TÊN TRỘM LƯỢC CỦA NGƯỜI ĐẦU HÓI

edward d. hoch

dịch giả: lê tân

lê tân dịch từ the thief of the bald man’s com

Đã hơn một năm qua kể từ khi Nick Velvet gặp Sandra Paris, tay trộm chuyên nghiệp nổi tiếng hơn Nick. Sự cạnh tranh giữa Sandra Paris - có biệt danh Nữ hoàng Trắng - và Nick đã đi đến một thỏa thuận và một mối quan hệ khá dễ thương, cả hai đều cố tránh xâm phạm đất làm ăn của nhau. Nhưng khá là ngạc nhiên khi nàng mời Dick đến ăn sáng tại Waffle House trên đường 22.

- Chào, Sandra, trông em quyến rũ quá!

Nick chào nàng khi đang lách người vào trong. Nàng mỉm cười đáp lại.

- Sáng sớm đã được khen rồi!

- Vì em quá hấp dẫn, không phải sao?

Hắn liếc nhìn bảng thực đơn rồi gạt nó qua bên.

- Em đang làm gì vậy? Dạo này anh không thấy báo chí nhắc nhở vụ nào có vẻ dính đến em.

- Nghề nghiệp của chúng ta tốt nhất là đừng để báo chí đánh hơi được, anh dư hiểu mà, Nick.

Họ gọi thức ăn. Vừa nhâm nhi ly nước cam, nàng tiếp:

- Em muốn thuê anh làm một vụ.

- Bất thường đấy. Sau lần em nhờ anh vụ viện bảo tàng...

- Lần này khác hẳn. Một người đàn bà nhờ em một vụ với tiền công rất cao. Nhưng em không hoàn thành nổi, mà em thì không muốn từ chối số tiền đó và cũng không muốn thú nhận với bà ta là em bỏ cuộc.

- Kể cho anh nghe chi tiết đi, Sandra.

- Đấy là một nơi miền Nam, sau những ngọn đồi. Anh sẽ biết chính xác địa điểm nếu anh đồng ý làm vụ này. Người đàn bà đó nhờ em đánh cắp một cái lược...

- Có giá trị chứ?

- Không, một cái lược bỏ túi tầm thường mà người đàn ông đó luôn luôn mang theo mình.

- Hắn là ai?

- Tên hắn là Willie Ranklin. Hắn và hai người em trai sống ở nơi hẻo lánh nhất của vùng đồi đó. Rất hiếm khi lên thành phố. Có lời đồn hắn làm rượu lậu nên sống ẩn dật như thế.

- Thời buổi này mà còn có người làm rượu lậu à? Nghe cứ như bốn, năm mươi năm trước!

- Chẳng hiểu nổi, nhưng hắn sống xa lánh mọi người. Anh em nhà hắn sống ở một nhà máy xay bỏ hoang bên sông Casaqueek. Em đã đến đó tuần trước đấy, Nick.

Nàng chống tay lên bàn, nghiêng người về phía Nick. Nick thấy nàng căng thẳng nhưng duyên dáng hơn bao giờ hết.

- Hình như đó là đất của đàn ông chứ không dành cho đàn bà, thật lạ. Không bao lâu sau khi em vào tỉnh, mọi người đều biết. Một buổi sáng sớm em đến bên cái giếng nước...

- Trước bữa điểm tâm.

- Hẳn rồi! Trước bữa điểm tâm! Rắc rối em gặp là hai phát súng trường bắn sát em đến nỗi em cảm thấy tiếng gió của nó. Trở lại chỗ để xe trong tỉnh thì ai đó làm bánh xe em xẹp lép. Sáng hôm sau em thấy một con chó chết trên băng sau xe của em. Thế là em chuồn!

- Vì thế em muốn bỏ cuộc?

- Em có nói em bỏ cuộc đâu, Nick, nhưng việc này cần có đàn ông vì hóa trang thành đàn ông thì... quá khó.

- Bao nhiêu?

- Thù lao của anh như mọi khi.

- Em nhận được bao nhiêu, Sandra?

Nàng mím môi, rồi nói nhỏ nhẹ.

- Năm mươi ngàn.

- Vậy thì anh lấy bốn mươi ngàn.

- Cái gì! Thù lao mọi khi của anh là...

- Em cần anh chứ?

- Dĩ nhiên!... Thôi được.

- Bây giờ nói cho anh rõ về người đàn ông với cái lược. Hắn trông ra sao?

- Williie Franklin là anh cả. Tất cả những gì em biết chỉ là một bức ảnh bọn họ chụp vào ngày sinh nhật thứ bảy mươi của bà mẹ năm ngoái. Em có mang theo đây!

Nàng đưa cho Nick bức ảnh màu chụp ba người đàn ông mặc áo sơ-mi, quần bò, đang nheo mắt trong ánh nắng. Người đứng giữa đầu hói gần như trọc. Người bên phải có bộ ria mép cắt tỉa công phu, trong khi người thứ ba râu ria lởm chởm. Sandra nói:

- Người để râu là em út, Jud Franklin, gần ba mươi. Bên phải là Jessie, khoảng ba mươi lăm. Willie là người đứng giữa.

- Người hói đầu à?

Nick hỏi một cách hồ nghi. Sandra thở dài.

- Đúng thế. Em muốn nhờ anh đánh cắp cái lược của gã hói đầu đó.

*

Hai hôm sau Nick bay xuống miền Nam, đến đồi Casaqueek, thuê một chiếc xe hơi đi ra phi trường - đến nơi hành sự. Hắn định đi thẳng đến đó bằng xe hơi nhưng e rằng biển số New York của hắn rất dễ gây sự chú ý trên những con đường làng hẻo lánh ven đồi miền quê phía Nam này.

Đông Alum, nơi hắn đến, là một làng nhỏ bên sông Casaqueek với một quán rượu, một của hàng bách hóa, một trạm cứu hỏa, và một nhà thờ. Vỏn vẹn có thế, chiếm bốn góc của ngã tư đường chính. Nick cho rằng có Đông Alum thì ắt có Tây Alum, có thể phía bên kia chiếc cầu gỗ lung lay, nhưng chẳng thấy gì khi hắn qua cầu. Cho xe vào cho đậu bên cạnh bar rượu, hắn vào quán. Có vẻ như đây là nơi thích hợp để bắt đầu công việc.

Người pha rượu là một người đàn ông trung niên tên André mà Nick cho rằng có thể hắn phiêu bạt đến từ Tây Alum. Đặt cái ly và chai bia trước mặt Nick, hắn hỏi:

- Vừa mới đến?

- Tìm gia đình Franklin. Tôi đến từ thủ đô để giải quyết yêu cầu bồi thường bảo hiểm của họ.

- Bà già sống phía trên đường Post. Quẹo phải, ngay chỗ rẽ đầu tiên khi vừa qua cầu. Đi khoảng một cây số thì sẽ thấy nhà của họ bên trái.

- Những người con trai cũng ở đó?

- Thỉnh thoảng. Họ thường ở đâu đó trên đồi. Bà già sống với người đàn ông nô bộc da đen.

- Ông Franklin chết rồi à?

- Chết vì bệnh ung thư từ lâu.

Nick uống cạn ly bia rồi trở lại xe. Lái xuống phía dưới con đường một chút, hắn thấy bảng chỉ đường đến khách sạn nhỏ, nơi Sandra Paris đã ở. Không sợ việc có thể nhận được một con chó chết trong xe, hắn đến khách sạn đặt phòng rồi trở lại cầu, lái về hướng nhà gia đình Franklin.

Ngôi nhà vườn khoảng ba mẫu vuông nằm trên sườn đồi. Một con chó Đức cột dây sủa inh ỏi khi hắn dừng xe trước cổng. Một bà già tóc bạc phơ xuất hiện ở cửa trước mắng con chỏ rồi hỏi Nick:

- Ông cần gì?

- Tôi tìm ông... à...

Nick vừa nói vừa vờ xem xét giấy tờ trong cái cặp nhỏ.

-... ông Franklin... Willie Franklin, về việc đòi bồi thường bảo hiểm.

- Willle là con trai tôi, đứa lớn. Tôi không biết gì về chuyện nó đòi bồi thường bảo hiểm cả.

- Bà Franklin...

- Tôi là Cassy, mọi người gọi tôi như thế.

Bà mỉm cười và Nick có thể nhìn thấy tàn dư của một sắc đẹp lộng lẫy trên khuôn mặt đó, cho dù bà ta đã bảy mươi mốt.

- Vâng, thưa bà Cassy, con trai bà có nhà chứ?

- Willie không sống ở đây, nó có chỗ trên đồi với các em nó.

- Xin bà vui lòng chỉ giúp.

- Nó không thân thiện vớiI khách vãng lai lắm đâu, cả tôi cũng không bao giờ đến đó.

- Anh ấy sẽ thân thiện với tôi, thưa bà. Tôi mang hóa đơn bồi thường thiệt hại do bão gây ra cho nhà xưởng của anh ấy.

- Thiệt hại cho nhà máy?

Bà nhíu mày, cố nhớ. Một sợi tóc bạc vướng ngang mặt, bà gạt nhẹ nó sang bên.

- Nó chưa hề nói gì với tôi.

- Có lẽ không cần thiết, anh ấy không muốn bà bận tâm chăng? Nhà xưởng đó của bà?

Bà chỉ tay về phía đỉnh đồi.

- Không... nó ở phía đó.

- Xin bà hiểu cho, phải có chữ ký của anh ấy tôi mới giao hóa đơn, đó là lý do chúng tôi không gởi bằng đường bưu diện.

- Có lẽ Gus giúp được ông.

Nói rồi bà vẫy người đàn ông da đen cao lớn vừa xuất hiện ở cửa.

- Gus, ông đây đang tìm Willie, coi xem anh có giúp ông ấy được không. Tôi phải đưa con Lucky vào nhà.

Tóc Gus gần như bạc bằng bà chủ nhưng Nick đoán ông ta không quá sáu mươi. Da ông ta hơi trắng nhưng tóc, môi và những nét chung chung thì không thể lầm là người da trắng được. Trông ông ta có vẻ suốt đời làm việc chân tay. Ông ta hỏi:

- Tôi có thể giúp gì cho ông?

- Tôi là Nicholas, ở văn phòng bảo hiểm đời sống và pháp lý của tiểu bang. Tôi đem hoá đơn cho ông Willie Franklin nhưng ông ấy phải ký tên. Ông có thể giúp tôi đến chỗ ông ấy?

- Cả mấy đứa đều không thích người lạ.

- Không sao, họ sẽ thích tôi!

Gus ngẫm nghĩ rồi nói:

- Ngươi ta đồn chúng hay bắn vào người lạ.

- Họ sẽ không bắn tôi nếu có ông đi cùng.

Nick móc ví.

- Coi đây, tôi muốn mau xong việc, chỉ cần giao xong hóa đơn mấy ngàn đô-la này là tôi đi ngay.

Gus nhún vai.

- Tôi sẽ đưa ông đi. Cứ để xe hơi ở đây. Con đường ngắn nhất là đi thẳng lên đồi. Nick khóa xe rồi đi bộ cùng người đàn ông da đen, leo lên ngọn đồi và họ trông thấy con sông ngoằn ngoèo uốn khúc chia hai vùng quê. Nick nói:

- Cảnh đẹp quá!

- Mùa xuân còn đẹp hơn nhiều.

- Ông chắc đã thấy nhiều mùa xuân ở đây?

Gus quay lại nhìn Nick.

- Tôi sống với ông bà Franklin gần cả đời. Lúc tôi đến họ mới có một con.

- Ông Franklin đâu?

- Chết vì bệnh ung thư mười lăm năm rồi. Bà ấy sống một mình từ đấy. Tôi làm tất cả những gì tôi có thể làm được cho bà ấy, mấy thằng con trai không quan tâm đến mẹ chúng.

- Bà ấy không có con gái sao?

Người nô bộc da đen lắc đầu.

- Có một đứa con trai nữa, tên Tom, rời bỏ gia đình năm mười bảy tuổi, nghe đâu đi lập nghiệp ở miền Tây.

- Lâu chưa?

- Mười hai năm rồi. Nó ở giữa Jessie và Jud. Tôi chăm sóc cả bốn anh em chúng đấy.

- Họ không thường xuyên về nhà với bà mẹ à?

- Chúng sống trên đồi, chỗ nhà máy xay cũ. Willie và bà mẹ không hạp nhau, cả ba đứa đều chưa lập gia đình.

- Mỗi gia đình thường có một chuyện không vui.

Họ khó nhọc leo lên đồi trong im lặng. Lát sau, họ thấy chỗ rẽ nhánh của con sông phía dưới. Gus nói, chỉ ngón tay xương xẩu về phía trước:

- Đó.

Nick thấy một căn nhà lớn toàn bằng gỗ ngay cạnh bờ sông. Các khung cửa sổ đều sơn trắng và một bánh quay cối xay gió màu vàng. Căn nhà thuộc kiểu xây dựng của kỷ nguyên khác, nhưng hình như cũng được trau chuốt cho sáng sủa. Khi họ bắt đầu xuống đồi, Nick thoáng thấy bóng người bên cửa ra vào cối xay. Và gần như ngay lập tức, một phát súng nổ vang.

Nick nằm rạp xuống đất nhưng Gus cười.

- Ông chưa quen với lối sống miền quê. Nếu hắn muốn bắn ông thì hắn chờ ông đến gần hơn nữa. Hắn chỉ cảnh cáo vì không biết chúng ta là ai.

Ông già da đen bước đến bìa rừng, giơ tay vẫy và la lớn. Nick thấy gã đàn ông râu ria - chắc là Jud, ngưòi trẻ nhất - đặt khẩu súng xuống và lui vào bên trong. Nếu mình không bị bắn thì ắt hẳn mình sẽ được tiếp đón. Nick nghĩ thầm.

Mất gần mười phút nữa để xuống đường đồi khá dốc, về phía căn nhà. Đến gần căn nhà hơn Nick mới thấy nó hư nát hơn nhìn ở xa. Cả lớp sơn có vẻ sáng sủa cũng bị bong tróc khá nhiều.

Hai người ra gặp họ. Jud vẫn cầm khẩu súng, nhưng im lặng. Người kia, có bộ râu rất tỉa tót, mắt xanh như bà mẹ, hỏi:

- Ông mang ai đến đây vậy, Gus?

- Ông này là người của hãng bảo hiểm, đem hóa đơn cho Willie, bồi thường thiệt hại của nhà máy xay.

Hai gã nọ liếc nhìn nhau, bối rối.

- Chẳng có thiệt hại gì ở đây cả.

Nick nhanh nhẩu:

- Do bão. Có đơn đòi bồi thường và được chấp thuận, có lẽ do mẹ các ông đứng đơn và quên mất. Tôi là Nicholas ở văn phòng bảo hiểm đời sống...

- Hỏi xem Willie có biết chuyện này không.

Jessie nói với em hắn. Jud quay đi, vẫn cầm khẩu súng. Gus có vẻ bồn chồn, nói với Jessie:

- Tôi phải trở về nhà, bà ấy sợ ở một mình.

Jessie nhìn Nick bằng đôi mắt xanh nhạt.

- Ông biết đường về chứ, ông Nicholas?

- Tôi nghĩ không khó.

- Về đi Gus, chúng tôi sẽ gặp ông sau.

Khi người đàn ông da đen nhanh nhẹn leo lên đồi, Jessie mỉm cười.

- Ở tuổi đó mà khỏe thật, ông ta gần bảy mươi rồi đấy.

- Trông ông ta trẻ hơn nhiều.

- Lúc trẻ ông ta đẹp trai có tiếng. Chúng tôi nghĩ lẽ ra ông ta phải theo đuổi cái gì lớn lao hơn là chôn cuộc dời ở dây.

- Tôi thấy sống ở đây êm ả hơn.

Nick nhận xét. Có mùi gì thoang thoảng mà Nick chưa hề biết. Hắn tự hỏi nhà máy xay lậu này đang sản xuất cái gì.

Jud trở lại, vẫn cầm khẩu súng.

- Anh ấy không biết gì về vụ bảo hiểm cả, cũng không có thiệt hại gì ở đây. Có lẽ lầm lẫn rồi.

Nick lấy hóa đơn trong cặp.

- Đây, tất cả đã được ký và đều hợp lệ. Ba ngàn năm trăm bốn mươi đô-la cho đơn đòi bồi thường. Tôi cần chữ ký của ông ấy.

Jessie chìa tay.

- Tôi đem đến cho Willie và bảo anh ấy ký tên nhé. Anh ấy đang bận.

- Ông ấy bận lắm à?

- Công việc mà, ai có việc nấy.

- Xin lỗi, biên lai phải được ký trước mặt tôi, thủ tục của hãng chúng tôi là thế.

Họ có vẻ bí, cùng vào trong nhà, xì xầm trao đổi. Lát sau người anh, Jessie, bước ra và nói:

- Theo tôi.

Nick vào nhà và cùng gã em lên cầu thang. Gian chính của căn nhà xưởng được dành làm nơi ở khá tiện nghi. Có một TV và một dãy những khẩu súng săn. Cửa sổ trông ra sông, phong cảnh khá đẹp. Nhà bếp tiện nghi và phòng ăn ở đầu kia của căn phòng lớn. Không thấy có không khí của phụ nữ ở đây.

Jessie dẫn đường lên cầu thang gỗ đến tầng hai. Nick thấy những cửa ra vào chia cách các phòng ngủ. Nhà tắm chiếm phần khá rộng của tầng này. Ở phía kia, nhà kho cũng rộng, Nick cố liếc nhìn vào khi Jessie mở cửa.

- Willle, ít phút thôi nhé.

Một người đàn ông hói đầu mập mạp bước ra. Hắn nhìn Nick với vẻ tức giận cố nén.

- Tại sao mày dẫn anh ta đến đây?

- Anh ta phải nhìn thấy anh ký vào biên lai, nêu không thì anh ta không chịu đi.

Hắn làu bàu chút nữa rồi chìa tay với Nick.

- Tôi là Willie Franklin, anh cần gì tôi?

Nick bắt tay và đưa ra thẻ nhân viên bảo hiểm.

- Có đơn đòi bồi thường thiệt hại do bão...

- Không hề có thiệt hại gì cả.

- Có lẽ mẹ của ông đứng đơn và quên.

- Đây không phải tài sản của bà ấy.

- Không sao, tôi chỉ cần chữ ký và giao tiền cho ông. Tôi bận lắm.

Nick đoán gã hói đầu khoảng bốn mươi tuổi, tuy dáng người mập và cái đầu hói làm hắn già hơn. Hắn cầm giấy lãnh tiền và biên lai, đọc kỹ. Nick không bao giờ tin những tên lừa đảo khi hắn sắp móc túi chúng nên hóa đơn về số tiền là đồ thật. Jessie đề nghị:

- Chúng ta hãy hỏi mẹ về việc này.

Willie Franklin cười toét.

- Việc quái gì phải hỏi! Của trên trời rơi xuống thì cứ nhận, người đời nói thê mà. Ai cho mượn viết coi?

Nick cố tình lần lữa không đưa ra cây viết của mình, sau cùng, Willie phải lục trong túi quần của hắn. Hắn mặc cái quần lính cũ kỹ, hai bàn tay mập của hắn lôi ra trong hai cái túi to những thứ lỉnh kỉnh rồi thả lại vào túi ngay. Nick kịp nhìn thấy một cái lược bỏ túi nhỏ màu đen. Willie lấy được cây bút bic và cẩn thận ký tên.

- Rồi, ông bạn vừa lòng chưa?

- Tốt. Tôi còn phải đi nơi khác.

Nick trao giấy lãnh tiền cho hắn khi nhận lại biên lai. Jud bỗng nói:

- Khoan đã, làm sao chúng tôi biết ông có phải là cớm hay không, đến dò la nơi đây?

- Tôi chỉ là người của hãng bảo hiểm.

Nick cố trấn an họ.

- Dù các ông có lò rượu lậu ở đây thì cũng chẳng có ý nghĩa gì với tôi.

Mấy anh em nhà Franklin cười ha hả và Willie xua tay.

- Đi, đi mau và đừng có trở lại đấy. Chúng tôi canh gác ngày đêm, đừng để chúng tôi lầm ông với hươu nai đấy.

Khi Nick xuống sườn đồi dốc trở vể nhà bà Cassy, hắn nghe một tiếng súng và tiếng cành cây gãy phía trước. Viên đạn không nhằm vào hắn, chỉ cố ý đuổi hắn.

*

Việc đầu tiên Nick làm khi về đến khách sạn là phôn cho Sandra Paris ở New York. Vừa nghe tiếng nàng, hắn nói ngay:

- Anh gặp khó khăn, không nghiêm trọng lắm nhưng sẽ đỡ cho anh nhiều nếu anh được nói chuyện với người đàn bà đã thuê em.

- Tại sao lại như vậy?

- Anh đã đến chỗ nhà xưởng hôm nay, và cũng như em đã trải qua. Mấy tên đó có vẻ thích chơi súng lắm, anh muốn biết có phải chúng sẵn sàng bắn người không.

- Qua trao đổi với bà khách hàng thì em tin chúng rất nguy hiểm, đó là lý do em muốn rút lui. Không những em sợ súng mà còn sợ cả cái vụ quỉ quái này, Nick, em thích những phi vụ ở thành phố hơn cái miền quê chết tiệt đó.

- Em cho anh số phôn của bà ta được không?

- Không, nếu bà ta chưa đồng ý.

- Thử hỏi bà ấy coi, rồi gọi lại anh.

Hắn cho nàng số phôn của khách sạn.

Không đầy mười phút sau, nàng gọi lại.

- Bà ấy tên Dusty Wayne, hát nhạc đồng quê và nhạc miền Tây cho một quán bar ở Gunnerville. Nơi đó cách chỗ anh khoảng ba mươi cây số. Anh có thể gặp bà ấy tối nay, khoảng sau tám giờ. Em nói với bà ấy anh là người đàn ông lớn tuổi và rất quyến rũ.

Hắn thấy có sự hài hước trong giọng nàng. Hắn đáp, thấy cổ họng mình khô khốc.

- Cám ơn.

- Khỏi phải cám ơn. Tên quán bar là Hardy, nằm ngay đẩu đường chính, rất dễ thấy.

- Anh sẽ đến.

Tối hôm đó Nick tìm thấy Gunerville không chút khó khăn. Quán Hardy có vẻ là một quán rượu bên đường kiểu cổ hơn là một quán bar, với chỗ đậu xe rộng rãi và bảng hiệu néon xung quanh. Chỗ đậu xe gần như kín làm hắn có cảm tưởng hôm nay là ngày cuối tuần.

Bên trong toàn những bàn nhỏ và một sàn nhảy. Nick gọi bia, đứng cạnh quầy rượu, lắng nghe giọng hát ngọt ngào của ca sĩ đang hát nhạc đồng quê. Cô ta mặc quần ống túm bằng da hoẵng, đánh guitar thùng. Nick cứ ngỡ mình đang sống ở thập niên 60. Hắn đưa mảnh giấy nhỏ nhờ người bồi bàn đem lại cho cô ta và ngay sau đó cô ta đặt cây đàn xuống cái ghế nhỏ trên sân khấu, xin phép khán giả nghỉ giải lao.

Cô ta đến chỗ Nick và hỏi:

- Anh là Nick Velvet?

- Vâng.

- Tôi là Dusty Wayne.

Gần bên Nick mới thấy cô ta quyến rũ kiểu tinh nghịch, có lẽ tuổi cô ta khoảng ba mươi lăm, tóc cắt ngang trán, để dài gần tới mí mắt. Cái quần da hoẵng ôm vừa người, thật xinh xắn.

- Tôi ngưỡng mộ giọng hát của cô, gợi nhớ Loretta Lynn.

- Cám ơn.

Cô ta cười, hai lúm đồng tiền trên má.

- Sandra nói anh rất dễ thương.

- Làm sao cô quen Sandra?

- Từ thưở đi học. Chúng tôi học cùng lớp ở đại học một năm nhưng sau đó tôi bỏ học để rong ruổi đây đó với cây guitar.

- Cô biết tôi đến đây làm gì chứ?

Cô ta liếc nhanh hai bên quầy rượu.

- Chúng ta kiếm bàn đằng kia nhé, tôi muốn nói chuyện riêng tư một chút.

Nick theo cô ta đến một bàn xa khuất chỗ đông, sát tường. Cô ta ngồi xuống ghế, châm thuốc hút rồi nói với vẻ lúng túng.

- Tôi chỉ yên lòng khi biết rõ về cái lược đó.

- Kể cho tôi nghe. Tại sao nó quí giá đối với cô?

- Tôi không biết nó quí giá hay không cho đến khi tôi được trông thấy nó. Ngày ấy khi vừa vào nghề hát, tôi yêu một người trong mấy anh em nhà Franklin - Tom Franklin. Anh ấy nhỏ hơn tôi sáu tuổi, năm đó anh ta mười bảy, và là người đẹp trai nhất trong bọn họ. Da đen, tóc quăn, ánh mắt như hớp hồn người. Chúng tôi dự định ra đi cùng nhau, ngao du khắp miền đất nước, hát nhạc đổng quê. Rồi một ngày nọ, anh ấy... biến mất. Anh Willie bảo rằng Tom bỏ nhà đi, hình như đến miền Tây để lập nghiệp.

- Chuyện cái lược thế nào?

- Tôi đang kể đây, Tom luôn ray rứt với đầu tóc của anh ấy. Tôi cho rằng anh ấy muốn có mái tóc giống Elvis, nhưng khốn nỗi tóc anh ấy quá quăn. Tuy vậy, tôi vẫn tặng anh ấy một cái lược và anh ấy luôn mang trong người. Nó có khắc tên tắt anh ấy, T.F. Anh ấy coi nó như là một lá bùa may mắn, không hề rời nó, và nếu có đi miền Tây thì cũng phải mang theo nó, chắc chắn. Anh ấy có thể bỏ tôi, nhưng bỏ cái lược đó thì không. Hai tháng trước đây, có một người ở Tây Alum cho tôi biết ông ta tình cờ gặp Willie Franklin tại một nhà thuốc tây bên kia đồi Casper, ông ta có cái lược đó trong túi, làm rơi nó xuống đất khi móc tiền ra.

- Có thật đấy, tôi đã nhìn thấy nó.

- Ông bạn tôi lấy làm lạ vì người hói đầu gần trọc như Willie mà lại dùng lược, và tôi cũng nghĩ thế.

Dusty châm điếu thuốc khác.

- Một đêm, tôi chợt nghĩ đến Tom, nghĩ đến cái lược. Từ lâu tôi vẫn không tin chuyện Tom bỏ đi mười hai năm trước, đi mà không có một lời với tôi.

- Cô nghĩ chuyện gì đã xảy ra?

Dusty thở gấp.

- Tôi nghĩ Willie đã giết Tom và chôn anh ấy đâu đó. Anh em họ như có thù hằn nhau. Có thể tôi không bao giờ chứng minh được điều đó, nhưng tôi muốn biết. Nếu Willie đang giữ đúng cái lược đó trong người, tôi có thể chứng minh được mọi chuyện.

- Cô trả rất nhiều tiền để tìm sự thật.

- Tôi thực hiện được hai đĩa CD, tổ chức được vài chương trình nhạc hội nên cũng có chút tiền. Bây giờ tôi đã có gia đình, nhưng đôi khi tôi cũng nghĩ đến Tom và muốn biết thật sự chuyện gì đã xảy ra cho anh ấy. Tôi muốn biết sự thật. Đối với tôi thì số tiền tôi bỏ ra xứng đáng lắm.

- Tôi sẽ làm hết sức giúp cô.

Nick hứa và chào tạm biệt.

Sáng hôm sau, Nick lái xe đến phía trên sông, cách Tây Alum vài dặm, thuê một cái xuồng, nói ba hoa rằng hắn đi câu. Hắn chèo nhẹ nhàng trên sông Casaqueek, ước lượng dòng chảy rồi chèo vào bờ cách căn nhà xưởng khoảng hai cây số. Tiến về căn nhà lúc đêm xuống có thể sẽ nguy hiểm. Hắn không rành việc đi trong rừng nhưng đủ hiểu rằng chỉ cần dẫm gãy một cành cây trên đất sẽ hại đến tính mạng vì những gã kia có súng. Đột nhập vào khu nhà đổ bằng đường sông an toàn hơn nhiều.

Hắn có nhiều việc phải làm hôm đó. Trước hết phải tìm một cuốn niên lịch ở thư viện của tỉnh, coi kỹ giờ trăng lên. May mắn là hôm đó trăng non nên sẽ rất ít ánh sáng. Việc kế là đi tìm một con mèo hoang. Hắn đã để ý hai con lang thang trên đường và không bao lâu sau hẳn đã nhử được một con vào bẫy bằng cách riêng của hắn.

Trước lúc nửa đêm, hắn lên đường bằng chiếc xuồng cùng với con mèo trong một cái túi chắc chắn. Hắn chèo sát bờ, tránh vùng giữa sông vì nơi đó thường rất dễ lộ, dù là dưới ánh trăng non. Không bao lâu, căn nhà xưởng hiện ra trong màn đêm. Vẫn còn ánh đèn nhà dưới. Hắn không biết họ để đèn suốt đêm theo thói quen hay có người còn thức, đang làm việc. Trong bóng tối, Nick cập xuồng sát bờ, gần cối xay gió và chờ đợi.

Sự cẩn trọng của hắn được tưởng thưởng vì khoảng mười lăm phút sau, Jud ngất ngưởng xuất hiện ở cửa trước, nhìn ra màn đêm. Nick thấy hắn cầm chai bia. Lát sau hắn ngửa cổ nốc cạn rồi đóng cửa, tắt đèn. Không bào lâu sau, đèn một căn phòng trên lầu bật sáng, khoảng mười phút sau thì đèn tắt. Nick chờ thêm nửa tiếng nữa mới rời xuồng, mang theo cái túi đựng con mèo.

Mở khóa cửa trước đối với hắn chẳng có gì khó. Lách nhẹ vào, hắn đóng cửa lại không gây một tiếng động nhỏ. Mọi thứ trong căn phòng đã in trong đầu hắn qua lần đến đây vừa rồi, hắn nhẹ nhàng lần mò trong bóng tối đến cái bàn giấy, cầm lấy cái đèn để bàn, rồi hắn nghĩ chọn chai bia có lẽ hay hơn. Đặt cái đèn xuống, hắn cầm lấy chai bia. Mang cả chai bia và túi đựng mèo lên cầu thang, đến tầng hai, hắn thì thầm: “ Mèo ơi, ra ngoài nhé”, hắn nghiêng mình qua cầu thang, thả con mèo qua miệng túi xuống cái ghế bành phía dưới, khoảng hơn ba mét. Ngaysau đó, hắn buông cái chai, nhưng nhắm chỗ trống trên sàn gạch. Một tiếng vỡ loảng xoảng trong bóng tối.

Nick chạy nhanh vào căn phòng nơi Willie làm việc, nấp sau cánh cửa. Tiếng anh em Franklin la ó rồi tiếng họ vùng dậy. Một tiếng la.

- Cái gì thế? Lấy súng!

Họ chạy ra cầu thang, bật đèn. Willie, đầu nhẵn thín, giằng lấy khẩu súng trong tay một gã em hắn, dẫn đường xuống nhà. Nick rời chỗ nấp, vội vã tót vào căn phòng ngủ gần nhất mà hắn tin chắc Willie vừa từ trong đó chạy ra. Lướt ánh đèn pin tí hon lên đồ đạc, lên giường, Nick biết mình không lầm. Cái lược ở đó, cùng với những đồng bạc lẻ, một con dao nhíp, một cái khăn tay. Hắn cầm cái lược lên xem và thấy hàng chữ: T.F.

- Một con mèo! Đồ chết tiệt!

Tiếng la vọng lên từ nhà dưới.

- Jud, mày lên lầu sau cùng, mày để mèo vào nhà phải không?

Jud cãi phăng.

- Không hề có con mèo nào ở đây khi em lên lầu.

- Chứ làm sao nó vào được? Ném nó ra ngoài ngay nếu không tao cho nó một phát bây giờ!

Nick biết đó là giọng Willie ra lệnh cho các em hắn. Ở im trong chỗ nấp, hắn biết chắc chắn nếu bọn chúng mà tìm kiếm thì chỗ này chúng không thể bỏ qua. Không lâu sau đó, con mèo bị ném ra ngoài và anh em chúng lục tục kéo nhau lên phòng ngủ. Jud vẫn khăng khăng:

- Em chắc chắn là không có nó trong nhà lúc em lên lầu mà!

Bọn chúng yên vị trong phòng riêng hồi lâu nhưng Nick vẫn ở im tại chỗ nấp khoảng nửa tiếng. Cuối cùng, hắn rời chỗ nấp, rón rén bước về phía cầu thang. Đế giầy hắn đạp lên cái gì đó gây ra tiếng xoèn xoẹt. Nó vướng vào đế giầy hắn. Gỡ vật đó ra khỏi đế giầy, hắn bỏ nó vào trong túi áo. Nhưng Jessie đã nghe.

- Mày đó hả Jud?

Willie la lên từ phòng bên cạnh.

- Câm đi, thằng trời đánh, co biết tao đang ngủ không!

- Anh Willie, hình như có người ngoài kia.

Nick biết mình phải thật nhanh. Hắn xuống cầu thang, ra khỏi cửa ngay khi ánh đèn bật sáng choang. Lẩn trong bóng tối đến chỗ cái xuồng bên bờ sông, hắn thấy Willie đứng cạnh Jud dưới ánh đèn ngay bên cửa ra vào. Jessie nói:

- Hắn thoát rồi.

Giọng Willie thật trầm tĩnh nhưng dễ sợ.

- Không sao, tao biết ai rồi. Sáng mai hắn sẽ chết.

Nick trả xuồng chỗ cho thuê rồi phôn cho Sandra Paris. Nàng hỏi:

- Công việc ra sao rồi?

- Em nợ anh bốn mươi ngàn đô-la.

- Tốt, em sẽ bay ngay và chúng ta gặp nhau ở phi trường Atlanta. Anh sẽ có tiền và giao cái lược đó cho Dusty Wayne là việc của em.

- Đồng ý, đúng hẹn nhé.

- Khoan, em phải coi lại chuyến bay, phôn lại em hai tiếng nữa nhé, nếu không kịp chuyến bay tối nay thì sớm mai.

Nick vừa ra khỏi cabin điện thoại công cộng thì một chiếc xe cảnh sát trờ tới sát hắn. Viên cảnh sát hỏi ngay khi đang xuống xe.

- Ông là Nicholas?

Nick thót cả tim gan. Nếu họ biết cái tên giả hắn đang dùng tức là có rắc rối rối.

- Vâng, chính tôi.

- Ông có đến nhà bà Franklin hôm kia?

- Vâng, tôi đến để giải quyết việc bảo hiểm...

- Đi với tôi, cảnh sát trưởng muốn nói chuyện với ông.

- Chuyện gì vậy?

- Một vụ giết người. Một người đàn ông da đen tên Gus Adam làm việc cho bà Franklin.

Trên đường đến văn phòng cảnh sát trưởng, theo sau xe của viên cảnh sát, Nick chỉ biết chắc một điều là Willie chưa biết ai đánh cắp cái lược.

Cảnh sát trưởng là một người đàn ông nhỏ con, ăn nói cũng nhỏ nhẹ và hình như không phải ông sinh trưởng ở đây. Tên ông là Garvey. Ông nói ngay khi Nick vào.

- Ông Nicholas, tôi không thấy hồ sơ nào về ông ở hãng bảo hiểm đời sống của tiểu bang. Không phải tên ông là Nicholas chứ?

- Vâng, tên giả, đôi khi trong công việc người ta dùng tên khác.

- Bà Franklin nói ông đến chỗ bà ta thứ ba vừa qua để giao một giấy lãnh tiền cho con trai bà ấy.

- Đúng.

- Và Gus Adam đưa ông đến căn nhà xưởng chỗ ba người con trai bà ta làm việc.

- Đúng. Tôi chỉ biết ông ta tên Gus.

- Thật tệ nếu ông không biết nhiều về ông ta. Một người rất dễ thương, vùng này ai cũng yêu mến.

- Ông ấy đúng là rất dễ mến.

- Có người đã giết ông ta sáng nay.

Cảnh sát trưởng Garvey nhìn Nick.

- Bắn ông ta qua cửa sổ căn nhà nhỏ trong khuôn viên nhà bà Franklin. Ông ta chết ngay trong nhà bếp. Ông có nghĩ ai đã giết Gus không?

- Không, làm sao tôi biết được?

- Một người như Gus không thể có kẻ thù, hơn nữa, ông ta gần bảy mươi rồi, quỉ thật!

- Có thể ông ta chết vì lạc đạn? Những người đi săn trong rừng, ở đây nhiều rừng...

- Bây giờ không phải mùa săn. Ông ta có nói với ông điều gì về những sự đe dọa nào đó?

- Chắc chắn ông ta không nói với người gặp gỡ lần đầu về chuyện riêng tư.

Người cảnh sát nhìn Nick đăm đăm rồi nói.

- Ông ở lại tỉnh này một hai ngày phòng trường hợp tôi cần đến ông.

- Tôi muốn đến chia buồn cùng bà Franklin trước khi rời nơi đây.

Hắn đứng dậy định đi thì một ý nghĩ chợt nảy trong đầu.

- Khi tôi đến nhà máy xay của anh em nhà Franklin, tôi có cảm tưởng anh em nhà đó đang làm chuyện gì bất hợp pháp... có thể họ lảm rượu lậu đấy.

Người cảnh sát cười.

- Đó là ý tưởng khôi hài của Willie khi dùng nơi bỏ hoang đó. Tôi đã đến tận nơi xem xét rồi, không có rượu lậu. Hắn có hai bộ máy gì đó dùng trong viện bào chế, rất cổ lỗ, nhưng rượu lậu thì không.

Nick không quan tâm đến vẻ hài hước của viên cảnh sát hói đầu trong cuộc gặp gỡ ngắn ngủi này. Hắn nói cho có vẻ thành thật.

- Lúc nào tôi cũng sẵn sàng nếu ông cần.

Có nhiều xe hơi đậu trước của nhà bà Franklin khi hắn ghé thăm sau bữa trưa. Vào nhà hắn thấy bà Cassy Franklin trong trạng thái gần như suy sụp, đang được những người láng giềng bên cạnh chăm sóc. Không thấy ba người con trai của bà ta. Bà nhận ra Nick ngay.

- Ông Nicholas.

- Tôi sắp đi khỏi vùng này thì nghe tin. Gus là một người đàn ông thật sự, tôi xin chia buồn vì ông ta chết một cách thương tâm như vậy.

- Ông ấy giúp việc nhà cho tôi gần bốn mươi năm, tôi không biết làm gì nếu không có ông ấy!

- Bao giờ cử hành lễ tang, thưa bà?

- Thứ bảy. Ông ấy sẽ được khâm liệm ngày mai tại nhà tang lễ của tỉnh.

- Tôi sẽ đến nếu tôi còn ở đây.

Đó là điều tối thiểu hắn có thể làm cho người đã chết thay cho hắn.

Hắn trở lại trạm điện thoại công cộng cạnh cây xăng hắn đã gọi lúc trước. Có lẽ đây là trạm đện thoại công cộng duy nhất trong tỉnh, ở New York, Sandra Paris đang chờ phôn của hắn.

- Hơn hai tiếng rồi, Nick, dễ cũng gần ba tiếng đấy ông ạ!

- Anh xin lỗi, có chút rắc rối ở đây. Một người đàn ông bị giết mà nguyên nhân một phần do anh: Chúng cho rằng ông ta lẻn vào nhà chúng để đánh cắp cái lược.

- Sao lại thế?

- Anh cũng không hiểu, nhưng anh phải ở lại đến ngày mai, để làm vui lòng ông cảnh sát trưởng ở đây.

- Đừng để bị bắt nhé, Nick. Em không lôi nổi anh ra khỏi nhà tù lần nữa đâu.

- Anh sẽ cẩn thận.

- Có lẽ em phôn cho Dusty biết chuyện thì hay hơn. Người chết là ai vậy?

- Một người đàn ông da đen tên Gus Adams, làm việc cho bà Franklin.

- Anh nghĩ mấy gã con trai bà ta giết ông ấy?

- Một tên thôi - Willie. Phải chi có cách nào anh chứng minh được...

- Cẩn thận nhé.

Nàng cúp máy.

Nick ra khỏi trạm điện thoại, trở về chỗ đậu xe. May mắn là lần này không có xe cảnh sát chờ sẵn. Thò tay vào túi kiếm chìa khóa và hắn thấy có vật lạ trong túi. Đó là một loại lọ thuốc con nhộng bằng gelatin dùng cho dược phẩm, xẹp lép. Hắn sực nhớ đó là vật hắn gỡ ra khỏi đế giầy trong bóng tối đêm trước. Hắn cũng nhớ một chuyện khác. Một người bạn của Dusty Wayne đã gặp Willie Franklin tại một nhà thuốc tây.

Nick nghĩ đến lúc hắn đến thăm đáp lại cảnh sát trưởng Garvey.

*

Viên cảnh sát cần biết chắc hơn. Ông lắng nghe câu chuyện của Nick rồi lắc đầu.

- Có thể ông đúng, Nicholas, nhưng tôi cần chứng cớ để bắt hắn.

- Thế thì bắt mấy người em hắn vậy, xem họ chịu khai hay không.

- Về tội gì?

Nick thở dài, cảm thấy thất vọng vì nỗ lực cống hiến cho luật pháp không thành.

- Vậy thì, thưa ông cảnh sát trưởng, Willie có thể không làm rượu lậu, nhưng hắn đang làm việc g đó mờ ám, nếu không tại sao họ bắn vào người lạ đến gần chỗ họ? Theo tôi thì hắn nạp vào những vỏ thuốc này một chất bất hợp pháp, ma túy chẳng hạn.

- Hãy chứng minh điều đó, nếu đúng thì tôi sẽ bắt hắn trong vòng một tiếng.

- Tôi sẽ chứng minh được nếu tôi lọt được vào căn nhà của họ.

Viên cảnh sát mỉm cười.

- Lúc này thì ba anh em họ đang ở chỗ bà mẹ.

Nick mỉm cười đáp lại. Có sự thông hiểu giữa họ.

*

Nhà máy xay hoàn toàn im lặng khi hắn đến đó nửa giờ sau. Cửa trước hình như dễ mở hơn trong ánh sáng ban ngày và hắn không để mất thì giờ. Lấy tất cả các mẫu những vỏ thuốc nào hắn có thể tìm thấy, cùng với một thứ bột xốp đựng trong những cái thùng to có dán nhãn “Bột”.

Khi rời căn nhà, hắn đi dọc theo bờ sông, tránh không chạm trán anh em Franklin trong trường hợp họ trở về.

Cảnh sát Garvey xem xét kỹ những mẫu thuốc Nick đưa cho ông lúc quá trưa hôm đó.

- Cảnh sát tiểu bang có thể phân tích thứ này cho tôi ngay nếu tôi có yêu cầu khẩn cấp.

Nick mỉm cười.

- Hình như ông còn ghét anh em Franklin hơn tôi.

- Có thể, ông Nicholas.

Nick trở lại khách sạn và thấy một người khách đang chờ hắn tại bãi đậu xe. Dusty Wayne đang ngồi trong chiếc xe hơi thể thao.

Hắn nói, nghiêng mình qua cửa xe.

- Tôi dám cá cô đang tìm tôi.

- Lên xe đi, chúng ta sẽ nói chuyện

Nick lên ngồi cạnh cô ta.

- Cô nói chuyện với Sandra rồi?

Dusty gật đầu.

- Đó là lý do tôi đến đây. Anh có đem theo cái lược không?

Hắn đưa cái lược ra. Cô ta cầm lấy. Rõ ràng cô ta bị kích động mạnh khi xem xét kỹ cái lược. Rồi những giọt nước mắt lăn dài trên má cô ca sĩ. Tuy hiểu nhưng hắn vẫn hỏi.

- Đúng không?

- Đúng, vậy là Willie đã giết Tom.

- Nhưng tại sao chứ? Anh giết em ruột...

- Chuyện xảy ra lâu rồi, để tôi kể cho anh nghe về...

- Biết đâu Tom làm rơi cái lược hoặc cho Willie khi bỏ nhà đi.

- Không. Đây là món quà đầu tiên tôi cho anh ấy. Anh ấy rất quí nó. Có thể anh ấy vứt nó đi nếu lúc đó anh ấy ở tuổi ba mươi lăm, nhưng năm đó Tom mới mười bảy, tuổi mộng mơ...

- Tôi có cuộc hẹn với cảnh sát trưởng sáng nay, cô hãy đi với tôi.

- Không ai có thì giờ nghe câu chuyện của tôi đâu.

- Tôi tin họ sẽ nghe.

Họ có mặt tại văn phòng cảnh sát trưởng lúc chín giờ. Viên cảnh sát kéo ghế cho Dusty.

- Rất hân hạnh, tôi rất thích giọng hát của cô.

Cô cười nhưng không tươi.

- Cám ơn ông. Phải chi chúng ta gặp gỡ trong một dịp vui vẻ hơn.

Viên cảnh sát nhìn Nick.

- Ông đến hơi sớm đấy, cảnh sát tiểu bang chưa liên lạc với phòng thí nghiệm.

- Ông gọi họ không được sao?

- Ừ, để thử xem.

Ông với lấy ống nghe. Sau vài phút chờ đợi, ông được chuyển đường dây đến phòng thí nghiệm và ông ghi chép nhanh trong cuộc đàm thoại. Gác máy, ông mỉm cười. Nick đoán.

- Một loại thuốc bất hợp pháp?

Viên cảnh sát lắc đầu.

- Không, hoàn toàn hợp pháp. Một loại thông dụng, tuy đắt tiền, thuốc chữa bệnh tim.

- Cái gì?

Viên cảnh sát mỉm cuời vì vẻ ngạc nhiên của Nick.

- Nhưng nó bị chia đôi rồi trộn với thứ bột đó, thứ bột ông đem về. Willie và hai em hắn đang bao che thuốc chữa bệnh giả mạo, thu lợi rất lớn.

- Có hại cho người dùng không?

- Vô cùng nguy hiểm! Có thể gây chết người ở một số trường hợp.

- Ông định làm gì?

- Cảnh sát tiểu băng định hành động ngay hôm nay. Nhưng chúng tôi không thể đưa ra việc ông đột nhập vào đó để thu thập chứng cớ để bắt chúng, vì chúng sẽ đòi lệnh khám nhà đúng theo luật. Chúng tôi phải tìm cách chấm dứt việc làm của chúng và tìm xem chúng đang bán thuốc với số lượng lớn hay chỉ bán cho những nhà thuốc riêng lẻ.

Dusty xen vào.

- Ông thử tách riêng Jud và Jessie để hỏi xem, cho chúng biết sẽ được khoan hồng nếu kể cho ông nghe về những án mạng.

- Thưa cô, tôi không cần sự chỉ dẫn của cô.

Nói rồi ông nhíu mày.

- Những án mạng nào? Gus Adams hay ai khác?

- Anh và em của họ, Tom. Anh ta biến mất mười hai năm trước. Người ta nói là anh ta bỏ nhà đi nhưng tôi không bao giờ tin chuyện đó.

Willie Franklin không có ở nhà máy xay khi cảnh sát ập vào. Jud và Jessie chối phăng mọi việc, nhưng ngay sau đó chúng không dám nhận lấy tội lỗi của Willie về mình. Quá trưa hôm đó cả hai ký vào tờ khai xác nhận Willie đã bắn Gus Adams.

Nick lắng nghe lời khai của chúng qua cuộn băng ghi âm. Hắn hỏi.

- Tại sao anh các người giết Gus?

- Anh ấy cho rằng ông Gus lẻn vào nhà để đánh cắp một cái lược.

- Cái lược gì?

- Lược của em tôi, Tom. Willie giữ nó, mang theo trong người thường xuyên. Chúng tôi không biết tại sao, thật điên khùng!

- Chuyện gì xảy ra cho Tom?

- Willie giết nó lâu rồi, khoảng mười hai năm trước.

- Các người tưởng chúng tôi tin chuyện đó à?

- Tôi có thể chỉ các ông chỗ chôn nó, ngay sau cối xay gió cạnh bờ sông.

- Willie đâu?

- Đi mua thuốc ở tỉnh. Anh ấy sẽ có mặt ở đám tang tối nay.

Nick phôn cho Sandra Paris cho nàng biết hắn đã giao cái lược cho Dusty.

- Cô ấy rất vui, cảnh sát địa phương đang bố ráp chờ Willie.

- Tốt! Em đã thỏa thuận với Dusty về chuyện tiền nong. Chị ấy sẽ trả bằng

ngân phiếu, em sẽ trả anh sau.

- Anh lấy một nửa thôi, hai mươi ngàn, trả lại cô ta phần còn lại của anh.

- Cái gì vậy hử?... Việc làm từ thiện à?

- Vì cô ấy trả tiền cho tình yêu - yêu một cậu bé đã chết cách đây mười hai năm.

- Vậy mới đúng là anh đấy, Nick!

Họ lái xe vào chỗ đậu ngay khi nhà tang lễ vừa mở cửa. Gus Adams không có họ hàng, Cassy Franklin là bà chủ và cũng là người thân duy nhất đối với ông ta. Bà đứng cạnh quan tài chưa đóng nắp, tiếp đón từng người đến chia buồn. Nick biết bà chưa được cho biết về việc bắt giam Jus và Jessie.

Willie Franklin ngồi ở góc xa trong căn phòng. Hắn đứng dậy khi nhận ra Nick và bước về phía Nick. Rồi hắn lại ngạc nhiên khi thấy Dusty Wayne bước vào, mặc một bộ đồ toàn màu đen. Cô lên tiếng.

- Xin chào, Willie.

- Cái gì...? Dusty, cô đấy à?... Lâu quá rồi...

Trán hắn rướm mồ hôi.

Người lên tiếng tiếp theo là cảnh sát trưởng, giọng ông rõ ràng.

- Willie, tôi bắt ông vì tội giết người.

- Giết người? Giết ai?

- Hai người, Gus Adams và Tom, em của ông.

Hắn định phóng chạy qua họ, băng qua chỗ đặt quan tài, hướng về cửa. Cảnh sát tóm lấy hắn khi hắn mới chạy được vài bước, và nhanh chóng còng tay hắn.

Nick hỏi hắn khi hắn đang bị dẫn đi.

- Willie, chúng tôi biết lý do ông giết Gus, nhưng tại sao ông giết em ruột mình?

Hắn nhìn trừng trừng Nick như thể mới gặp Nick lần đầu. Có lẽ hắn nghĩ Nick cũng là cảnh sát tiểu bang. Và cũng có lẽ hắn đang thầm nguyền rủa mấy gã em đã để cho Nickvào nhà xưởng.

Nhưng hắn bỗng quay lại nhìn người đàn ông da đen trong quan tài, và ngay khoảnh khắc đó, Nick nhớ lại sự miêu tả về Tom Franklin - da đen, tóc quăn, đẹp trai có tiếng...

Willie nói, buồn bã:

- Năm đó nó mười bảy tuổi... nó giống cha nó y như tạc.

HẾT

Đánh máy: hoi_ls
Nguồn: Tạp chí Kiến thức Ngày nay -
Vietnamthuquan.eu - Thư viện Online
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 17 tháng 10 năm 2023