Tiếng hú hồn của mụ ké

thế lữ

1- Tiếng hú hồn của mụ ké

Tiếng hú đưa từ phía rừng Sam-na đưa lại. Đêm nào mưa gió thì nghe tiếng ấy lẫn vào với tiếng nước đổ, cây vù. Đêm nào lặng trời thì nghe rõ ràng lắm. Nhất là về giữa trống canh hai, bấy giờ trong làng người Mán đã bắt đầu yên nghỉ, tất trong cài vùng tối tăm dữ-tợn, tiếng hú bổng lên không tợ như giọng ba bốn đứa trẻ xác xơ đang ngồi ở bãi vắng hay bờ lau mà gào mẹ chết.

Hồn kêu hay ma khóc? Rừng réo hay suối vang?

– Chẳng biết. Nhưng mà ở cái chốn hầm thiêng nước độc, ở cái chốn rừng rú lam-chướng này — tuy rằng dân cư đã dạn với cái khủng-khiếp — tiếng hú mới có độ mất hôm nay ấy nó có cái vẻ quái-lạ khác thường lắm. Có lẽ lần này là lần thứ nhất người ta mới được trông thấy cái lo sợ của người Mán Khao-la.

Bởi vì gần đây trong làng mới thấy một điều khác. Gần đây trong rừng mới có một con hổ rất dữ, các bọn đi săn giỏi nhất cũng bị hại rất nhiều. Có khi giữa ban ngày nó cũng dám ra cướp trâu bò dê lợn của người Mán. Dẫu đặt bao nhiêu bẫy cạm, dẫu đi từng đoàn thiện-xạ săn bắt, dẫu tay lao nỏ trông thấy bóng hổ rất gần: hổ vẫn thoát khỏi. Hết cả phương kế. Hổ vẫn cứ tự do tung hoành. Người Mán thường coi hổ như con chó dữ, bấy giờ cũng phủi nhụt, cũng phải run-sợ vì « Chúa sơn-lâm. »

Cũng một thời kỳ xuất-hiện « Ông rừng» ghê gớm, có một người đàn bà với một cô con gái làng ngoài đến ở. Chừng là hai mẹ con, mà là dân ở thôn xa lắm. Hai người đến ở, dựng một túp lều lá ở bên một cái bụm lớn, lại ở ngay cửa rừng Sam-na. Như thế, dường như hai mẹ con nhà này có ý cách biệt hẳn với xóm làng ở đấy. Cả một làng dăm ba mươi nóc, chen xít nhau ở bên khu rừng, dân cư vẫn giúp đỡ lẫn nhau, vẫn binh vực lẫn nhau, nay có người đột-nhiên đến, lại ăn ở ra cách biệt thì thật lạ lùng. Không ai hiểu lịch-tình hai người ấy. Mà từ khi rừng thành dữ, không mấy ai dám đến nên cũng không biết hai mẹ con làm ăn ra sao. Chỉ những lúc chợ phiên, mới thấy hai người ra mặt; gánh củi từ cửa rừng ra bán rồi đổi lấy gạo muối về nhà.

Người đàn bà trạc độ năm mươi, năm nhăm tuổi, người trông khô xác, thấp bé, chỉ lanh-lẹn ở hai con mắt sắc-sảo mà lúc nào cũng gườm-gườm. Cô con gái độ mười sáu mười bảy tuổi, nét mặt xinh-xắn, lúc nào cũng có vẻ e-lệ ngây thơ. Các cậu ở trong làng ra chợ, cậu nào trông thấy cô ả cũng phải ngơ-ngất mà nhìn hoài, Nhung không cậu nào dám toe-toét cười hay buông lời trêu cợt, vì có mụ già đứng đấy trả lời lại những lối trai-lơi kia bằng một cái nguýt khinh bỉ, hằn giận đến rùng mình. Anh nào to gan không sợ lại cứ sán gần đến cô bé, tức thì mụ mắng cho mấy câu, rồi chẳng đổi chác thì chớ, cầm ngay lấy tay cô bé, cất gánh củi, một mạch đi về. Người Mán vốn có tính đặng-đột thật-thà, không có tính thâm hiểm ghen ghét, nhưng thấy cái cử-chỉ nhạt-nhẽo, bí mật của mụ già khô khan kia; thì không khỏi sinh nghi. Vì thế, sau những buổi chợ, hoặc những lúc nói chuyện vãn với nhau, nguời Mán thường nói đến hai mẹ con nhà ấy.Trước thì cho là một mụ ké cay nghiệt, sau cho là một mụ di có thờ ma gà; rồi từ đó, mỗi ngày một thêm điều bày đặt, thậm chí cho mụ ké chính là một con hùm-tinh. Có người dựng đứng lên nói rằng: « Chính nó đấy, thật là thế, chính nó là con hùm trong rừng. Con hùm trong rừng nó biến thành con mụ ké và cô con gái để đi đánh lừa đó!»

Bỗng nhiên mấy phiên chợ nay, không thấy mặt mẹ con mụ ké nữa, mà từ ngày mụ ké không ra chợ thì dân cư bắt đầu nghe thấy tiếng hú ban đêm. Dân cư lại càng chắc mụ ké không phải là người thật. Hẳn mụ ké biết đã lộ cái cách tàng-hình nên không dám ra nữa, từ nay đành phải giữ nguyên-hình. Nhân đó, thường thường những lúc quây quần buổi tối, nhà nào nhà ấy đóng cửa cho kín ; trước khi đi ngủ ngồi quanh ngọn đèn mà kể chuyện hùm- tinh. Một trận gió đưa, tiếng tầu lá động, chốc-chốc lại thêm tiếng hú nghe xa lăng-lắc, làm cho mọi người lại nín tiếng, lắng tai và tái mặt hồi lâu.

Theo như những câu chuyện họ kể, thì trước kia ở đây cũng có một con hùm-tinh. Con hùm này quỷ-quái lắm, thường thường nhảy vọt được lên cây mà nói được tiếng người. Khi thì thưa-thưa gọi-gọi, khi thì khóc-khóc cười-cười. Thấy người nào đi qua rừng là giả tiếng bà già đang nói, hay một đứa bé nheo-nhẻo gọi: «Thầy ơi, u ơi, ông ơi, bác ơi... » Những người nghe gọi ngảnh nhìn lên cây thì chỉ thấy một con cọp đang cười sằng-sặc, khiến cho người đó kinh hồn ríu chân không chạy được. Hùm-tinh cứ việc nhảy xuống mà xơi. Về sau con hùm tinh ấy hình như bị sét đánh chết, nên dân cư mới được yên mãi cho đến giờ.

Tới nay, lại có một con khác đến.Cái tiếng hú từ phía rừng đưa lại, chẳng là tiếng con hùm-tinh đó sao!

Một đêm kia, dân cư lấy làm ngạc-nhiên lắm: tiếng hú không thấy vẳng nữa, mà đêm hôm ấy lại tạnh ráo, trời đất không có tiếng mưa gió gì. Ai cũng lo rằng có lẽ con hùm- tinh bỏ rừng để đi đánh lừa người ăn thịt. Đêm đã khuya lắm, không ai dám bước chân ra ngoài. Mọi người đều im thin-thít để nghe ngóng. Giá bấy giờ có ai gọi xin lửa hay hỏi gì thật cũng không dám mở, vì biết tiếng người hay tiếng con hùm-tinh? Một vài nhà ló mắt nhìn khe phên để trông ra ngoài. Bên ngoài vẫn lặng-lẽ; trên cái bãi bao-la mờ-mờ sáng lạnh ở dưới mặt trăng còn khuyết kia, chưa thấy bóng con hùm-tinh ra khỏi rừng.

Gần hết canh hai, bỗng nhiên một toán bảy người lực-lưỡng đi mạn Sam-na. Nhìn kỹ thì là bảy người trai trong làng Mán. Nguyên họ nghe lời ông Lang sai đi đến nhà mụ ké để rình xem mụ là người hay là hùm-tinh nhốt lốt. Mấy người đi đây, tuy trong lòng ghê-sợ tai nạn, nhưng vì có bọn đông, và ai cũng tin cậy ở cuộn dây trão ngũ sắc: Hùm-tinh sợ dây phù-phép, vì khi bị dây ấy trói, không tài nào biến được đi đâu. Đi đến nhà mụ ké, một người ra hiệu cho ai nấy rén bước, hễ trông thấy mụ ké tức thì trói nghiến ngay lại hễ thấy mụ ké thò đuôi ra (người ta tin rằng hùm-tinh khi hóa ra người vẫn còn đuôi) thì giết phăng ngay đi.

Nhưng trong nhà tối lắm, mà cửa lại mở, nhìn kỹ vào không thấy có người! Mấy bác đã chột dạ, song cũng rẻo lối sau để nghe ngóng xem sao. Một người bỗng kéo áo người đi cạnh, trỏ vào một vật lù-lù nằm ở sân sau. Mọi người cùng nhìn, sởn cả gai ốc! Bên cái vò nước, dưới bóng trăng suông, một con vật vằn-vằn nằm không cử động!.. Không phải chỉ có một con, nhìn lại thì ra ba bốn con nằm đó, mà con nào cũng như ngủ say mệt say mệt! Ghê-sợ quá cùng nhau hết sức nín tiếng mà lùi. Vô phúc nó trở dậy bây giờ thì chết cả. Cũng có người sực tỉnh khẽ bàn nên nhân lúc nó ngủ đem dây phù mà trói lại cho mau. Chết cái chưa ai hoàn hồn, vì đột nhiên gặp thấy cái bất-thình-lình như thế thì can đảm đến đâu, cũng phải núng. Vả nó là yêu-tinh, nó khôn-ngoan lắm, biết đâu, con mụ ké đoán trước là có người đến, nên đổi nguyên-hình ngủ đây để cho người mắc lừa, đã rắp tâm thế, mà không tìm đường thoát sớm thì …

«Hàầm…!»…Một tiếng vang động đâu đâu, bọn bảy người rụng rời đổ đốt ….

Hầm-m!!! Tiếng gầm của con cọp con cọp dữ ghê dữ gớm, tiếng gầm của con hùm-tinh!

Bảy chàng con trai cường-tráng không còn nghĩ gì đến bắt mấy con cọp ngủ nữa, anh nào anh ấy cuống chân lên chạy… mong cho mọc ngay hai cái cánh mà bay lên trời.

« Hu… ầm, h… ầm!!! »

Nhưng, hú vía! Bọn này chạy đã xa; bây giờ, đã đến xóm; khản cả tiếng, líu cả lưỡi, gọi người ra mở cửa, rồi vào nằm vật ra nhà, thở không ra hơi. Bên ngoài, không thấy gì, nhưng tiếng gầm vẫn cứ rống.

Từ hôm ấy mà đi, ai cũng lo sắp có một cái tai-nạn ghê-gớm. Nhưng mà lạ! Dân làng cứ mất mật mà đợi những tai-nạn không có bao giờ.

Tiếng hú trong rừng thấy mất. Trâu bò của người Mán cũng không thấy dấu hổ đến tha đi. Đã non một tháng rưỡi trời lo sợ, mà chẳng thấy xảy ra việc gì. Hùm-tinh đâu? Chết rồi chăng? Hay đi nơi khác? Mà hùm-tinh chết hay đi rừng khác, có lẽ dân làng được yên chăng?

Cách đó đến gần hai tháng, không ai dám đánh bạo vào rừng; cũng không ai dám bén-mảng đến nhà mụ ké. Mụ ké với người con gái cũng không ai gặp cả. Người Mán không lấy gì làm lạ, họ thản-nhiên mà bảo nhau:« Mụ ké ấy, chinh là con hùm-tinh, con hùm-tinh ấy, nó mới bỏ Sam-na nó đi, vì dân Khao-la khôn hơn con hùm-tinh ấy….»

Đó là việc có thật đã xảy ra ở mạn Khao-la ngày trước. Nhưng việc có thật sao vẫn còn giữ cái vẻ hoang-đường như thế? mà cái tiếng hủ trong từng Sam-na kia duyên do vì đâu mà ra? Người làng Khao-la không chịu biết, họ chỉ sẵn lòng tin những điều họ đã đoán phỏng được thôi. Bởi vậy, nguồn gốc câu chuyện này không mấy ai cho là thực cả

Cuối đời nhà Tiền-Lê, làng Khao-la thuộc Lầu-chảy, triều-đình vẫn để yên cho dân cư sinh nhai trong chốn nước thẳm non cùng. Chúa Mán là Nang-bô-Kha, nhân trong nước không yên, bèn nổi lên tỏ ý không thần-phục. Quan quân đem binh sát-phạt, số đông dân Khao-la xin hàng. Còn bọn không thuận thì trốn chạy. Được ít lâu liền lập ra ở miền rừng hoang một làng riêng cũng gọi là Khao-la. Hai làng Khao-la nội và ngoại cách nhau xa lắm, và không bao giờ giao-thiệp với nhau ; rồi từ đó tính-tình, phong-tục cũng không giống nhau mấy. Như thế được hơn mười năm hai dân vẫn cứ bằng yên mà làm lụng.

Người đàn-bà Mán bị tưởng là hùm-tinh kia là người làng ngoài. Bà ta góa chồng từ sớm: nói là bị góa chồng, nhưng thực ra thì bà ta bị chồng lừa. Người chồng ấy lấy bà ta đến lúc có mang thì bỏ đi. Bà ta căm tức lắm, nguyền rằng nếu đẻ ra con trai thì giết tức thì. Đến lúc nở, lại sinh con gái. Bà ta mới đổi oán làm mừng, nưng niu chăm chút đứa con và làm lụng cần-cù nuôi cho con khôn lớn. Đặt tên cho con là Mi-nàng, và bỏ tên chồng, nhận lấy tên con làm tên mình để tỏ lòng yêu dấu.

Mi-nàng mười sáu tuổi, trong làng có người thấy nhan sắc đem của cái rất nhiều đến xin, mẹ Mi-nàng không thuận, nên Mi-nàng cũng không thuận. Mi-nàng ngây-thơ lắm, bên kia dùng lời ngọt-ngào dỗ-dành không rời. Sau thấy cô ta đã xiêu lòng, liền giở thói cưỡng nài không đợi đến lúc cưới hỏi. Mi-nàng bị lừa rất là hổ-thẹn ăn-năn, đem đầu đuôi thú-thật cả với mẹ. Bà mẹ tức khắc đến điều-đình với bên kia nói là thuận gả con gái. Nhưng bên kia nắm được đằng chuôi, trở mặt ; mong rằng mẹ Mi-nàng đem con biếu không cho mình mới nghe. Bà ta nổi giận, lại nhớ đến con người ăn ở bạc-bẽo với mình… Không nói năng gì cả, đến đêm rình một chỗ, rồi xông ra chém chết thằng con trai kia. Giết nó xong, không hối-hận, không sợ hãi, xốc ngay cái thây, còn đeo lủng-lẳng cái đầu ma, đem về vất ra sau nhà. Rồi vào gọi con gái vác nải gạo và bọc quần áo đi trốn.

Hai mẹ con đi được một ngày một đêm về mạn Sam-na, thì tìm chỗ nghỉ. Bấy giờ bà mẹ mới cầm hai má cô con gái mà nhìn. Bỗng nước mắt chứa-chan, rồi bà ta ôm lấy con mà khóc nức nở:

– Mi-nàng! Mi-nàng! Nòng-Khon nó muốn đánh lừa mẹ, đánh lừa con ; mẹ đã giết Nòng-Khon cho nó chết.

Rồi bà ta lại khóc, như muốn lấy tiếng nức-nở để nói nốt bao nhiêu lời. Mi-nàng cũng khóc, có lẽ nửa thương tình-nhân bỏ mạng, nửa thương bà mẹ hiền phạm tội ác vì yêu cô ta.

– Mi-nàng ơi! Mẹ với con đi đày, đi trốn! Ở đấy làm gì với những người nó chỉ chực cướp sống con gái yêu của mẹ ; con nghe chưa?

– Con nghe rồi. Con cũng … muốn thế…

– Thế thì hay lắm, mẹ với con đi rõ xa, xa lắm kia. Rồi làm nhà riêng một nơi, mẹ đi làm, con đi làm, mẹ con nuôi nhau, con yên vui mà mẹ cùng vẫn được yêu dấu con, mẹ sung-sướng!

Đêm hôm ấy hai người tìm bóng cây để ngủ. Mi-nàng mỏi quá ngủ ngay, nhưng bà mẹ vẫn thức, vừa thở dài vừa xua muỗi hay kéo lại khăn áo cho con nằm yên.

Sáng hôm sau hai mẹ con lại đi. Cô con gái thì đi trước, xách bọc quần áo; bà mẹ đi sau, khom lưng địu một nải gạo nặng nề. Mi-nàng hai mắt hoe đỏ, chốc chốc lại trông với lại, trông trời cao mây vẩn, trông cỏ cây núi rừng; trông cái khoảng đường xa non án, nó phân chia cho nàng không thấy được quê hương. Những lúc cô con gái trông lại như thế, có khi gặp mắt bà mẹ: bà mỉm cười cho con gái quay đi, rồi lại đăm-đăm nhìn thẳng trước mắt, như tìm xét xem nơi nào mới chắc-chắn nơi nào mới kín đáo để mẹ con ẩn náu mà nuôi nhau. Đối với lúc phải bỏ quê quán mình ai là người không sầu cảm ; nhưng bà mẹ Mi-nàng vui mừng quá, sẵn lòng quên được buổi phân ly. Từ ngày bị người chồng rẫy bỏ — rẫy bỏ vì đã chán-chường nhau — bà ta chỉ biết lấy cái bông hoa này để làm át được cái gương sầu nó ám ảnh. Bao nhiêu lòng giận-dỗi người đơn bạc, nay đem bỏ đi hết mà để trong lòng cái mối tình rất mật thiết, rất đằm-thắm là tình yêu con. Mẹ cô Mi-nàng yêu cô ấy quá, yêu cô ấy quá mà thành ra ghen hờn với người ngoài, không muốn cho ai dòm-dỏ, không muốn cho ai tấm-tắc khen cô; cái dáng-điệu, cái nhan-sắc Mi-nàng, bà mẹ lấy làm đắc-chí mà thu giữ lấy một minh cái thú được yêu được ngắm.

Đi một ngày một đêm nữa, thì đến cạnh rừng Sam-na. Ở đấy mới thấy có nhà cửa dân-cư, nên mẹ con định lấy làm nơi nương náu. Ở chung với người trong thôn thì lại sợ cho con, nên mới dựng túp lá nhỏ ở xa cho cách biệt, từ đó bắt đầu cuộc đời lam-lũ nhưng rất sung sướng cho bà mẹ. Sáng đi xới vườn, kiếm củi, tối về rau cháo bên con ; bao nhiêu ái-ân, bao nhiêu tình-tứ, lời nỉ-non, giọng tha-thiết; cái nhà tranh hụp-túp bấy giờ không biết đến những điều kinh-hoàng bí-hiểm trong rừng.

Một tháng – sáu bảy ngày phiên chợ –, bà mẹ lại dắt con gánh củi đi chác lấy gạo về ăn. Đến nơi đổi chác cho mau vì bà ta rất gờm những trai làng nó chỉ chực lấy cách nhởn-nhơ mà câu mất con gái.

Mẹ con ở với nhau được hơn một tháng ; mẹ chịu khó, con chịu khó, làm ăn suốt ngày quên cả nhọc nhằn. Yên vui thực. Bà mẹ vẫn nhắc đi nhắc lại một mình rằng: «Suốt đời người, bây giờ thực mới biết được cái sung sướng» Tuy thế, không hiểu vì đâu, trong lòng bà ta vẫn còn phấp-phỏng sợ ; sợ cái hòn ngọc báu, báu vô ngần vô giá, hòn ngọc không ngọc nào sánh tầy: vẫn sợ rằng không được âu-yếm mãi. Lúc nào mẹ cũng muốn cho con tươi cười vui vẻ; con cũng vẫn tươi cười vui vẻ đấy. Nhưng con mắt chứa-chan tình cảm của bà mẹ kia nó sắc-sảo lạ thường. Trên khuôn mặt Mi-nàng, bà ta vẫn thấy cái bóng mây buồn nó vương vít, cái nét đau đớn nó ẩn núp: nó cứ đòi lẻn vào đôi mắt ươn-ướt với cái miệng cười cố gượng của nàng. Có khi mẹ để con ngồi một mình trong nhà, rồi ra núp một nơi, rón rén bước lại khe hở vách ghé mắt nhìn qua mà xem mặt con. Cũng may, những lúc đó mặt Mi-nàng chưa đổi sắc, vẫn còn nguyên cái cười nụ vừa rồi. Bà mẹ thấy thế vui sướng quá chạy ngay vào nhà ôm ngay lấy con mà nưng-niu trong tay:

– Con yêu mẹ nhé, con thương mẹ nhé! Con khỏe đi, con lớn đi, con vui vẻ đi cho mẹ sung sướng với con.

Rồi bà ta lại ôm chập lấy con, giấu đầu vào ngực nàng mà không biết là cười hay là khóc. Mi-nàng cảm-động lắm càng ngày càng cố làm cho mẹ càng vui càng mừng. Sau mấy lần rình cái vui — hay là cái đau đớn của con— bà mẹ Mi-nàng yên vui sung sướng một cách vững-vàng lắm.

Thương hại thay bà lão! Chưa chi bà đã vội mừng. Bà có hay đâu rằng những khi canh khuya chợt thức, cô con gái kia vẫn ngấm ngầm mà nuốt cái đắng xót chua cay! Phải, cô ta cay đắng thực, mà cái cay đắng ấy lại gây nên chính bởi tấm lòng yêu quý của mẹ cô ta! Ai xui nên quê hương xa cách, ai xui nên kẻ chết người còn...? Quê-hương kia cô không còn mong được gặp mà người tình-quân chỉ ân-ái chốc lát kia cô cũng không hy vọng —thật không có lấy một mảy may hy vọng gì—là còn được sum-vầy cùng nhau.

Nhưng mà cái khối lòng kia rồi đây dần dần cũng mất chắc hẳn thế. Chừng như mẹ Mi-nàng cũng có biết bụng con vẫn thảm sầu, song bà còn mong ở cái lâu ngày thành quen, con gái cũng quên hẳn được người tình cũ. Vả lại, bà biết cố gắng, bà biết nhẫn-nại, bà biết cách tìm cái vui cười mãi mãi cho con gái của bà.

Mẹ con đã bàn nhau kế sinh-nhai cho dễ-dàng hơn trước. Xới thêm đất trồng rau cỏ, đánh các cây cối về chung quanh nhà, lại tìm lấy mấy cái tổ ong nuôi lấy mật. Rồi ra nếu cố công cần cù vun bón, sẽ kiếm lấy mấy con lợn con bò về nuôi, đợi cho sinh nở ra nhiều thì càng đễ đương, đổi chác cho người trong làng lấy nhiều thóc gạo. Cô Mi lại nghĩ thêm được mấy cách, nào chăn tằm, nào kéo sợi rồi thì đặt khung dệt lụa vải, hay thêu thùa may vá trong những ngày không đi kiếm trên rừng. Bàn đi tính lại, bà già đã trông thấy trước cái cảnh-tượng mới-mẻ cho nhà cửa mẹ con mình.

Hôm ấy đang cùng nhau kiếm củi, bà mẹ Mi-nàng sực nhớ tới mấy cái bẫy chim còn bỏ ở nhà. Bảo con đứng đợi tất tả chạy về tìm bẫy đem lên. Mi-nàng dặn với: mẹ đem cả cái giỏ nữa để đựng nấm. Nấm này còn con sâu nó vào đấy nó cũng rụng hết cả.

Nói rồi nàng để mẹ về, lúi-húi hái những nấm non ở hốc cây hốc đá. Lần này bà ta mới để con một mình ở đó, vì nhà gần, bà ta lại lên được ngay. Tuy thế trong bụng vẫn bồn chồn lo sợ những tai-nạn bất kỳ xảy đến. Chạy một mạch về nhà, tìm được mấy cái bẫy với cái giỏ lại chạy một mạch lên với con. Lên đến nơi đã không trông thấy Mi-nàng đâu nữa, chắc là con gái đứng khuất đâu gần đó nên chưa muốn vội nghĩ đến cái gì là nguy… Bụng bảo dạ: « Không, con ta không việc gì đâu, không việc gì hết.» Vừa nghĩ thế vừa tươi cười giơ mấy cái bẫy và cái giỏ gọi bảo con rằng:

– Lạy ông trời nhé, ông cho mẹ con tôi đến chiều bắt được nhiều chim. Mi-nàng ơi! giỏ đây rồi, bẫy đây rồi, ra đây mắc bẫy với mẹ …

Mẹ Mi-nàng vẫn mỉm cười, nhưng không gượng để tự giấu mình cái kinh sợ được.

– Con ơi! Mi-nàng ơi! Mi-nàng à!...

Mặt mẹ Mi-nàng bỗng biển sắc, cố nhách mép lấy cái nữa:

– Mi nàng! Mi-nàng đâu, con?

Trời ơi! Mi-nàng chẳng thấy đâu cả! Bà già cất tiếng gọi lớn. Các bụi cây ở đấy yên lặng không trả lời. Vội vàng ném mấy cái bẫy xuống cạnh đống củi, chạy tìm chỗ này chỗ nọ mà vẫn chẳng thấy con gái đâu. Bà già ngơ-ngác, cuồng-cuống, không biết xem đâu, không biết tìm đâu, lúc đi lúc chạy như người rồ dại.

– Mi-nàng!… Mi-nàng!!…. Mi-nàng!!!

Trời đã gần tối, tìm Mi-nàng không thể thấy được, bà già bỏ cả củi, bỏ cả nấm, bỏ cả bẫy, bỏ tất; vừa khóc lóc vừa lểu-thểu về lều. Bấy giờ hãy còn chút hy-vọng. Vào trong lều: vắng ngắt. Trông bốn phía, nhìn cả xuống gầm phản, lục cả sau đám áo quần: không có. Con gái không thấy nữa. Con gái hẳn bị hổ bắt! con gái yêu, con gái quý, con gái là cái vui thú trong ngày sống thừa của bà già!

Bà già bỗng thét lên khóc, rồi văng mình xuống đất, rứt áo, cào đất, vùng đứng dậy rồi lại gieo mình. Khóc đã khản cả cổ đă ngặt cả tiếng; tâm thần muốn cho say mà vẫn tĩnh, trời đất muốn cho chuyển mà vẫn bằng, muốn cho ngực vỡ toác ra, muốn xé tan tành nhà cửa… Trong tiếng mình khóc như nghe thấy con gái khóc, trong lúc điên cuồng thái quá như trông thấy con gái đứng ở tận những quả núi nào đang cứ vùn-vụt lùi xa… Mấy phen thoắt lồng lên rừng, mấy phen đâm bổ về nhà, đầu thì lắc, mồm thì hả, chân thì đảo…. bao nhiêu cảnh vật bấy giờ như cũng có tri-giác, trông thấy người đàn bà quá điều đau đớn như thế, cũng phải cùng nhau lặng-lẽ mà ái-ngại, mà thương thầm.

Trời đã tối hẳn, trong rừng các mãnh-thú đã rục-rịch đi tìm ăn. Bà mẹ Mi-nàng bấy giờ ngồi ở bên một bụi rậm, tâm-thần rối loạn, không còn chút cảm-giác chi là của người đời. Trong lòng một lúc mà nẩy ra không biết bao nhiêu điều lạ. Trước còn giận mình, rồi hờn con gái, rồi căm tức cây cỏ, rồi căm tức trời mây. Rồi vụt đứng thẳng người dậy, quắc mắt trông những bụm lá, quắc mắt nhìn đây nhìn đó ; quần áo xốc-xếch, đầu tóc bơ-phờ, rồi chân nam đá chân chiêu lảo-đảo đâm về nhà nằm vật lên trên tấm phản.

Ngày hôm sau bà Mi-nàng chợt tỉnh cái giấc say mê mà bao nhiêu đau đớn đã làm cho ngất người đi từ đêm qua. Bà ta ngồi dậy khóc lóc một lúc. Thoắt nín bặt. Mắm môi cau mày hết sức đè nén cái khổ trong lòng. Rồi thoắt đứng dậy, đai lưng chít tóc, cầm con dao cả quyết đi tìm con. Định tìm con hay tìm xác con, hay tìm con ác thú nó làm cho con không được ở với mẹ; không biết chắc. Nhưng bà ta cả quyết. Trên mặt không còn ngấn nước mắt chảy, chỉ thấy lộ ra vẻ ghê-gớm dữ-tợn lạ thường.

Suốt một ngày trời, chui vào hang, lách vào hốc, phạt cây rợ,, rẽ cỏ lau… không biết bà ta lấy sức lực đâu mà luôn tay không biết mỏi. Vừa thẳng cánh phá phách vừa lảm-nhảm luôn mồm: « À phải! à phải, bà không có sợ mày, bà giết chết mày, bà giết chết mày, được bà mới nghe». Giết chết chi? — Tất nhiên là con hổ dữ tợn làm cho cả vùng Khao-la bấy lâu kinh hãi.

Phải, chính con hổ ấy nó bắt mất Mi-nàng đấy. Bấy lâu nó đã có ý rình mò, nhưng bà ta đã phòng bị sẵn. Ban đêm nó toan nhảy vào nhà thì đống mồi vẫn hằng cháy đã làm cho nó sợ ; ban ngày nó toan vồ thì lại khiếp cái tiếng ống nứa-ngộ bà đem theo và chốc chốc lại gõ, lúc đi kiếm củi ở trong rừng. Hổ đêm thì sợ lửa, ngày thì sợ tiếng nứa ; bà Mi-nàng nghe thấy mấy người đi săn ở quê nhà nói thế, bây giờ thấy quả như lời. Tuy vậy, ta cũng chưa thể tin được cái « phương Kỵ-hổ »lạ lùng kia. Chẳng biết « Chúa sơn-lâm» sợ ống nứa hay lại sợ ngay cái cử-chỉ mạnh bạo của người đàn bà lúc nào cũng hết lòng che chở cho con gái. Vì ta phải biết, ví thử có yêu ma quỷ quái linh thiêng độc dữ đến thế nào mặc dầu, nếu cùng nhau có hợp sức lại, cùng nhau toan đến làm hại con gái bà ta ; ví thử có thế, ta sẽ thấy bà già tức thì một tay ôm giữ con, một tay rút thanh dao rừng sáng vằng lên tứ phía, như vung bao nhiêu cái đảm-lực thiêng-liêng vì tấm mẫu-tình ; chết thì liều chết chứ thử chạm đến con gái bà xem.

Ấy thế mà bây giờ con bà phải chết! Ấy thế mà con hổ vô phúc kia dám cả gan ăn thịt mất con gái yêu của bà. Bà biết thế rồi. Bà lại biết rằng chút máu dư của bà mà mất là bà không thể sống được mà cũng không muốn sống nữa! Thế nhưng hãy gượm, mặc cho ruột nó đứt ra từng khúc, trước khi chết, bà ta phải báo thù.

Năm sáu hôm, ngày thì hết sức tìm sục, bà ta một tay cầm dây rợ, một tay cầm thanh dao dài đi vào rừng. Có hôm quên cả ăn, quên cả mệt, quên cả dấu ngành gai, lá sắc nó cứa vào da. Đêm thì lại ngồi ở cửa rừng mà đợi.

Những lúc canh khuya một mình giữa nơi hoang địa,, nhớ đến con gái bây giờ hồn đang vơ vẩn đâu đâu, bà ta lấy làm đau lòng lắm. Nhưng không khóc. Hay là không khóc ra nước mắt. Chỉ đem cái chua, cái chát, cái phẫn-uất, cái hằn-học căm hờn … bao nhiêu khối hại người ấy đã hết lòng nén chặt, bây giờ đem ra thu vào tiếng hú, tiếng hú để gọi hồn con gái, để nói chuyện với hồn con gái ; cái tiếng hú lạnh-lùng dữ-tợn, đã làm cho dân Khao-la sợ hãi mấy đêm trời.

Bà ta ngồi đó, thỉnh-thoảng lại hú, có ý đợi cho con hổ đến. Nhưng con hổ cũng khôn lắm, ban ngày vẫn cứ lẩn lút, ban đêm thì tìm lối khác ra kiếm ăn. Cái đống lửa ở cạnh bà ta bấy giờ, với đôi con mắt bà ta quắc lên lúc ban ngày, khiến cho con vật cũng phải chột dạ. Mấy lần định xổ ra vồ, nhưng có lẽ nó còn ghê còn gờm một người dữ tợn nhất trong giống người mưu mẹo tinh quái kia.

Đến mãi ngày thứ bảy, bà ta mới tìm được sào huyệt con hổ. Bảy đêm ngày cơ-cực, giá không có ngọn lửa hăng-hái mà tấm lòng quyết báo thù kia nó hằng nhóm lên bùng bùng thì có lẽ bà ta không còn hơi sức đâu còn sống được với cái sầu cái khổ. Chiều hôm ấy, không biết con hổ đi đâu vắng, năm con hổ con ra lăn lộn ở bên cái hang hầm khuất trong lá cây. Bà Mi-nàng hôm nay mới tìm đến chỗ đó, trông thấy thế liền sồ lại đâm chết được ba con. Đuổi giết nốt hai con kia, nhưng nó hồng-hộc chạy trốn, bà ta liền cố sức vác ba con hổ chết về quẵng sau nhà. Biết trước thế nào đêm nay con hổ mẹ cũng có lúc về hang, bà ta liền sắm dây sắm rợ, toan mang đuốc nhưng lại thôi, rồi đai chít gọn gàng, lăm-lẳm con dao đi bắt hổ. Đến nơi, đợi đã khuya lắm, chả thấy bóng hổ đâu. Có lẽ nó đi tìm ba con hổ mất. Một chốc, dưới bóng trăng non, trong hang thơ thẩn đi ra hai con hổ con lúc nãy. Bà Mi-nàng bỗng nghĩ ra một ý. Lập tức chạy ra giết phăng hai con hổ con đi. Rồi trão chặt hai chân sau lại, vừa trão vừa nguyền rủa:

« Mày giết con tao! Mày không trả con tao. Tao cũng giết con mày. Tao lại giết mày nốt.» Nhưng chỉ giết chết con hổ cái cũng chưa hả giận. Bà ta muốn cho trước khi bị giết, hổ mẹ phải trông thấy hổ con chết, mà chết vì tay mình.

Bà ta vừa trói xong hai con hổ con, bỗng thấy sột-soạt lá, biết rằng hổ mẹ đã đến, bà ta bèn cấm lấy đầu dây rồi trèo lên một cái cây ở gần.

Nhờ có bóng trăng, bà già trông thấy hổ mẹ trong bụi đi ra. Con hổ này rất to, không trách nó ghê-gớm đến nỗi làm cho không những ngoài làng, chính các thú trong Sam-na cũng phải sợ. Con hổ cứ từ từ đi lại, trong đám bóng bụm bóng cây, hai con mắt mở ra trong xanh lèn-lẹt. Đi được hơn mười bước nghe thấy tiếng động đàng sau, con hổ đã toan quay lại. Nhưng chừng ngửi thấy hơi lạ, nó liền đủng-đỉnh về hang. Trên cây người đàn bà Mán đã buộc xong mình bà ta vào một cành cây to, và đã thắt cái dây dài trói hổ vào cái chạc bên cạnh. Con hổ vào hang, ý như kinh ngạc lắm, lúc ngoắt ra trông thấy hai con mình bị treo lủng-lẳng trên cây thì nhe nanh mà gừ. Chợt trông thấy trên cây có bóng người, con hổ nghe chừng đã hiểu, liền vừa lồng lộn vừa gầm một tiếng cực to.

Trên này mẹ Mi-Nàng đắc-chí lắm. Bởi vì bà ta biết rằng hổ cũng có con, hổ cũng làm mẹ. Hổ con chết, mẹ hổ cũng cay cực vì thương. Vậy thì cái thương cái khổ kia bây giờ bà ta được trông thấy. Bà ta lại cầm dây giựt mãi, khiến cho hai con hổ con cứ lay lắt dưới đầu dây. Một tiếng gầm nữa, hai chân trước con hổ đã quài được gần tới tay bà mẹ Mi-nàng. Bà ta vội lấy con dao chém bổ xuống, con hổ lại càng tức giận, mỗi lần tụt xuống lại co chân nhảy lên. Nếu không có con dao thì mấy lượt mặt bà ta bị tay hổ xé ra tan nát. Bà ta không ngờ con hổ nhảy cao đến thế, tưởng rằng nó thấy mình trên cây chỉ biết tức tối mà không làm gì được mình. Hay đâu, hổ đã to lại thêm phần hăng vì hằn-học, nếu không mau leo cao lên ngọn, có lẽ không thoát khỏi được móng hổ nó xé xác mình ra. Nhưng nguy hại thay! Bà ta đã lấy dây buộc mình vào cây từ trước! Bấy giờ phải hai tay cầm dao chống cự, không tài nào cởi vội được ra. Con hổ bị dao chém vào đầu và vào chân càng thêm dữ đội, bà ta chỉ chậm tay một tý nữa là nó bám được vào người.

Bấy giờ cả một khu rừng như lay chuyển …..

Người làng Khao-la trên mặt không còn hột máu nào. Bảy anh con trai bạo dạn đi dòm dỏ nhà mụ ké lúc nãy, tuy đã thoát thân nhưng vẫn còn khiếp đảm, tưởng con hùm-tinh vẫn còn đuổi đến nơi. Còn việc báo thù của bà Mi-nàng với con hổ cái, cùng cái tiếng hú mấy đêm trước với tiếng gầm rống đêm hôm nay, thì không ai biết đó là tiếng gào rống khóc của hai «bà mẹ».

Con hổ vừa gầm thét vừa chồm lên cây. Bà già tuy mạnh bạo, nhưng thấy con hổ thế cũng phát lo sợ. Có lẽ không phải lo vì sợ con hổ, chỉ lo chưa giết được nó mà đã bị chết trên cây. Chân tay bà ta bấy giờ bủn-rủn. Thần trí bà ta bấy giờ ngà say. Đôi con mắt hoa nhìn thấy đến bốn năm cái đầu hổ nó nhảy bổ lên mà gào thét, con dao cầm ở tay mấy lần chực rời ra mà rơi xuống. Bà ta biết mình sức đã kiệt, chỉ trong chốc lát nữa là xong đời…. chợt nghĩ đến cái thân cơ-khổ, chợt nghĩ đến cái cảnh thảm hại của hai mẹ con, bên tai như nghe thấy hồn con nó âm thầm, trong trí thoáng thấy cái cảnh tượng thân con bị xâu xé. Con gái yêu quí của bà bị hổ xé, bị hổ cướp sống mất giữa lúc vui tươi khôn lớn, khiến cho bà đau khổ rồi khiến cho bà đến nỗi nước này đây! Mặt đương tê tái bỗng nóng dội lên, bà ta giơ tay giáng xuống chân con hổ một cái cực mạnh. Con hổ bị què một chân trước kêu rống lên một tiếng mà ngã lăn kềnh ra…. Người đàn bà nghiến răng, lăm-lăm trong tay thanh dao sắt, quắc mắt nhìn con hổ, phun ra những lời nguyền rủa độc địa vô cùng. Dưới này con hổ đã chồm dậy được, hai mắt đỏ ngầu, nhe nanh giương vuốt trả lời lại, rồi thu hình gắng hết sức mạnh, nhảy vót lên bám lấy ngang lưng bà Mi-nàng. Bà lão quên cả đau, điên tiết cầm dao cứ nhè giữa đầu con ác thú nện xuống. Con hổ bị mấy nhát vào đầu nặng quá, gào váng lên như sấm đùng sét nổ mà bà ta chẳng nghe thấy tiếng gì. Bấy giờ mặt con hổ với mặt bà ta gần nhau, cùng ghê gớm như nhau. Bốn mắt long lên sòng-sọc nhìn nhau trao-tráo, lộ ra không biết bao nhiêu cái cay độc, cái hằn-học căm tức, lẫn với cái chút cảm-giác bi-đát trước khi hồn bay…. Bà mẹ Mi-nàng còn sức chém, con hổ còn sức bám lấy lưng bà ta. Chém mãi, bám mãi, dần dần bà không nâng dao được nữa, thì con hổ cũng khoan tiếng kêu gào. Đến lúc thần mè máu cạn, người đàn bà đã buông thõng tay xuống, con hổ cũng hết sức mà rã rời chân ra.

Dưới bãi cỏ rừng đầm đìa những máu của hai vật nặng tình mẫu-tử, thấy con hổ rơi xuống đánh bịch một cái, trong một « tay » còn nắm lấy một mảnh áo với một miếng thịt lưng bà già.

Thế Lữ

1- Tiếng hú hồn của mụ ké

Tiến >>

Đánh máy: Lê Thy
Nguồn: Bản PDF của Bibliothèque nationale de France)
https://baovecovang2012.wordpress.com/
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 11 tháng 9 năm 2024