Nụ Cười Dưới Chân Thang

henry miller

dịch giả: lương dinh

Lời Tựa

Có lẽ đây là câu chuyện lạ lùng nhất trong những câu chuyện tôi đã viết. Tác phẩm này đặc biệt dành riêng cho Ferdinand Léger để phỏng theo một loạt bốn mươi bức họa về những anh hề và các gánh xiếc.

Sau khi nhận lời mời của Léger bảo tôi biên soạn, tôi phải mất mấy tháng mới bắt đầu. Mặc dầu được hoàn toàn tự do, tôi vẫn cảm thấy có trở ngại. Trước đây tôi chưa hề viết truyện theo lời yêu cầu như tác phẩm này.

Hầu như những tên tuổi sau đây luôn luôn lảng vảng trong đầu tôi: Rouault, Miro, Chagall, Max Jacob, Seurat. Tôi gần như ao ước được yêu cầu vẽ tranh hơn là soạn lời. Trong quá khứ tôi đã từng sáng tạo một số ít hình màu vẽ những anh hề, trong đó có bức tranh tựa đề là “Gánh xiếc Medrano”. Ít ra một trong những chú hề kia giống hệt Marc Chagall như thiên hạ vẫn nói mặc dầu tôi chưa hề gặp Chagall cũng như chưa bao giờ thấy hình ảnh nhà họa sĩ trứ danh ấy.

Đang lúc cố gắng bắt tay vào việc, tôi bất chợt tìm thấy một cuốn sách mỏng do Wallace Fowlie viết, trong đó có một bài tiểu luận chua chát về những anh hề của Rouault. Suy gẫm về cuộc đời và sự nghiệp của Rouault, một cuộc đời có ảnh hưởng quan trọng đến tôi, tôi bắt đầu nghĩ về mình, nghĩ đến chính bản thân hề của mình, từ lâu tôi vẫn là một thằng hề giữa cuộc đời. Tôi nghĩ đến đam mê của tôi về nghề hát xiệc, nhất là tất cả những kinh nghiệm của tôi trong tư thế khán giả và vai trò của người nhập cuộc thầm lặng đã phải lắng sâu trong ý thức của tôi như thế nào. Tôi hồi tưởng khi bước chân ra khỏi ngưỡng cửa Trung học, họ hỏi tôi muốn làm gì sau này và tôi đã trả lời: “Muốn làm hề”.

Tôi nhớ lại nhiều bạn bè xưa kia giống hệt như hề qua tính tình của họ. Và họ là những người tôi yêu mến nhất. Rồi sau này tôi ngạc nhiên khám phá những bạn thân nhất của tôi cũng đã xem tôi như một anh hề.

Và bỗng nhiên tôi thấy đề tựa cuốn sách của Wallace Fowlie (cuốn sách đầu tiên của ông mà tôi có dịp đọc) đã đập mạnh vào cân não tôi: HỀ VÀ THIÊN THẦN. Balzac đã nói với tôi về thiên thần tại Louis Lambert và xuyên qua vô số những đề tài thật dài của Fowlie về anh hề, tôi đã tìm thấy một quan niệm mới về vai trò anh hề. Hề và thiên thần thích hợp với nhau một cách tuyệt diệu.

Hơn nữa, chính tôi há chẳng từng viết đâu đó trong tác phẩm của tôi về August Angst và Guy le Crèvecoeur sao? Họ là ai, là hai linh hồn đau khổ, điêu đứng, tuyệt vọng nếu không phải là chính tôi?

Rồi một chuyện khác... bức họa thành công nhất mà tôi chưa bao giờ có là cái đầu của một anh hề được tôi vẽ hai miệng, một miệng dành cho niềm vui và một miệng cho chuyện buồn. Miệng vui sơn đỏ, đó là miệng cười (khi nhớ lại điều này tôi sực ý thức rằng mình không còn cười nữa).

Thỉnh thoảng tôi có nhận vài mẫu họa do Léger gởi đến. Một trong những bức tranh ấy có đầu con ngựa vẽ nổi lên. Tôi gạt những bức họa kia vào một góc ở hộc bàn, bỏ quên chúng rồi bắt đầu viết. Tôi không bao giờ nghĩ ra tôi đã tìm được ngựa ở đâu cho đến khi chấm dứt câu chuyện. Dĩ nhiên cái thang là món quà do Miro tặng, mặt trăng cũng thế, gần như thế. Chó sủa trăng là bức họa đầu tiên của Miro mà tôi có dịp xem.

Thế là tôi bắt tay vào việc, với lòng tin sắt đá rằng tôi có tất cả những gì cần biết về những anh hề và các gánh xiếc. Tôi viết từng hàng chữ một, viết một cách mù mịt, không cần biết chuyện sẽ dẫn đi tới đâu. Hành trang của tôi chính là bản thân của tôi, tôi vô tình đánh cắp hình ảnh cái thang và con ngựa. Những bạn đồng hành của tôi là những thi sĩ và họa sĩ mà tôi ái mộ: Rouault, Miro, Chagall, Max Jacob, Seurat. Lạ thay, tất cả những nghệ sĩ này đều là thi sĩ kiêm họa sĩ. Tôi có những liên hệ mật thiết với mọi người trong đám văn nhân này.

Mỗi chàng hề là một thi sĩ trong hành động. Đời anh là câu chuyện của anh đang đóng. Đời đời câu chuyện ấy vẫn mãi mãi: sùng bái, ngưỡng mộ, đóng đinh vào thánh giá. Dĩ nhiên với cây thánh giá nhuốm máu hồng.

Phần duy nhất của câu chuyện gây khó khăn cho tôi là một số ít trang cuối mà tôi phải viết đi viết lại nhiều lần. « Có một thứ ánh sáng giết người. » Tôi nghe văng vẳng tiếng nói của Balzac đâu đây. Tôi muốn vai chánh của truyện tôi viết, Auguste, phải lìa đời như một luồng ánh sáng. Nhưng không phải lìa đời trong sự chết. Tôi muốn cái chết của y soi sáng đường đời. Tôi cho đây không phải là sự chấm dứt mà cuối cùng là sự bắt đầu – Và không phải chỉ riêng cho Auguste mà cho toàn thể nhân loại.

Đừng ai bảo rằng tôi đã cân nhắc câu chuyện. Tôi kể ra đúng hệt như tôi đã rung cảm, như câu chuyện đến với tôi từng đoạn một. Đây vừa là câu chuyện của tôi, vừa không phải là của riêng tôi. Dĩ nhiên đây là câu chuyện lạ lùng nhất mà tôi chưa hề viết. Đây không phải là một tài liệu siêu thực, hoàn toàn không phải. Phương pháp viết truyện có thể là siêu thực, nhưng tôi chỉ muốn nói rằng các nghệ sĩ của phái siêu thực đã bắt lại cái phương pháp sáng tạo đích thực. Không, câu chuyện này

đúng với sự thật hơn tất cả những câu chuyện mà tôi đã căn cứ vào sự kiện và kinh nghiệm để viết lên. Tất cả mục đích của tôi khi viết truyện là nói lên sự thật. Tất cả nhân vật của truyện tôi đều có thật, lấy ra từ cuộc sống, cuộc sống của chính tôi. Auguste là người độc nhật, anh đến từ màu xanh. Những thứ màu xanh vây quanh và bao phủ chúng ta là gì nếu không phải chính là thực tại? Quả thật chúng chẳng tạo ra gì cả. Chúng ta chỉ vay mượn và tái tạo. Chúng ta che giấu rồi khám phá. Chúng ta có tất cả các dữ kiện như những nhà thuật sĩ thường bảo. Chúng ta chỉ cần mở mắt và tim để trở thành nhất thể với hiện thể đó.

Tôi xót xa nhiều cho anh hề, mặc dầu tôi vẫn không hay biết, chính vì anh ngăn cách với thế giới qua tiếng cười. Tiếng cười của anh hề không bao giờ là tiếng cười theo lối Homère. Đó là tiếng cười của câm lặng, tiếng cười buồn như chúng ta thường nói. Anh hề dạy chúng ta biết cách cười cợt chính bản thân mình. Và tiếng cười của chính chúng ta được thai nghén trong những giọt nước mắt.

Niềm vui rạng rỡ như một dòng sông: dòng sông chảy mãi. Với tôi, có lẽ đây là lời nhắn gởi mà anh hề cố chuyển đạt đến chúng ta, bảo chúng ta phải nhập cuộc xuyên qua dòng luân lưu bất tận, chúng ta không được dừng lại để suy nghĩ, để so sánh, để phân tích, để chiếm hữu, mà phải tiếp tục chảy xuyên qua mọi vật, chảy không ngừng như điệu nhạc. Đây là món quà của sự buông xả, và anh hề chỉ diễn tả một cách tượng trưng. Bổn phận chúng ta là phải làm cho cái tượng trưng ấy thành sự thật.

Chưa bao giờ lịch sử nhân loại đầy rẫy những đau thương và thống khổ như hiện nay. Thế mà chúng ta vẫn gặp được đó đây những con người riêng lẻ mà nỗi đau khổ chung không thể nào động đến họ được. Họ đâu phải là những con người không tim, hơn thế nữa! Thế giới không hiện ra với họ như hiện ra với chúng ta. Họ có lối nhìn của riêng họ. Chúng ta cho rằng họ đã chết với thế giới này, thực ra họ đã sống trong khoảnh khắc, sống tràn đầy và những tia sáng từ con người họ chiếu ra cả một bài ca vui bất tận.

Gánh xiếc là một kịch trường tí hon khép kín của sự quên lãng. Trong không gian ấy chúng ta có thể quên chính mình, chúng ta tan trong sự nhiệm mầu và lạc phúc, chúng ta được cho đi trong lễ nhiệm mầu, bước từ trường xiếc trở về thực tại, chúng ta trở nên bàng hoàng, kinh ngạc, buồn rầu và hốt hoảng vì bộ mặt hằng ngày của đời sống quá tẻ nhạt. Nhưng chính cái thế giới hằng ngày tẻ nhạt kia, cái thế giới mà ta cứ ngỡ rằng đã quá quen thuộc với chúng ta, lại là thế giới độc nhất, và đó là thế giới của huyền ảo, bất tận. Như anh hề, chúng ta đi xuyên qua những chuyển động, luôn luôn giả vờ, luôn luôn hoãn triễn lại cái biến cố trọng đại nhất của đời mình. Chúng ta chết khi chiến đấu để được sinh ra. Chúng ta đã không hiện hữu, chúng ta không bao giờ hiện hữu, chúng ta luôn luôn trên đường trở thành, luôn luôn ngăn cách và cô lập. Luôn luôn đứng ngoài.

Đây là tấm hình của August Angst, tự Guy le Crèvecoeur hay là bộ mặt hằng ngày của thế gian này, với hai cái miệng khác nhau. August thuộc dòng máu khác. Có lẽ tôi vẽ hình anh ta không được rõ ràng. Nhưng anh đã hiện hữu, dù chỉ hiện hữu vì lý do là tôi đã tưởng tượng nên sự hiện hữu của anh. Anh đến từ màu xanh và trở về với màu xanh. Anh không tan rã, anh không mất đi. Anh cũng sẽ không bị quên lãng. Cũng chỉ ngày nọ nhờ nói chuyện với một họa sĩ mà tôi mới biết được những bức tranh do Seurat để lại. Tôi cho rằng chúng bị cắm xuống như rễ cây ở nơi mà Seurat đã cho chúng hiện hữu một cách vĩnh viễn. Tôi mang ơn Seurat rất nhiều vì tôi được sống bên những bức tranh ấy – ở vùng Grand Jatte, ở Medrano hay bất cứ nơi nào trong tâm trí. Không có gì là hão huyền trong những sáng tạo của Seurat. Thực thể của chúng bất diệt. Chúng cư ngụ trong ánh sáng mặt trời cùng hòa lẫn trong hình thể và âm điệu của bản nhạc du dương đích thực. Những anh hề của Rouault cũng thế, những thiên thần của Chagall cũng thế, chiếc thang và mặt trăng của Miro cũng thế, quả thực tất cả thú vật của gánh xiếc cũng thế. Với Max Jacob cũng thế, anh là chú hề bất diệt ngay cả lúc đã trở thành Thượng đế. Trong lời nói, trong hình ảnh, trong hành động, tất cả những tâm hồn có đầy diễm phúc này đã cùng tôi biểu lộ ảo mộng của họ cho cái thực tế vĩnh cửu này. Thế giới hằng ngày của họ mai kia sẽ là thế giới của chính chúng ta. Quả thật giờ đây nó là thế giới của chúng ta, chỉ vì chúng ta quá nhu nhược nên mới đòi hỏi nó cho mình.

HENRY MILLER

Lời Tựa

Tiến >>

Scan: BuiHuuhanh - Đánh máy: Nguyễn Đan Thanh
Nguồn: Nhà xuất bản: AN TIÊM lần thứ nhất Saigon, Mùa Mưa 1974
Vietnamthuquan.eu - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 15 tháng 4 năm 2024