JULIE - CON CỦA BẦY SÓI

jean craighead george

dịch giả: nguyễn xuân hồng

Chương I - 1 -

amaroq - sói đầu đàn

MIYAX ĐƯA TAY HẤT MŨ TRÙM CỦA CHIẾC ÁO parkaw[1] da hải cẩu ra phía sau rồi ngước nhìn mặt trời Bắc Cực. Lúc này trông nó như một cái đĩa bằng vàng lơ lửng trên nền trời màu vàng chanh; vậy là đã sáu giờ chiều, đàn sói sắp đi kiếm mồi rồi đây. Cô nhẹ nhàng đặt cái nồi xuống rồi bò lên đỉnh một ụ tuyết thoai thoải, xung quanh có vô số những ụ tuyết nhấp nhô trong cái lạnh cắt thịt của mùa đông Bắc Cực. Với tư thế nằm sấp, cô đưa mắt nhìn khắp cả vùng mênh mông cỏ và rêu rồi chăm chú quan sát đàn sói cô bắt gặp hai đêm trước. Chắc chúng vừa mới thức dậy, đang âu yếm vẫy đuôi và nhìn ngó nhau. Hai tay cô run lên và tim đập thình thịch - cô thấy sợ nhưng không phải sợ đàn sói, loài thú vốn không mấy dạn người và lại là những tay thợ săn lão luyện; cô sợ hãi trước tình trạng bi đát của mình lúc này. Miyax đang bị lạc. Đã nhiều ngày nay cô bị lạc ở vùng dốc Bắc Alaska mà lại không có lương thực. Vùng dốc cằn cỗi trải dài ba trăm dặm từ vùng Brooks tới tận bờ Bắc Băng Dương và hơn tám trăm dặm từ Chukchi tới biển Beaufort. Chẳng có đường xá chạy qua vùng này, cả vùng đất mênh mông chỉ có lác đác vài cái hồ. Gió gào thét suốt ngày đêm, nhìn mọi phương hướng đều như nhau, không tài nào phân biệt được. Miyax đang ở một nơi nào đó trong khu vực mênh mông vô tận này và sự sống trong người cô muốn tồn tại được thế thì phải dựa hoàn toàn vào đàn sói kia. Nhưng cô không dám chắc chúng có chịu giúp đỡ cô hay không? Miyax chăm chú nhìn con sói lông đen tuyền có dáng vẻ đầu đàn với hy vọng đón bắt được ánh mắt nó. Dù thế nào cô cũng phải nói với nó rằng cô đang đói và xin nó thức ăn. Cô biết có thể làm được điều đó vì cha cô, một thợ săn Eskimo, đã từng làm vậy.

Có một mùa săn, ông cắm trại gần hang một bầy sói. Một tháng trôi qua, ông ăn hết sạch số thịt thú săn được, ông bèn nói với con sói đầu đàn rằng ông đói và cần có thức ăn.

Đêm hôm sau, con sói đã gọi ông từ xa, ông lần tới đó và tìm thấy một con tuần lộc bị giết chết và vẫn còn ấm nóng. Rủi thay, cha của Miyax chưa kịp cho cô biết ông đã làm cách nào để nói cho con sói những điều ông muốn. Chẳng bao lâu sau dạo đó, ông lại tới vùng biển Bering săn hải cẩu bằng con thuyền kayak[2] của mình và không thấy quay về nữa.

Cô đã theo dõi đàn sói hai ngày rồi để nghiên cứu xem chúng thể hiện thiện chí tình bạn bằng những tiếng kêu và động tác nào. Hầu hết các loài vật đều có những tín hiệu đó. Loài sóc đất vùng Bắc Cực đập đập đuôi về một bên thể hiện thiện chí với đồng loại. Miyax đã nhiều lần nhử được một chú sóc leo lên bàn tay cô bằng cách dùng ngón trỏ bắt chước động tác đó. Nếu cô biết được những động tác tương tự của loài sói, cô sẽ có thể kết bạn với chúng và ăn chung thức ăn của chúng dù chỉ là một con chim hay một con cáo.

Chống tay lên đỡ cằm, cô chăm chú nhìn con sói đen, cố gắng đón được ánh mắt nó. Cô đã chọn nó vì nó to hơn hẳn những con khác và trông tư thế rất giống cha cô, Kapugen, cũng ngẩng cao đầu, ngực ưỡn căng về phía trước. Con sói đen rất khôn, cô nhận thấy điều đó rất rõ. Đàn sói luôn nhìn nó mỗi khi gió đưa lại những mùi lạ hay những tiếng chim kêu. Nếu nó cảnh giác, chúng sẽ cảnh giác. Nếu nó bình tĩnh, chúng sẽ bình tĩnh.

Mấy phút đằng đẵng trôi qua, con sói đen vẫn không nhìn thấy cô. Nó phớt lờ cô ngay từ hai đêm trước khi cô gặp đàn sói lần đầu tiên. Quả thật, cô di chuyển hết sức chậm và nhẹ nhàng để tránh gây kinh động cho nó nhưng cô lại mong nó sẽ nhận thấy sự thân thiện trong ánh mắt cô. Nhiều loài vật có thể phân biệt sự khác nhau giữa thợ săn hiếu sát và những con người hiền lành bằng cách nhìn thẳng vào mắt họ. Nhưng con sói đen to lớn này thậm chí chẳng thèm liếc mắt đến cô.

Một con chim vụt bay qua từ đám cỏ dại, con sói nhìn theo.

Một bông hoa rung rinh trong gió. Nó liếc nhìn phía đó.

Gió nhẹ luồn qua cổ chiếc áo parka bằng lông chồn gulô Miyax đang khoác trên người làm nó bắt nắng ánh lên. Con sói không nhìn thấy. Cô chờ đợi. Cha cô đã dạy cô phải biết kiên nhẫn trước thiên nhiên. Cô biết làm như vậy tốt hơn là cử động hay gào to lên nhưng cô cần có thức ăn nếu không sẽ chết đói. Hai tay cô khẽ run lên, cô nghẹn nuốt nước miếng để giữ bình tĩnh.

Miyax là một cô gái mang vẻ đẹp Eskimo truyền thống; vóc người nhỏ nhắn nhưng khỏe mạnh. Khuôn mặt cô tròn trặn, mũi hơi tẹt. Đôi mắt đen hơi xếch của cô luôn long lanh và rất sáng. Giống như những con gấu và cáo vùng cực Bắc có hình dáng tuyệt đẹp, chân tay Miyax ngắn. Môi trường lạnh lẽo của Bắc Cực đã định hình cho sự sống. Khác với những loài vật thân dài, tứ chi phát triển của phương Nam vốn cần dịu đi trước cái nóng luôn bao quanh mọi bề mặt thân thể, tất cả các sinh vật sống ở Bắc Cực đều có xu hướng co gọn lại để giữ gìn nhiệt lượng.

Độ dài tay chân và vẻ đẹp khuôn mặt chẳng giúp ích gì cho Miyax khi cô nằm bẹp trên ụ tuyết lưa thưa vài khóm địa y ở giữa vùng lãnh nguyên hoang vu này.

- Amaroq, ilaya, sói ơi, bạn tôi ơi! - Cuối cùng cô đành phải lên tiếng. - Hãy nhìn tôi đây. Hãy nhìn tôi đi nào!

Cô sử dụng cả tiếng Eskimo và tiếng Anh cứ như thể những khả năng trực giác cha cô truyền cho và vốn kiến thức khoa học của người da trắng sẽ kết hợp với nhau thành một sức mạnh siêu phàm giúp cô gửi bức thông điệp của mình tới con sói.

Amaroq cúi nhìn chân nó rồi từ từ xoay đầu về phía cô nhưng không ngước mắt nhìn lên. Nó liếm vai. Vài sợi lông xám lộ ra và ánh lên. Sau đó, nó đưa mắt lần lượt nhìn ba con sói trưởng thành trong đàn của nó và cuối cùng dừng lại ở năm con sói non đang ngủ ngon lành trong một khóm rêu xơ gần lối vào hang. Ánh mắt nó trùng xuống khi nhìn đàn sói non rồi lại nhanh chóng sáng quắc lên, vàng rực như những món đồ trang sức quý khi nó phóng nhìn ra lãnh nguyên bằng phẳng một màu.

Chẳng thấy cái cây nào mọc lên ở đâu đó để thay đổi trạng thái đơn điệu toàn một màu vàng lục bằng phẳng bởi lẽ đất ở lãnh nguyên đều đóng băng hoàn toàn, chỉ có rêu, cỏ, địa y và một vài bông hoa hiếm hoi nhô lên từ lớp đất mỏng bị băng phủ thường chỉ đến hè mới lộ ra được. Cũng chẳng có mấy loài động vật sống nổi ở vùng đất khắc nghiệt này nhưng những sinh vật nào thực sự tồn tại được ở đây sẽ sinh sôi phát triển rất mạnh. Amaroq ngước nhìn một đàn chim ruồi vùng Capland bay rào rào trên trời rồi đáp xuống bãi cỏ. Đàn chim ruồi - một trong số rất ít loài tồn tại được trong điều kiện lạnh lẽo, đậu đen kín các đám rêu. Những con chim bay lên, đậu xuống kêu inh ỏi. Hàng nghìn con cất mình bay lên loạn xạ như lá cây bị gió cuốn.

Đôi tai con sói khum khum hướng về phía trước để thu nhận bức thông điệp xa xăm nào đó của lãnh nguyên. Miyax cũng căng tai lắng nghe. Phải chăng con sói đã nhận được những dấu hiệu báo bão hay một điều gì đó đầy hăm dọa đang đến gần? Rõ ràng không phải. Đôi tai nó đã trở lại bình thường và nó nằm lăn ra. Cô bé thở phào, ngước mắt nhìn bầu trời trên cao mà xót xa cho tình cảnh của mình.

Cô đang nằm đây quan sát đàn sói - cô, Miyax, con gái của Kapugen, con nuôi Martha, Công dân của Hợp Chúng quốc Hoa Kỳ, học sinh Trường Vụ quan hệ với người da đỏ vùng Barrow, bang Alaska và là người vợ mười ba tuổi của cậu choai Daniel. Cô rùng mình khi nghĩ tới Daniel vì chính anh ta đã đẩy cô vào tình cảnh này. Chính xác hơn, bảy ngày trước, cô đã bỏ trốn anh ta và chính vì chuyện này, chắc cô sẽ được gán thêm một biệt hiệu nữa theo quan điểm của người da trắng: Cô vợ ly dị nhí.

Con sói lật người.

- Amaroq! - Cô bé thì thầm. - Tớ bị lạc mà lại sắp đến tháng mặt trời mọc liên tục không lặn rồi. Sẽ không có Ngôi sao phương Bắc làm mốc dẫn đường cho tớ.

Amaroq vẫn không phản ứng gì.

- Ở đây cũng chẳng có loại cây quả mọng thường ngả về phương Nam khi gió vùng cực thổi. Cũng chẳng thấy loài chim nào để tớ có thể nhận biết phương hướng theo chúng được cả. - Cô ngước nhìn lên. - Ở đây chỉ toàn chim điểu chúc[3] và chim ruồi. Bọn này không có thói quen bay ra biển hai lần trong ngày như chim hải âu cổ rụt hay chim tu hú mà cha tớ thường lần theo.

Con sói liếm ngực.

- Tớ đã bao giờ nghĩ rằng mình sẽ bị lạc đâu, Amaroq. - Cô tiếp tục và càng nói to hơn để át đi sự sợ hãi. Ở quê tớ, đảo Nunivak nơi tớ sinh ra, cây cối và các loài chim đều có thể chỉ đường cho những người đi lạc. Tớ cứ đinh ninh rằng ở đây cũng vậy… Vì vậy, sói Amaroq đen vĩ đại ơi, tớ không biết lấy gì thay cho la bàn.

Quả là khủng khiếp khi hai hôm trước cô nhận ra rằng lãnh nguyên là một đại dương mênh mông toàn rêu cỏ mà cô đã đi vòng vèo trong đó nhưng không tài nào thoát ra được. Còn lúc này, cô nhắm nghiền mắt lại vì một nỗi sợ hãi bao trùm lấy cô. Khi mở mắt ra, trái tim cô như nhảy vọt ra khỏi lồng ngực vì quá mừng: Amaroq đang nhìn cô.

- Eelie! - Cô chào nó và trườn lên. Con sói nghển cổ và nheo mắt lại. Đôi tai nó vểnh lên, hướng về phía trước. Cô giơ tay vẫy vẫy. Con sói nhe răng vẻ đe dọa. Hoảng sợ trước những tiếng gầm gừ, cô vội nằm bẹp xuống. Khi thấy cô đã nằm dán xuống đất, Amaroq cụp tai xuống và ve vẩy đuôi. Sau đó nó quay đầu nhìn đi nơi khác.

Thất vọng, cô tụt khỏi ụ băng và quay về khu trại của mình. Ụ băng chắn giữa cô và đàn sói nên cô có thể tạm đứng thẳng lên và đi kiểm tra toàn bộ lều trại. Công việc đó cũng đơn giản thôi vì khi bỏ trốn, cô không mang theo nhiều đồ đạc, cô chỉ mang những gì cô thấy cần cho chuyến đi, một cái ba lô, thức ăn đủ dùng trong một tuần, mấy cái kim để khâu vá, diêm, túi ngủ và tấm da dùng làm nệm, hai con dao và một cái nồi.

Miyax dự định đi tới Mũi Hy Vọng. Ở đó, cô có thể đón được con tàu Ngôi sao phương Bắc vẫn thường chở các vật dụng từ nước Mỹ tới các thành phố trên bờ Bắc Băng Dương vào tháng Tám là thời kỳ băng nứt vỡ. Con tàu này có thể cần người rửa chén bát hoặc giặt đồ, cô đã nghe nói vậy và như thế cô sẽ làm việc để tới được San Francisco nơi có Amy, người bạn qua thư của cô. Cuối bức thư nào Amy cũng viết: “Bao giờ bạn mới tới thăm San Francisco?” Bảy hôm trước cô lên đường để tới cái thành phố diễm lệ, phồn hoa tọa lạc trên một quả đồi rợp bóng cây, những loài cây khổng lồ mà cô chưa bao giờ được nhìn thấy ấy. Cô lên đường để được nhìn thấy hệ thống truyền hình, những thảm hoa vàng rực rỡ trong trường của Amy, những tòa nhà toàn gương và kính, những tín hiệu đèn giao thông và những cửa hàng đầy ắp các loại quả ngọt trái ngon. Cô lên đường tới hải cảng không biết đến băng tuyết nơi có cầu Cổng Vàng nổi tiếng. Nhưng cơ bản cô muốn đi để trốn khỏi Daniel, người chồng đáng sợ của cô.

Cô co chân đá một bụi cỏ khi nghĩ tới cuộc hôn nhân của mình rồi lắc đầu như cố xua nó đi. Cô kiểm tra toàn khu lều trại. Mọi thứ vẫn bình thường. Ngay khi phát hiện ra đàn sói, cô bèn dựng trại sống gần chúng với mục đích có thể ăn chung mồi săn của chúng cho tới khi nào mặt trời lặn xuống và những ngôi sao hiện ra để chỉ hướng cho cô. Cô dựng một ngôi nhà bằng băng theo kiểu nhà nghỉ mùa hè truyền thống của người Eskimo. Cô đẽo các viên gạch băng bằng dao ulo[4], loại dao rất đa dụng, có thể dùng xén tóc cho trẻ con, làm vũ khí chống thú rừng hoặc đẽo gọt các khối băng.

Ngôi nhà của cô không được đẹp và vững chãi cho lắm vì từ trước tới nay cô chưa bao giờ làm nhà cả nhưng bên trong khá ấm cúng, thoải mái. Cô chống gió lùa bằng cách lấy bùn từ cái ao đằng trước trám kín các khe gạch, cô còn trang trí nội thất bằng tấm nệm da tuần lộc trải rộng trên nền. Cô đặt túi ngủ lên nệm, túi ngủ của cô làm bằng da nai sừng tấm có viền thêm da thỏ trắng rất êm. Bên cạnh chỗ ngủ, cô đẽo một chiếc bàn thấp cũng bằng băng để đặt quần áo khi đi ngủ. Cô còn tết ba đóa hoa bằng lông chim rồi cắm trên mặt bàn để trang trí thêm cho căn nhà. Sau đó cô đắp một cái bếp nấu ở gần cửa và đặt cái nồi cạnh đó.

Nồi chẳng có gì vì cô không bắt được con thú nào để làm thức ăn, kể cả loài lữ thử[5].

Mùa đông năm ngoái, khi cô còn đi học ở Barrow, loài sinh vật gặm nhấm họ chuột này nhiều vô kể. Chúng chạy lung tung ngay dưới chân cô ở bất kỳ chỗ nào cô có mặt. Chúng đông tới hàng ngàn, hàng vạn con nhưng đến tháng Mười hai thì chúng đột nhiên biến sạch. Thầy giáo của cô nói rằng loài lữ thử có một tố chất hóa học đặc biệt chống đóng băng ở trong máu. Chất này giúp chúng vận động được trong suốt mùa đông giá lạnh trong khi các loài động vật có vú nhỏ bé khác phải ngủ đông. Thầy Franklin giảng giải bằng chất giọng hay như hát: Chúng ăn cỏ và sinh trưởng trong cả mùa đông. Khi số lượng phát triển quá đông, chúng rất dễ bị kích động khi nhìn thấy nhau. Tố chất chống đông máu tích tụ nhiều và bắt đầu có ảnh hưởng độc hại đối với chúng. Chúng trở nên bứt rứt không yên, sau đó phát cuồng. Chúng chạy nháo nhào trên băng lạnh cho tới khi kiệt sức và chết.

Cha Miyax giải thích hiện tượng này một cách đơn giản: Loài lữ thử chỉ sống được 4 năm thôi.

Thật không may cho Miyax, thời kỳ các loài vật săn bắt lữ thử đã qua. Bọn cáo trắng, cú tuyết, chồn, chim sẻ vàng đều theo nhau biến sạch. Chúng không còn thức ăn và đành chịu tình trạng số lượng giống loài ít đi và già cỗi dần. Bọn chúng đành tồn tại bằng cách săn bắt lẫn nhau. Tuy nhiên, loài lữ thử biến mất thì cỏ sẽ mọc tốt trở lại và tuần lộc sẽ kéo về. Những con tuần lộc cái béo tròn, sung sức đẻ ra vô số tuần lộc non.

Chú thích:

[1] Loại áo choàng lông của người Eskimo.

[2] Thuyền độc mộc một người chèo của dân Eskimo.

[3] Loài chim nhỏ, có họ với chim bọ sẻ.

[4] Loại dao hình liềm của phụ nữ Eskimo.

[5] Còn gọi là lemmut, một giống chuột nhỏ vùng địa cực, có đặc điểm đôi khi tự lao xuống biển chết hàng loạt trong khi di trú.

Chương I - 1 -

Tiến >>


Nguồn: Nhà xuất bản Kim Đồng 09/2019 - ebook©vctvegroup
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 28 tháng 11 năm 2023