Cuộc Tình Buồn
dịch giả: nguyễn bích như - thu uyên
Giới thiệu Tác giả
nguyên tác: thérèse desqueyroux
nobel văn chương 1952
Mauriac không đòi cái tuyệt đối; ông biết rằng cái tuyệt đối không tồn tại với đức hạnh trong trạng thái thuần khiết...
.
FRANÇOIS MAURIAC (11/10/1885 - 01/9/1970)
Giải Nobel Văn học 1952
Sanh ngày 11 tháng 10 năm 1885 tỉnh Bordeaux (Pháp) và mất ngày 1 tháng 09 năm 1970 thành phố Paris (Pháp)
François Mauriac được trao giải Nobel vì những tác phẩm phản ánh bi-hài kịch đời người với một tinh thần thấu suốt và nghệ thuật thuyết phục. Chủ đề chính trong sáng tác của ông là cuộc đấu tranh giữa cái Thiện và cái Ác, giữa Xác thịt và Linh hồn của “những con người sa ngã” và “nỗi cơ cực của con người không có Thượng đế”.
François Mauriac sinh trong một gia đình buôn rượu vang giàu có theo Công giáo, mồ côi bố khi chưa đầy hai tuổi, đến sống ở trang trại ông bà ngoại; bảy tuổi đi học, suốt đời mang ấn tượng về phong cảnh miền quê.
Tốt nghiệp trung học, F. Mauriac vào học khoa văn chương tại Đại học Bordeaux, sau chuyển đến Paris, làm báo và sớm trở thành nhà văn độc lập. Năm 1909, theo lời khuyến khích của tòa soạn báo Thời đại chúng ta, F. Mauriac xuất bản tập thơ đầu tiên Những bàn tay gắn kết; nhưng phải đến năm 1922 ông mới nổi tiếng là nhà viết tiểu thuyết có tài với cuốn Nụ hôn cho người hủi.
Trong Thế chiến I, tuy không phải nhập ngũ vì lí do sức khỏe, F. Mauriac vẫn tình nguyện tham gia tổ chức Hồng thập tự, phục vụ trong quân y viện hai năm ở Balkans, năm 1918 mới giải ngũ. Trong những năm 1920 ông viết hàng loạt tiểu thuyết, trong đó có cuốn Sa mạc tình yêu được tặng giải thưởng cao nhất của Viện Hàn lâm Pháp.
Thérèse Desqueyroux (1927) cũng là tác phẩm thành công, được giới phê bình coi là tiểu thuyết Pháp hay nhất đầu thế kỉ XX. Ổ rắn độc (1932) kể về một bi kịch gia đình với nghệ thuật phân tích tâm lí sâu sắc được coi là đỉnh điểm trong sáng tác của F. Mauriac. Năm 1933, nhà văn được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp.
Trong Thế chiến II, F. Mauriac tham gia chống phát xít Đức chiếm đóng Pháp, ủng hộ De Gaulle. Tiểu thuyết Cuốn sổ đen được trao tặng huy chương Bắc Đẩu Bội Tinh. Sau năm 1945 F. Mauriac làm đại diện Pháp trong tổ chức Liên Hiệp quốc (UNESCO). Lần đầu tiên ông được đề cử tặng giải Nobel vào năm 1946, nhưng phải 6 năm sau mới được trao giải. Từ đó đến cuối đời F. Mauriac xuất bản thêm 2 cuốn tiểu thuyết, hàng loạt hồi kí (chủ yếu về De Gaulle) và làm báo (giữ những chuyên mục rất nổi tiếng thời bấy giờ). Nhà văn mất năm 85 tuổi, một năm sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết cuối cùng.
Có thời kỳ F. Mauriac được đánh giá là nhà văn Pháp lớn thứ hai trong thế kỉ XX (sau M. Proust), nhưng dần dần uy tín của ông bị giảm sút, theo các nhà phê bình thì chủ yếu là do đề tài và văn phong của ông hơi đơn điệu.
* Tác phẩm:
Những bàn tay gắn kết (Les mains jointes, 1909), thơ.
Đứa con dưới gánh nặng xích xiềng (L’enfant chargé de chaines, 1911), tiểu thuyết.
Thịt và máu (La chair et le sang, 1920), tiểu thuyết.
Nụ hôn cho người hủi (Le baiser aux lepreux, 1922), tiểu thuyết.
Sông lửa (Le fleuve de feu, 1923), tiểu thuyết.
Bà cụ tổ (Genitrix, 1923), tiểu thuyết.
Giông tố (Orages, 1925), thơ.
Sa mạc tình yêu (Le désert de l’amour, 1925), tiểu thuyết.
Điều đã mất (Ce qui était perdu, 1926), hồi kí.
Thérèse Desqueyroux (Thérèse Desqueyroux, 1927), tiểu thuyết.
Những đau khổ của một tín đồ Kitô giáo (Souffrances du Chrétien, 1928), tiểu luận.
Chúa và Mammon (Dieu et Mammon, 1929), tiểu luận.
Đau khổ và niềm vui của một tín đồ Kitô giáo (Souffrances et bonheur du chrétien, 1931), [Anguish and Joy of the Christian Life], tiểu luận.
Ổ rắn độc (Le noeud de vipère, 1932), tiểu thuyết.
Bí ẩn nhà Frontenac (Le Mystère Frontenac, 1933), tiểu thuyết [The Frontenac mystery].
Đêm tàn (La fin de la nuit, 1935), tiểu thuyết.
Các thiên thần đen (Anges noirs, 1936), truyện.
Đời Jésus (La vie de Jésus, 1936), tiểu luận.
Lặn dưới nước (Plongées, 1938), tập truyện.
Asmodée (Asmodée, 1938), kịch.
Những con đường của biển (Les chemins de la mer, 1939), truyện.
Máu Atys (Sang d’Atys, 1940), thơ.
Người đàn bà đạo đức giả (La pharisienne, 1941), kịch.
Cuốn sổ đen (Le cahier noir, 1943), tiểu thuyết.
Nhật ký (Journal, 1934-1950), hồi kí.
Con cừu non (L’Agneau, 1954), tiểu thuyết.
Hồi ký nội tâm (Mémoires intérieurs, 1959), luận văn.
Điều tôi tin (Ce que je crois, 1962), hồi kí.
Nghiên cứu về Charles de Gaulle (1964).
Một đứa trẻ ngày nào (Un adolessent d’autrefois, 1969), tiểu thuyết.
Ba câu chuyện (Trois récits), tập truyện ngắn.
* Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt:
Cuộc tình buồn, Nguyễn Bích Như - Thu Uyên dịch, NXB Tổng hợp Bình Định, 1990.
Người vợ cô đơn (tiểu thuyết), Mặc Đỗ dịch, NXB Hội Nhà Văn, 1997.
Bí ẩn nhà Frontenac, Dương Linh dịch, NXB Thế Giới, 1999.
Giới thiệu Tác giả
Tiến >>
Đánh máy: Trang Phạm, Thái Thanh, Hoàng Kim, Ngọc Anh .
Nguồn: Bookaholic Club
Nhà xuất bản: Tổng hợp Bình ĐịnhNăm xuất bản: 1990
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 4 tháng 3 năm 2022