước vào với một bộ mặt buồn thiu.

Cái buồn ấy do cái gì, tôi đã biết rồi, vì tôi cũng có dự phần — ngoài cái ý muốn của tôi—trong cài công việc gây ra nó.

Anh thấy tôi, hỏi ngay:

— Con Tuyết-Anh nó nhờ anh viết thơ cho tôi phải không?

Tôi gật.

— Sao anh lại viết cho nó?

— Thì chị ấy không nhờ tôi, cũng rất có thể nhờ người khác. Cái sự tôi viết hộ thư, nào có nghĩa gì! Cái có nghĩa, ấy là cái lòng chị ấy yêu anh và thất vọng về anh. Tôi đã hết sức khuyên can chị ấy, nhưng không ăn thua gì. Tôi đã làm hết những điều một thằng bạn phải làm. Nhưng chị ấy vẫn khăng khăng một mực thì làm thế nào được!

Rồi, không để anh kịp hỏi, tôi thuật cho anh tất cả những điều đã xẩy ra năm hôm trước.

Anh chăm chú nghe và trong lúc nghe, tôi thấy hình như thỉnh thoảng anh thở mạnh.

Nghe đoạn, anh cười nhạt:

— Mặc xác nó! Anh còn khuyên can nó làm gì cho phí nhời.

Rồi anh nhún vai, chép miệng:

— Thế cũng xong I

Tôi để cho anh lặng yên, đi đi lại lại mấy chục lượt quanh phòng, rồi mới hỏi:

— Thế tiếp được thư rồi, anh đã xử trí ra sao đối với chị ấy?

Thái nói một hơi:

— Khó gì! Nó đã muốn thế thì tôi cho nó được như ý. Tôi trả lại sự tự do cho nó. Tôi lại cho nó tất cả đồ đạc, và cho nó thêm năm trăm đồng nữa. Chẳng gì nó cũng mang tiếng với chị em là đi ‘‘lấy’’ chồng. Âu là mình cũng ‘‘bồi thường danh giá’’ cho nó một chút.

— Thế lúc chia tay ra làm sao?

— Vui lắm! Chúng tôi, trước khi chia tay, còn hôn nhau một cách rất là đằm thắm. Nàng chúc cho tôi ở lại mạnh khỏe, tôi chúc cho nàng ra đi may mắn. Thật là ‘‘lai khứ minh bạch’’!

Lòng tôi ngùi ngùi:

— Dù sao, chị ấy cũng yêu anh. Và cũng đau khổ.

Thái cười một cái cười hoài nghi:

— Liệu vết thương có rỉ nước được trong

một tuần lễ không?

Anh nói xong cái câu chua chát ấy, ra đứng trước cửa sổ, lấy tay gõ vào cửa kính một bài đàn, gỗ nhè nhẹ để đủ một mình nghe những nhịp lý thú. Rồi anh cất tiếng ngâm hai câu thơ:

Đãi làm chi nữa cát pha,

Vàng chìm trong đám bụi hoa của đời!

(Đặng đình Hồng)

Ngâm xong, Thái chép miệng:

— Thôi, cát lại trở về bãi cát.

Rồi anh cất tiếng hát vang cái điệu hát tây:

‘‘Rita, tu pars sans un regret,

‘‘Mais moi, je ne peux t'oublier.

‘‘Toi, ta voles vers d’autres fleurs,

‘‘Mais moi, je reste avec les pleurs.

‘‘Si tu m'as laissé un baiser,

‘‘S’ en voleront tous mes tracas.

‘‘ Mais non, tu partis sans me parler,

‘‘ Au moins, ne m’oublies pas’’.[2]

Hai con ngựa lộc cộc đi bước một trên con đường đất gồ ghề, thong dong buông vó đều đều, ung dung như những người cưỡi trên lưng nó.

Con đường dưới vó ngựa đều một sắc đỏ của mầu son non, hai bên bờ cỏ xanh xanh.

Xung quanh, những đồi sơn, những nương sắn, liên-chi hồ-điệp chạy vòng thành một cái khung bán nguyệt cho những giẫy nhà sàn mái sám nối nhau thành hàng, ở giữa, nổi bật lên giữa những ngọn đồi xanh, cái mái nâu của một tòa nhà gạch bao quát dòm khắp cõi như một lâu đài cổ.

Theo lối dốc, chúng tôi đánh ngựa lên trại.

Hai con ngựa như ngửi thấy mùi cỏ trong tàu. từ nước một chuyển sang nước kiện, rồi dần dần, bốn cặp vó như bay trên sỏi.

Anh Thái vừa ra doi, vừa bảo tôi:

— Cái thú phóng ngựa lưng đèo, kể cũng là một sự tiêu khiển có thú vị.

Tôi cười:

— Giá có một nữ lang nữa cùng phóng ngựa bên mình anh thì hẳn cái thú vị ấy lại càng tăng thêm nữa.

Cái nét mặt đang tươi vui của anh bỗng sa sầm ngay xuống. Tôi biết tôi vừa nói lỡ lời, liền tìm cách chữa bằng sự hỏi cái nọ, hỏi cái kia, trong khi hai con ngựa leo dốc về trại. Nhưng anh Thái chỉ trả lời gióng một.

Tôi biết tôi vừa làm một việc ngốc nghếch, chạm tới cái vết thương chưa hàn dịt trong lòng bạn tôi.

Thì ra tôi lên đồn điền chơi với bạn để cho bạn khuây nỗi buồn thảm trong lòng, — tôi biết Thái buồn vì sự cùng Tuyết-Anh chia rẽ lắm lắm — mà thành ra lại khơi thêm nguồn đau của bạn.

Tôi đang áy náy trong tâm như thế thì hai con ngựa đã lên tới sơn traag. Anh Thái vừa xuống ngựa, vừa bảo tôi:

— Anh lên đây để vui chơi với tôi mà mấy hôm nay, hình như chính anh lại buồn hơn tôi. Có lẽ tôi lại phải an ủi anh.

Tôi cười:

— Không phải đâu. Có lẽ vì mấy hôm nay, dong ngựa và đi bắn đêm luôn nên trong người hơi mệt đấy thôi.

— Thì anh cứ nói là anh buồn cái buồn của tôi có được không? Bọn ta là những người nghĩ thế nào, cảm thế nào, nói ra thế ấy, cần gì phải dấu diếm, che đậy? Tôi thì tôi thú thực với anh rằng tôi yêu con bé ấy, tôi muốn làm lại cuộc đời cho nó, làm lại cuộc đời cho tôi. Nhưng nó không hiểu, cũng vì nó không có lòng ruột. Mình định để thời gian làm việc, định cho ngày tháng tôi lại cái lòng han rỉ của nó, mà ra mình đã đi làm một việc ngu ngốc. Có cốt thì mới đắp nên hình được.

Anh nắm tay tôi, giắt lên thềm nhà:

— Bây giờ, tôi mới thú thực với anh rằng chính giữa cái lúc tôi đang trang hoàng nhà cửa để về đón nó lên thì đùng một cái, nó viết cho tôi cái thư ấy. Thật là cả một lâu đài đồ sụp. Rồi chốc nữa, tôi sẽ chỉ cho anh những ‘‘di tích’’ cuộc đổ nát cái lâu đài mộng ấy. Nào buồng ngủ, nào phòng ăn, nào chăn màn, nào giường đệm, cái gì cũng mới nguyên, sẵn sàng để đón ‘‘tân nhân’’. Thế mà ‘‘tân-nhân’’ tếch mất. Kể cũng đáng ngán.

Anh nói ngán mà miệng anh hát vang lên, chân anh đập mạnh xuống thềm gạch.

— Cái buồn của anh thật là một cái buồn ầm ỹ!

Anh cười đáp:

— Chả ầm ỹ thì khỏe ti tỉ à, Ích gì!

Chúng tôi bước vào phòng khách. Bỗng anh

Thái đứng dừng lại, ngạc nhiên nhìn. Anh vừa thấy trên ghế sa lông, một cái va-li và một cái dù che của đàn bà.

— Ai? Ai?

Bỗng Thái giật mình, nhìn tôi:

— Nó! Valise của nó!

— Ai? Ai thế?

Thái vừa bước đến bên bàn, đưa tay cầm lấy chiếc valise thì cửa buồng trong sịch mở. Tuyết-Anh chạy bổ ra, mắt đỏ hoe:

— Anh! Anh!

Nàng chạy lại, ôm chầm lấy Thái:

— Anh! Anh! Anh thương lấy em. Lạy anh. Em xin làm đứa ở, hầu hạ anh suốt đời.

Rồi, qua màn lệ:

— Anh bỏ em mà anh còn đối với em như thế thì em là giống chó cũng phải cảm phục. Thôi, lạy anh, anh đánh em, chửi em, giết em đi. Em thề chết cũng không bỏ anh.

Chú thích:

Chú thích:

(1) ly thân

[2] Rita, em ra đi mà không hối tiếc,

“Nhưng anh lại không thể quên em.

‘‘ Em đang bay đến những bông hoa khác,

“Nhưng anh còn lại đây với những giọt nước mắt.

‘‘ Nếu em để lại cho em một nụ hôn,

'thì em sẽ đánh cắp mọi lo lắng của anh.

‘‘ Nhưng không, em đã bỏ đi mà không nói với anh lời nào,

"Nhưng ít nhất là đừng bao giờ quên tôi."

Lỡ một kiếp người

Tiến >>

Bản scan: Quán Ven Đường – Huỳnh Chiếu Đẳng
Source gallica.bnf.fr / Bibliothèque nationale de France Đánh máy: Ct.Ly, Mõ Hà Nội
Nguồn: Nhà xuất bản ĐỜI MỚI - HÀ NỘI
VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 2 năm 2022