Giáp Tết năm Quý Hợi (1983), tôi được tiếp một vị khách thật đặc biệt. Dạo ấy, điện thành phố cứ bị cúp liên miên, mới sáng ra mà đã thấy oi bức đến khó chịu. Tôi đang nhễ nhại mồ hôi vì phải lo loay hoay sắp đặt lại mấy hộp thẻ tư liệu sao cho gọn gàng và dễ sử dụng thì nghe tiếng gọi cửa. Khách đến tìm là một cụ ông lối chừng ngoài bảy mươi, tay ôm một bó hoa thược dược thật đẹp.
- Ông Nguyễn đấy ư? Nếu ông không phải là người ra mở của thì chắc tôi khó có thể nhận ra. Mấy chục năm rồi còn gì? Thầy có nhà không thưa ông?
Chính nhờ lời chào vồn vã cũng là câu tự giới thiệu ấy, tôi mới có thể nhanh chóng nhận ra được rằng, cụ chính là một trong số những người từng theo học lớp hoài cổ của thân sinh tôi hồi trước Cách mạng tháng Tám. Sở dĩ gọi là lớp hoài cổ bởi vì hồi đó hầu như không còn mấy ai chịu theo học chữ Nho nữa. Tôi được nghe kể rằng lớp của thân sinh tôi chỉ gồm độ dăm bảy học trò, thiên hạ có người chê bai, gọi lớp học ấy là lớp hoài cổ, thế mà cũng chẳng ai buồn, đã thế lại còn vui vẻ nhận luôn cho mình cái tên lớp hoài cổ. Đặc điểm của học trò lớp này là nói năng rất nhã nhận, biết cung kính giữ lễ với người trên đã đành, ngay cả bạn cùng một lớp mà họ cũng thường gọi nhau theo họ, như ông Trần, ông Phạm, ông Lê... chứ ít khi nào gọi nhau theo tên. Tôi là lớp hậu sinh, không được học trong lớp hoài cổ ấy nhưng vì về sau cũng có võ vẽ tập tành dăm ba câu chi hồ giả dã, cho nên, cũng được học trò của thân sinh tôi hào phóng bắt chước theo cách trên mà gọi là ông Nguyễn.
Vào nhà, thi lễ chào thân sinh và thân mẫu tôi xong, khách xin phép được tự tay cắm hoa. Tôi thật sự bất ngờ và rất lấy làm áy náy về việc này nhưng thân sinh tôi mỉm cười, ý bảo là cứ để tự nhiên, không sao cả. Một lúc sau, khách đứng dậy khoanh tay nói:
- Thưa thầy và thưa cô. Con biết thầy rất thích loài hoa thược dược này. Tất cả những gì thầy dạy, rốt cuộc, quý nhất vẫn là chữ tâm. Con xin được kính tặng thầy và cô chữ tâm kết bằng hoa thược dược, là loài hoa mà thầy hằng ưa thích.
Lần đầu tiên tôi thấy thân sinh tôi lặng lẽ lau nước mắt. Người ra hiệu cho phép tôi được ngồi để cùng tiếp khách và cuộc đàm đạo hôm đó giữa thân sinh tôi với người học trò cao niên đã khiến tôi không thể nào quên. Hoá ra, để lớp hoài cổ ham thích học tập, thân sinh tôi đã dạy theo cách dạy hoàn toàn riêng của mình. Người không dựa vào bất cứ một tài liệu giáo khoa nào có sẵn mà cất công tìm tòi và trích lục hàng trăm những mẩu chuyện hấp dẫn trong kho thư tịch cổ rồi cho học trò tập chép, tập dịch, tập thích nghĩa và tập suy gẫm. Cứ thế, mỗi lần tiếp xúc với một mẩu chuyện là một lần say mê và chính sự say mê đặc biệt này đã làm cho học trò dễ nhớ, dễ nâng cao nhận thức, dễ bồi bổ đạo đức làm người. Cụ Tạ -vị khách hôm đó người họ Tạ - nói với tôi rằng:
- Ông Nguyễn biết không, có một lần tôi trót dại vô lễ, hỏi thầy rằng: Thầy thường cho học những bài, hoặc là khen người xưa giỏi, hoặc là khen người xưa hay, vậy thì phải chăng là giờ đây nhân tài đã cạn, người nay đều vô dụng cả? ông Nguyễn ạ, thế mà thầy không giận tôi, lại còn ân cần nói: Ta có lỗi! Ta có lỗi! Ta chăm chú tìm gương sáng của nguời xưa, cho nên, hầu như chỉ thấy người xưa đều là đấng hiền tài khả kính. Nhưng, giả thử ta không có ý chăm chú làm như vậy thì kết quả chắc cũng sẽ tương tự như thế mà thôi. Tất cả đều bởi cái tâm của các cây đại bút thuở xưa con ạ. Bền bỉ viết những lời tôn vinh đấng hiền tài để giúp đời sửa đức, ích lợi có phải là nhỏ đâu? Ta không nghĩ là nhân tài ngày nay đã cạn. Bởi vì nếu vậy thì giang sơn nòi giống làm sao mà bảo tồn? Nhưng, nếu như người nay mà không biết noi theo những điều hay, trong đó có không ít những điều hay của chính tổ tiên mình thì sự vô dụng cũng là điều rất có thể.
Cụ Tạ kể thật nhiều điều, đại để, vào khoảng cuối những năm kháng chiến chống Pháp, cả gia đình cụ phải phiêu bạt vào Nam. Từ đó, biết bao biến cố vật đổi sao dời, nhưng cụ vẫn không bao giờ quên thân sinh tôi, không bao giờ quên lớp hoài cổ với những bài học luân lí thật sự bổ ích. Bấy giờ, các con cụ đều đã trưởng thành và cụ rất tự hào về điều đó. Cụ nói tiếp:
- Tôi noi theo thầy, cố hiểu cho được tâm thành của người xưa và cố truyền tâm thành của người xưa cho con cháu. Nhưng ông Nguyễn ạ, chỉ tiếc là tôi không đủ sức nối được nghiệp thầy, nói năng lỗ mỗ lắm.
Quả đúng là lời của học trò lớp hoài cổ, lúc nào cũng khiêm nhượng hơn người. Sau đó, được sự uỷ thác của thân sinh, tôi đến thăm để đáp lễ cụ Tạ. Ấn tượng mạnh nhất khi tôi bước vào là ngay ở nơi trang trọng nhất của ngôi nhà cụ có bức tường, trên chỉ thêu có mỗi một chữ tâm (心). Cụ Tạ đã sẵn lòng thành, lại vốn là một chuyên gia về trang trí nội thất, hèn chi cách cắm hoa cũng có nét riêng rất rõ.
Giáp tết năm Mậu Thìn (1988), thân sinh tôi qua đời sau khi đã may mắn được hưởng phúc lành trời ban, cho bình dị tại thế vượt qua cả bậc đại thượng. Sinh thời, người vẫn thường tin cậy mà nói với tôi:
- Nhà ta tính đến con nữa là chín đời liên tục làm nghề dạy học. Gia tài thiêng liêng nhất mà các thế hệ trước để lại chỉ là kho sách nhỏ và lời cầu chúc con cháu mãi mãi được thanh thản với đời và với nghề.
Tôi nối nghiệp nhà, làm một thầy giáo bình thường như thân sinh tôi, như tổ tiên tôi và như bao người nặng lòng vì lớp trẻ. Trước năm 1945 mà học chữ Nho còn bị chê là hoài cổ, huống nữa là bây giờ? Đã có lúc hoang mang, tôi cứ ngỡ rằng dăm ba câu chi hồ giả dã rốt cuộc cũng chỉ như là kỉ niệm, mình biết với riêng mình mà thôi. May mắn thay, phần lịch sử cổ trung đại Việt Nam mà tôi được phân công giảng dạy ở nhiều trường đại học là phần bắt buộc người giảng dạy ở nhiều trường đại học là phần bắt buộc người giảng phải tham khảo thư tịch cổ. Bởi thế, ngày này qua tháng nọ, tôi cất công đọc hết quyển này đến quyển khác. Nhưng, tôi là người hay quên. Lên lớp mà quên thì quả đúng là một sự xúc phạm lớn đến sinh viên và nghề nghiệp của mình. Bởi thế, đọc tới đâu, tôi cố gắng ghi chép cẩn thận tới đó. Phần nào nguyên bản là chữ Hán thì dịch ngay. Phần nào nguyên bản là chữ Nôm thì phiên âm ngay. Làm mãi, làm mãi,... tư liệu làm ra, tính hết số trăm rồi đến số ngàn mà vẫn chưa hết. Hoá ra, tôi đã bắt chước thân sinh tôi tự lúc nào không hay. Từ năm 1991, tôi bắt đầu gửi những mẩu viết ngắn của mình tới các cơ quan thông tin đại chúng. Và, tuy trước sau, nhiều ít có khác nhau, nhưng tính ra là có đến trên một chục tờ báo và đài phát thanh đã sử dụng một cách trân trọng. Nhiều bạn bè thấy vậy thì khích lệ tôi, khuyên tôi tập hợp lại cho in thành sách. Bởi lẽ này, liên tục trong ba năm 1993, 1994 và 1995, ngoài một số sách chuyên môn khác, tôi đã cho in hai bộ. Một là Việt sử giai thoại (8 tập, do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành) và hai là Giai thoại dã sử Việt Nam (4 tập, do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành). Nay, bộ Việt sử giai thoại đang được in lại lần thứ ba mặc dù số lượng bản in hai lần đầu khá lớn. Điều này khiến cho tối rất lấy làm cảm kích, do vậy, lại cặm cụi viết tiếp. Tôi coi đó như một cách tiếp tục công việc của gia tiên và của bản thân mình, như một lời cám ơn chân thành đối với thân nhân, bạn bè và độc giả. Tuy nhiên từ bản thảo đến hình hài cụ thể của một cuốn sách bao giờ cũng có một khoảng cách rất xa. Ân cần và vô tư tiếp sức cho tôi băng qua khoảng cách rất xa đó, ngoài thân nhân còn có một loạt những đồng nghiệp giàu lòng nhiệt thành, đó là các nhà báo, nhà văn, nhà khảo cứu quen thuộc như: Trần Tu Duy, Nam Đồng, Nguyễn Vũ Tiềm, Đỗ Mạnh Hùng,... Sách mang tên tôi nhưng tên tôi lại mãi mãi quyện chặt với những tình cảm nồng nàn và tốt đẹp của các bạn.
Thành phố Hồ Chí Minh, 18-4-1997
NGUYỀN KHẮC THUẦN
- 1 -
Tiến >>
NXB: NXB Trẻ
Nguồn: TVE-4U
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 18 tháng 2 năm 2024