Viết một cuốn sách là làm một nghề cũng như chế tạo một cái đồng hồ.
LA BRUYÈRE
Một anh bạn tôi, thấy tôi viết cuốn nầy, mỉm cười hỏi:
- Viết văn mà cũng là một nghề ư?
Tôi cũng mỉm cười, đáp:
- Anh chưa nói hết ý, song tôi đã đoán được. Có phải anh cho viết là truyền bá tư tưởng, giải bầy nỗi lòng của mình; nếu viết văn là một nghề chẳng hoá ra nghĩ đến việc đem bán cái tâm tư là đáng quý nhất trong con người để cầu sự ấm no cho xác thể?... Nếu quả anh nghĩ vậy thì tôi xin hỏi lại anh: dạy học như anh bây giờ và tôi hồi trước cũng là đem bán những hiểu biết, tư tưởng – cả lòng yêu trẻ nữa – để lấy một số lương, vậy thì tại sao dạy học anh nhận là một nghề mà viết văn thì anh lại không chịu nhận?
Anh bạn tôi đó không phải là người độc nhất nghĩ lầm như vậy đâu. Trong xã hội chúng ta hiện nay, mười người chắc có sáu bảy người còn giữ cái thiên kiến ấy. Họ cho viết văn không phải là một nghề vì nghề đó còn mới mẻ ở nước ta quá: từ cuối thế kỷ 19 trở về trước, ông cha ta tuyệt nhiên không hề nghe nói đến nghề viết văn và nghề nầy chỉ xuất hiện vào hồi mà Nguyễn văn Vĩnh, Tản Đà, Phạm Quỳnh bắt đầu sinh nhai bằng ngòi bút viết báo.
Thời xưa, các cụ ta làm thơ, làm phú, viết truyện ngắn, truyện dài, soạn Sử ký, Địa lý…, đều là để tiêu khiển hoặc giúp đời, cầu danh, chứ không khi nào nghĩ tới tiền. Viết xong một tác phẩm, các cụ chép tay lại, gởi cho bạn bè đọc. Con cháu hoặc môn sinh thấy sách hay, góp nhau, kẻ vài quan, người dăm tiền, thuê thợ khắc lên gỗ quý. Thợ khắc xong, các cụ cho in ít chục, ít trăm bản gởi tặng bè bạn, bà con. Người lạ muốn có một bản thì cứ mang giấy mực lại, người giữ bản khắc sẵn lòng cho phép in hoặc nếu nhờ họ in thì họ tính tiền công rất nhẹ. Họ thấy có một cái vinh dự được truyền bá tác phẩm và vinh dự đó đủ làm cho họ thoả mãn, làm công việc đó chỉ mong trả ơn ông cha hoặc thầy học, hoàn toàn vì tình chứ không vì lợi.
Còn nói về những cửa hàng chuyên bán sách như những cửa hàng ở phố hàng Gai, Hà nội hồi xưa, thì hễ thấy một cuốn nào đó nhiều người hỏi, họ liền kiếm một bản in, nhờ một nhà nho duyệt qua lại, rồi tự tiện mướn thợ khắc, không cần xin phép tác giả. Tác giả chẳng những cho vậy là tự nhiên mà còn lấy làm vinh hạnh được một hiệu sách in sách mình.
Tóm lại, một tác phẩm ngay từ khi chép hoặc in xong để truyền bá trong dân chúng thì là đã thành ngay của công rồi. Ai in lại cũng được, ai bán cũng được, thậm chí đến ai muốn tự ý sửa chữa, thêm bớt ra sao cũng được! Vì vậy mà mỗi tác phẩm có nhiều bản không giống nhau, như Truyện Kiều có đến năm, sáu bản in, bản của họ Nguyễn, bản in ở Kinh, bản in ở Hà Nội, bản của hiệu sách nầy, bản của hiệu sách khác.
Tình trạng đó thật đã có hại cho văn học.
Hại thứ nhất là văn học phát triển không mạnh. Viết văn đã không phải là một nghề, nghĩa là tác giả đã không có chút quyền lợi vật chất gì cả thì viết chỉ còn là để tiêu khiển, dầu phẩm vẫn cao mà lượng tất nhiên phải kém. Chúng ta thử tưởng tượng nếu Victor Hugo cũng chỉ vì danh hay hứng mà viết thì tác phẩm của ông có được tới số trăm như vậy không? Và nếu Honoré de Balzac không được các nhà xuất bản trả một xu nhỏ nào thì bộ Hài-kịch của nhân loại (La comédie humaine) có ra đời được chăng? Cả thế kỷ trước, nước nhà xuất bản may lắm thì được trăm bộ còn Pháp thì hàng ức bộ, nguyên nhân chánh là các cụ cho viêt văn không phải là một nghề.
Hại thứ nhì là do cái nạn ai in lại cũng được, ai sửa chữa cũng được, không cần cho tác giả hay, mà có nhiều tác phẩm vừa mới ra đời được vài chục năm đã sai hẳn nguyên văn; khiến cho hậu thế muốn nghiên cứu về xã hội thời đó, đành phải lúng túng, không biết căn cứ vào đâu, dẫu tốn rất nhiều công phu cũng khó tìm ra được sự thực.
Những hại đó, người phương Tây sớm tránh được, nhờ họ sớm nhận viết văn là một nghề.
Thế kỷ 17 tại Pháp, La Fontaine bán cuốn Psyché cho nhà xuất bản Barbin lấy hai trăm đồng tiền vàng, Molière bán kịch Tartuffe cho nhà xuất bản Ribou được hai ngàn quan. Từ đó về sau, các đại văn hào như Diderot, Balzac, Vigny, Lamartine, Hugo… đã chẳng lấy sự bán văn làm ngượng mà còn kịch liệt tranh giành mọi quyền lợi cho người cầm bút. Tới năm 1886, hơn bốn chục nước đã ký chung một hiệp ước ở Berne (Kinh đô Thuỵ sĩ) để che chở văn nhân và quy định rõ ràng quyền tác giả.
Vậy khắp thế giới đã công nhận viết văn là một nghề và chúng ta cũng đừng ngạc nhiên khi thấy những cuốn sách dạy cách viết văn để bán lấy tiền, như:
- Writing for love or for money (Viết vì thích hoặc vì tiền) – Nhà xuất bản Norman Cousins.
- Writing and selling (Viết và bán) của Patterson.
Một văn sĩ Mỹ đã nói: “Một nhà văn có tài phải là một người có tài bán tác phẩm”. Một quan niệm như vậy có kẻ cho là không cao thượng nhưng quả là thực tế: nó có thể giúp một số nhà văn đỡ đói rét để kiên nhẫn theo đuổi nghệ thuật, và trước hết nó giúp cho độc giả có sách để đọc vì một tác phẩm mà không bán được, không in được thì chưa phải là một tác phẩm.
Cái nghề đó thật là “kỳ cục” đúng như thi hào P. Valéry đã nói.
Làm nghề hớt tóc, bạn phải sắm ít nhất một cái tông-đơ, hai con dao cạo, một cái gương, vài cái lược, rồi khăn lau, khăn quàng, dầu thơm, bàn chải…; làm nghề thợ mộc phải có cưa, có đục, có bào, có thước…; còn viết văn thì chỉ cần một cây viết, một tập giấy, hai thứ mà người nào chẳng có sẵn trong nhà?
Chẳng cần có bằng cấp như nghề bán thuộc, nghề giáo-sư, nghề đánh máy, hoặc ít nhất cũng có một sổ thợ chứng nhận rằng ta đã tập sự ở đâu, làm những công việc gì, như nghề thợ điện, thợ sắt, ta cũng vẫn được cửa văn đàn mở rộng tiếp đón. Ai tự xét đủ sức xông pha với cây viết thì đấy, cứ tiến. Thực dễ quá, dễ đến nỗi Vũ Bằng đã mai mỉa:
“Thi đíp-lôm không đậu thì viết văn. Lấy không được chồng, chán đời cũng viết văn. Rồi thì mười sáu, mười bẩy tuổi đầu, chưa biết đời là gì hết, cũng viết văn nữa – mà viết rất nhiều là khác (…), viết xong là để đấy, hay có người không viết gì hết, nhưng cứ tự nhận là người văn nghệ”[1].
Đã dễ mà lại có vẻ nhàn và tự do.
Nhàn, vâng, nhàn lắm, nhàn đến nỗi người ta thường lầm nhà văn với nhà … thất nghiệp. Không cần nói đến các văn sĩ “vui vẻ trẻ trung” hồi 1930 – 1939, suốt ngày đêm la cà ở quán rượu, “hộp đêm” dắt díu nhau dạo hết ba mươi sáu phố phường Hà-nội, rồi khi nào chán lang thang mới đóng cửa trong vài tuần để “đẻ” ra một tác phẩm; hãy nói ngay như các văn hào bực nhất ở Pháp, Anh như A. France, A. Maurois, G. Duhamel, A.J. Cronin, Somerset Maugham chẳng hạn, mấy ông nầy nổi tiếng trứ tác nhiều, mà làm việc cũng thong thả lắm, cứ viết độ năm, sáu tháng lại nghỉ chơi năm, sáu tháng hoặc viết buổi sáng thì nghỉ buổi chiều. Có nghề gì được thảnh thơi như vậy không?
Tuy nhiên, đó chỉ là bề ngoài. Thực ra một nhà văn yêu nghề và biết tự trọng, thì thân nhàn mà tâm bất nhàn. Những lúc ta tưởng họ nghỉ ngơi, như khi đi dạo mát, đi du-lịch, la cà trong tiệm sách, trò chuyện trong bữa tiệc, họ cũng thường nhận xét, suy nghĩ rồi ghi chép để dùng làm tài liệu cho cuốn sách mà họ sẽ viết; bao giờ họ cũng “thai nghén” hai ba tác phẩm ở trong đầu.
Vậy, nhàn thì nghề viết văn chưa hẳn đã là nhàn; còn tự do, tự do trong phương tiện làm việc, thì nghề ấy cũng chưa chắc đã được tự do. Đành rằng nhà văn không phải tới hãng đúng giờ; thức suốt đêm cũng được mà ngủ trọn ngày cũng được, lúc nào cao hứng mới viết; nhưng nếu không kể những nhà văn “tài tử”, thì một khi đã sống nhờ cây viết, người ta làm sao khỏi chịu nhiều bó buộc, chẳng hạn như bị nhà xuất bản hay nhà báo sai người đến thúc bài một ngày ba bốn phen, cấp bách tưởng như họ muốn đòi phá bể ruột tằm ra. Một anh bạn tôi đã phải viết tới hai giờ khuya rồi bắt vợ dậy chép bản thảo từ năm giờ sáng để sách ra cho kịp thời. Thì “tài tử” ai bằng Tản Đà, có lần bị Diệp văn Kỳ giục ba bốn lần, đến nỗi phát gắt lên: “Làm thơ chứ phải mổ lợn đâu mà đúng giờ được?” mà rồi cũng phải rán viết để khỏi phải nghe bên tai những lời lải nhải, eo xèo.
Đến như muốn viết gì tuỳ ý thì đó chỉ là mộng tưởng của nhà văn. Tình cảnh nhà văn hồi 1784 mà Beaumarchais đã mượn lời Figaro một vai chánh trong kịch của ông để mô tả như sau, hiện nay vẫn chưa thay đổi lắm:
“Người ta cho tôi biết rằng trong lúc tôi về vườn, thì ở kinh thành Madrid mới ban hành một chế độ tự do thương mại về các sản vật; chế độ ấy đã thi hành cả trong phạm vi ấn loát nữa; và miễn là trong công cuộc trước thuật, tôi đừng nói gì can phạm đến quyền chính, đến tôn giáo, đến chính-trị, đến luân-lý, đến các nhà đương-đạo, đến các cơ-quan thế-lực, đến nhà Opéra, đến tất cả mọi hí viện khác, đến một người nào có tí địa-vị, thì tôi được tự-do muốn in gì thì in, sau khi hai ba nhà kiểm-duyệt đã xem-xét rồi”[2]
Quyền tự-do của bạn không phải chỉ bị hạn-chế như vậy mà thôi đâu. Sách viết ra để bán, và không nhiều thì ít, bạn phải chiều thị-hiếu của người mua, nghĩa là của nhà xuất-bản. Mười nhà xuất-bản thì sáu, bảy nhà coi nhà văn như những con ngựa đua của họ và mười nhà văn chân-chính thì chín nhà phàn-nàn: “Tôi chưa xuất-bản được cuốn nào thực như ý tôi cả”. Âu là ta cũng đừng nên vội nói đến sự tự-do của nghề cầm bút!
Người ta bảo tài-hoa thường mệnh bạc; nhưng tôi nghĩ không phải người ta mệnh bạc vì tài-hoa mà chỉ bởi quá dùng tài của mình cho nên chết yểu.
Tôi không bạo miệng nói như Proudhon rằng nghề viết văn là nghề ghê sợ nhất; nhưng nghe John Burroughs bảo nghề đó “làm cho đầu bạn thì nóng, chân bạn thì lạnh, và sự tiêu-hoá các thức ăn phải ngưng-trệ”, thì cứ theo sự nhận xét riêng của tôi, tôi thấy Burroughs không nói ngoa: hai bạn văn thân của tôi đều đau gan, còn tôi sáu năm nay bị bệnh đau bao-tử.
Romain Rolland, tác-giả bộ tiểu-thuyết trường-giang Jean Christophe, viết thư cho bạn là Louis Gillet:
“… mỗi một cuốn trong bộ Christophe làm cho tóc tôi bạc đi nhiều (nói cho đúng thì làm tôi mất đi nhiều tóc); tất cả những cuộc khủng-hoảng của nhân-vật của tôi làm cho tôi điên-đảo cũng như người trong truyện, mà có phần hơn nữa, vì thể-chất tôi không mạnh bằng!”
Tchékov mượn lời một nhân-vật trong một truyện ngắn để tả nỗi đau khổ trong công-việc sáng-tác:
“Ngày đêm, một tư-tưởng theo đuổi tôi, thu hết tâm-lực tôi: phải viết, phải viết, cần phải viết. Vì viết xong một truyện, tôi lại thấy cần phải viết một truyện khác rồi. Tôi không hiểu vì sao, nhưng tôi viết không ngừng như người phu trạm chạy, và tôi không thể làm khác được (…) Đây này, tôi đứng trước mặt ông, tôi băn-khoăn, trằn trọc và lúc nào tôi cũng nhớ rằng có một cái tiểu-thuyết đang chờ đợi tôi. Tôi nhìn thấy một đám mây trông giống hệt một chiếc dương-cầm và tôi nghĩ rằng phải ghi lại rằng có một đám mây trắng giống như chiếc dương-cầm. Lá kia ngửi như mùi hoa hướng-dương và lập tức, tôi nghĩ ngay đến hoa hướng-dương mùi lạt-lạt…” “Nhớ lấy để dùng vào một đoạn tả cảnh mùa hạ”. Tôi rình ông và rình cả tôi nữa, rình từng câu, từng chữ; tôi vội ghi vào trong ký-ức tất cả những câu đó, chữ đó, có lẽ một ngày kia tôi sẽ đem ra dùng. Và khi nào công-việc xong rồi, tôi phải nghỉ-ngơi, quên đi; nhưng ở trong đầu tôi quay lông-lốc một hòn gang, một đề-tài truyện mới, và tôi lại nhẩy sổ đến bàn viết, và tôi cứ phải viết hấp tấp như thế, và tôi không được nghỉ ngơi lúc nào, đó là tự tôi làm tôi như vậy. Tôi thấy rằng chính mình lại tiêu huỷ đời mình và lấy được mật ong để đem cho những người không quen biết ở khắp bốn phương trời, chính tôi đã lấy hương nhị những bông hoa đẹp nhất của tôi, tôi vò xé, tôi chà đạp gốc rễ của những cây hoa đó. Có phải tôi điên không?”[3].
Như vậy thì làm sao mà chẳng chóng già, chết yểu! Và kẻ đọc xong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn mà bảo: “Tinh thần tác giả trút hết vào trong khúc nầy, vậy không quá ba năm y sẽ chết” đã quả là hiểu rõ cái số mệnh của nghệ sĩ!
Mấy nhà bác học Mỹ sau khi phân tích máu của những người đã làm việc năm, sáu giờ liên tiếp bằng tinh thần mà không thấy có chất dơ như máu của những người đã làm việc bằng tay chân, nên đã kết luận rằng làm việc bằng tinh thần không mệt. Tôi cũng muốn tin điều ấy, song hàng tháng, có khi hàng năm, chú ý vào một vấn đề, có bữa còng lưng suốt ngày trên bàn viết thì thể chất có lực lưỡng như Balzac cũng khó mà chẳng sớm thấy ngày suy.
Cái điều mệt trí nhất trong nghề đó là nhà văn phải chiến đấu suốt đời. Bạn là giáo sư, soạn bài trong năm đầu rồi những năm sau, nếu cũng vẫn dạy môn đó và lớp đó thì công việc nhẹ đi già nửa. Bạn là y sĩ thì sau mười năm kinh nghiệm, trừ những trường hợp đặc biệt, bạn không cần phải suy nghĩ lung tung cũng đoán ra được bệnh.
Nghề cầm bút thì khác hẳn. Mỗi tác phẩm là một công trình mới, phải tìm tòi, trầm tư, sắp ý, lựa tiếng, sửa câu…Mà nếu nhờ quen nghề, bạn viết được dễ dàng hơn thì lại phải tự chống với sự dễ dàng ấy. Luôn luôn bạn phải tìm cách viết hơn người khác và hơn những tác phẩm trước của bạn. Bạn phải chiến đấu với người và với mình, không thể để cho cây bút của bạn “xuống” luôn trong vài ba năm vì một khi nó đã xuống thì tất nhiên bạn sẽ bị độc giả thờ ơ, có khi còn cay nghiệt mỉa mai là khác nữa.
Đời một đào hát, khi về già, chua xót ra sao thì đời một nhà văn khi bị độc giả quên tên cũng não nuột như vậy. Đó là số phận chung của nghệ sĩ.
Mà trong các nghệ thuật, văn nghệ có phần bạc bẽo nhất. Tại các nước văn học rất thịnh, độc giả rất đông như nước Pháp, mỗi thời chỉ được dăm ba nhà văn nhờ cây viết mà phong lưu như Voltaire, Victor Hugo, Anatole France…, còn phần đông thì đủ ăn là may. Ở nước nhà, tình cảnh nhà văn tất nhiên còn hắc ám hơn nhiều. Nam Cao sống với một mảnh vườn trầu không; Trần Huyền Trân chui rúc trong một túp lều trên mặt hồ, ngày viết văn, tối đi chiếu phim cho một hãng hát bóng, Thâm Tâm phải đóng sách cho nhà Tân Dân để kiếm thêm tiền độ nhật; Thứ Khanh gia đình năm sáu người chen chúc nhau trong một chiếc ghe dài ba thước và có hồi lại phải ngủ nhờ ở vỉa hè; còn Vũ Trọng Phụng thì thốt một câu chua xót: “Người ta mà được ăn cơm thì sướng thật!”
Cơm không đủ ăn, nhà không đủ ở, áo không đủ mặc mà đau lòng nhất là có khi bị chính cha mẹ, vợ con, anh em khinh bỉ nữa.
Vì nghề bạc bẽo, nên đâu-đâu vào thời nào cũng thấy nổi lên những lời ta oán nó. Thi-nhân chịu nhiều nỗi đau khổ hơn cả, tỏ giọng uất hận nhất. Như Baudelaire nghiến răng nguyền rủa Trời đã sinh ông làm thi sĩ. J.Leiba muốn khiếp sau được làm tên kéo xe. Còn Hoàng Cảnh Nhân suốt đời cùng khốn, gần như cuồng, ngâm trong một đêm trừ tịch:
Nhữ bối hà tri ngô tự hối,
Uổng phao tâm sự tác thi nhân,
(Bọn trẻ biết đâu ta tự hối,
Uổng đem tâm trí để làm thơ)
Thi sĩ Paul Scarron nhắc lại nỗi khổ của mình trong những vần dưới đây mà ông bảo người thân khắc lên mộ-chí cho ông.
Celui qui y maintenant dort
Fit plus de pitié qu’ envie,
Et souffrit mille fois la mort
Avant que de perdre la vie.
Passant ne fais ici de bruit;
Garde bien que tu ne l’eveille
Car voice la première nuit
Que le pauvre Scarron sommeille
(Người đương ngủ ở đây đáng thương hại hơn là đáng ước ao và đã cả ngàn lần đau khổ tưởng tới chết, trước khi lìa cõi đời. Hỡi khách qua đường, đừng làm ồn ở đây; coi chừng kỹ đừng đánh thức người vì đây là đêm đầu tiên Scarron đáng thương hại được ngủ.)
Gần đây, Bình Hành, khi mắc một chứng nan y đã than thở trong bài “Tự sỉ”:
Trời đất nuôi ta có lẽ thừa,
Nên thời không thuận, vận không ưa.
Bất tài, thân thế đâm lơ láo,
Đa bệnh, nhân sinh hóa lọc lừa,
Duyên phận ra chi mà cố gượng,
Tâm tư còn chút cũng xin chừa,
Hỡi ơi, giường cột cho thê tử,
Một lũ trông vào, cay đắng chưa?
Oán thì oán, oán thậm tệ, mà số nhà văn giải nghệ cũng vẫn ít. Trong mấy trăm văn sĩ hồi tiền chiến, chỉ có dăm ba người quyết tâm gác bút như Trúc Đỳnh, Phùng Tất Đắc,[4] còn ngoài ra đều bị “một mối tơ tằm buộc chết”, như lời nói của Tản Đà.
Hạng người này hy sinh thân họ và và cả gia đình họ cho văn nghệ:
“Có bọn đi vay mượn để ra báo. Có người nhịn ăn nhịn ngủ để viết sách. Có người ca hát trong thanh bần và nước mắt để làm thơ. Có người cố quên cả anh em, họ hàng chết chóc để xây dựng kịch hát. Có người vượt cả gian lao, lặn lội về vùng tề để sống với dân chúng, lăm le nhặt nhạnh tài liệu để tạo nên những thiên phóng sự”[5]
Cố nhiên một số ham danh, nhưng danh vốn nhạt nhẽo, không đủ để làm quên cái thánh giá đeo trên vai. Tất còn lý do khác. Lý do đó, tôi đã chỉ trong cuốn Luyện văn, ấy là văn thơ có sức quyến dũ vô cùng. Có sống với nó mới mê nó, mà đã mê nó thì khó gỡ ra được. Như André Maurois đã nói: “Đối với một người đã chơi một canh bạc lớn thì sự rút lui về nghỉ ngơi đã là một điều gần như không chịu nổi. Người đó đã ghiền một thứ là hoạt động, không thể tẩy độc được nữa”.
Chú thích:
[1] “Người văn nghệ, anh đi đâu?” Mới – Số 57.
[2] Đặng-thai-Mai trích dịch trong cuốn Văn-học khái-luận (Liên-hiệp xuất-bản cục – 1950).
[3] Vũ Bằng dịch – Khảo về Tiểu thuyết – Phạm Văn Tươi.
[4] Gần đây họ Phùng lại viết lại rồi
[5] “Người văn nghệ, anh đi đâu?” của Vũ Bằng.
PHẦN THỨ NHỨT - Nghề viết văn hiện nay
CHƯƠNG I
Tiến >>
Đánh máy: Patimiha, mopie, minhf@yahoo, ganbunma, thao nguyen, chip_mars
Soát lỗi: vqsvietnam
Nguồn: Nhà in HỒNG LAM 32 Nguyễn Bỉnh Khiêm Saigon
TVE-4U.ORG
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 20 tháng 7 năm 2023