Chúa Trịnh Khải

nguyễn triệu-luật

CHƯƠNG I

án năm canh-tử

Cách đây hai-mươi-nhăm ba-mươi năm, quãng đất giữa những con đường Phố-Nhi (Rue Colomb), con đường Rollandes, sau phố hàng Lọng (Route Mandarine) có một cái hồ tục gọi là Hồ-Tây-Cú. Phía tây và phía bắc hồ, có hai khu đất hoang, không ra vườn, không ra bãi cỏ, đất mà chữ Pháp có tiếng gọi rất đúng là terrain vague (đất vu-vơ, không nhất định gọi là gì được). Hồi hai-nhăm năm trước đây, trứ-giả còn là một thằng bé lên mười tuổi, đã từng chơi đùa ở đó. Ở chỗ đầu đường Rollandes, chỗ đỗ ô-tô đi Nam-định, Hà-đông, có một cái ngõ đi thông ra phố hàng Lọng. Trong ba năm trời, từ lên bẩy đến lên mười, trứ-giả cùng gia-thần ở một gian nhà con trong cái ngõ ấy. Cái ngõ ấy cùng một cái ngõ nữa như hai cái trôn phễu thông hồ kia cùng hai khoang đất hoang kia ra phố hàng Lọng. Ban ngày — nhất là về sáng và chiều,— trẻ con ở trong hai ngõ chật hẹp đồ dồn cả ra quãng đất hoang kia chơi. Ở khoảng đất phía tây cái hồ, chỗ hai ngõ nối nhau, có khu đất gọi là « trường đấu gà ». Cứ mỗi sáng chiều, phường gà chọi đem gà đến đó, đọ nhau, kháo nhau, và đấu thử.

Một hôm, trứ-giả nghe thấy một người khen một con gà:

– Con Hoa-mơ này thì gà đấu Vĩnh-Võ xưa kia cũng không ăn đứt.

Hồi ấy, trứ-giả lấy óc măng-sữa đoán và hiểu thì hai tiếng «Vĩnh-Võ » nghĩa là khỏe-mạnh, sắc cựa ; không ngờ rằng hai chữ ấy có nguồn-gốc ở lịch-sử.

Vào khoảng trăm rưởi năm trước đây, cái hồ ấy là hồ riêng trong phủ-đệ Hân-quận-công Nguyễn Phương-Đĩnh, quan A-Bảo của con đầu lòng chúa Tĩnh-Đô-Vương Trịnh Sâm, tên là Trịnh-Khải; khoảng đất hẹn-hò của phường gà-đấu ấy chính là đấu-trường của hết thảy những gà-chọi khắp nơi kinh-kỳ.

Trăm sáu mươi năm trước đây [1], một hôm trời xuân ấm-áp cuối tháng giêng, ở bãi cỏ cạnh hồ Quang-Minh, trước nhà Đãi-Nguyệt-tạ, phường gà chọi họp đủ mặt. Từ Thiên-trường, ông Chiêu Trung-hòa cũng mang con gà « chiến tam anh » của ông lên đề khoe cựa, khoe mã cùng con gà « Nhất-dạ tứ-thắng » của lão cai Đình-bảng bên Kinh-bắc. Bọn gia-thần riêng của Vương-tử Khải, anh nào anh ấy cũng mang gà của mình ra. Những con gà ấy, phường gà gọi là « gà nhà chúa » Thế-Thọ ôm con gà « Độc-cước», đương vênh-váo khoe:

– Con « độc-cước » của tôi chỉ có một cựa thế mà đã từng bẻ gẫy hai cựa hàng trăm con rồi

Phiên-Thọ, vừa vuốt con « Ô-mã-nhi » vừa nói:

– Các bác có hiểu tại sao tôi gọi con này là Ô-mã-nhi không? Nó đen tuyền, thế là Ô-kê ; nó lại khỏe như Ô-mã-nhi.

Một người chủ gà nói:

– Cũng chẳng thấm vào đâu với con « Độc- Long» của Vĩnh-Võ, bõ của vương tử… A! mà hôm nay sao bõ ấy chưa mang gà ra hội-chiến?

Phiên-Thọ nói:

– Ông ta còn phải đi hầu vương-tử vào thăm chúa-thượng.

Một người nói:

– Hôm nay mới hai mươi mốt, đã đến ngày chầu đâu. Hôm nay là ngày chúng mình đem gà đến chầu vương-tử chứ có phải ngày vương-tử vào chầu chúa-thượng đâu. Mỗi tháng vương-tử chỉ được vào trông mặt chúa-thượng có hai lần, vào ngày mồng một với ngày rằm thôi mà.

Phiên-Thọ nói:

– Chúa Thượng mấy hôm nay hình như mệt nặng. Sáng hôm nay vương-tử mới biết tin nên vội vào vấn an.

– Thế bao giờ người về? Bây giờ đã quá giữa giờ tị, gần đến giờ ngọ rồi. Mọi phiên họp gà, đầu tị đã bắt đầu rồi.

– Người đi cùng quan A-Bảo, nói là độ cuối thìn thì về.

Vĩnh-Võ, giữa lúc ấy ngoài chạy vào. Mọi người đổ xô ra hỏi:

– Vương-tử về chưa?

Vĩnh-Võ nói:

– Vương-tử sắp về. Ngài có lệnh truyền cho tôi về nói trước rằng cuộc đấu-gà hôm nay bãi. Thôi! các ông đi về, để đến phiên sau.

Mọi người thất-vọng ôm gà ra về.

Đi đường họ kháo chuyện cùng nhau:

— Chúa-thượng mê-man vô-lý quá. Vương-tử năm nay 18 tuổi rồi mà không dựng làm thế-tử, còn chờ đến bao giờ?

– Ứ ừ! ngôi thế-tử, chúa-thượng phải để dành cho con Bà Chúa Chè chứ!

– Bằng đầu bằng cổ còn chẳng chắc nữa là đứa bé mới lên bốn! Vô lý nhất là chúa-thượng mê-man Bà Chúa Chè đến nỗi con đẻ rứt ruột ra mà đuổi ra ngoài phủ, bắt ở với quan A-Bảo, mỗi tháng chỉ cho trông mặt có hai lần. Làm con chúa mà vào phủ phải sợ-sệt lén-lút như người dưng nước lã.

– Mấy hôm nay nghe như nhà Chúa làm sao đây. Vương-tử bỏ phiên chọi gà, muốn chừng lại có việc gì lôi-thôi. Mấy hôm nay thấy Vĩnh-Võ ra chừng nhiều công việc lắm.

– Tên mới tuổi rõ hay! Vĩnh-Võ!

– Thế ông không rõ à? Ông ta là bõ [2] của vương-tử. Vuơng-tử khi bé hay bĩnh [3] bậy. Nên trong phủ, nguyên-phi đặt tên cho là Bĩnh. Bõ Bĩnh nói lái lại là Vĩnh-Võ. Vương-tử yêu hắn lắm đó. Vì thế nên mới cho chăn nuôi con gà « độc-long ».

– Tức quá! thế nào ta cũng giết thằng Quận Huy cùng con đĩ làng Phù-Đổng mới hả giận.

Vương-tử Khải vừa vùng-vằng vừa nói. Kẻ hầu đầy tớ, thẩy đều im thin-thít, không ai dám dàn mặt. Vương-tử đi-đi lại-lại trong nhà đến mấy chục lượt, gặp cái gì vướng tay, vướng chân, vướng mắt thì xô đẩy đập phá.

Bữa cơm chiều gần tới rồi, mà Dự-Võ, tên thiện-phu [4], sợ quá, không dám lên bẩm nữa. Lũ người nhà đầy-tớ bàn cùng nhau:

– Chắc ngài có việc gì bực-tức sáng nay. Làm thế nào cho ngài nguôi giận để đi xơi cơm bây giờ?

– Đi tìm thày nho Đàm-xuân-Thụ. Chỉ có thày-đồ ấy là dẹp nổi cơn thịnh-nộ của đức-ông thôi.

Một lúc sau, Đàm Xuân-Thụ đến. Khi đó, Khải vùng-vằng quát-tháo đã mệt, ngồi lặng im, ngả lưng vào chiếc trường-kỷ, mặt trước đỏ như gấc, bây giờ tím lại. Xuân-Thụ lên thềm vái chào rồi hỏi:

– Vương-tử hôm nay có điều gì thất-ý?

Khải khẽ chỉ cái đôn sứ bên cạnh bảo Xuân-Thụ ngồi:

– Sáng nay nghe tin vương-phụ mệt, ta vội cùng quan A-Bảo vào vấn-an. Tới cửa Nội-cung, bọn quân Trung-Duệ ngăn lại không cho vào. Ta mắng chúng nó thì chúng nó nói:

“ Có thượng-lệnh truyền không cho ai được vào nội-cung cả.

“ Tao cũng không vào được?

“ Vương-tử tha tội cho. Quan cứ lệnh, lính cứ truyền, chúng con không dám trái thượng-lệnh.

“ Mày gọi thằng nào sai mày ra đây tao bảo. ”

Chúng vào gọi một tên biện-lại đội quân Trung-Duệ ra. Tên này trông mặt cũng có vẻ ngang-nhiên tự-đắc lắm. Nó lên tiếng trước:

“ Vương-tử ban quở gì tiểu-tốt vậy?

“ Lệnh nào lại có lệnh cấm cả tao không được vào trong nội-cung?

“ Dạ, lệnh của vương-thượng. Vương-thượng truyền rằng không cho ai vào cả, nếu sai thì đã có quân-pháp.

“ Lệnh không trừ một ai?

“ Dạ có, trừ Quốc-sư cùng quan Quận Huy. Còn ngoại-giả, cấm hết.

“ Cấm cả tao?

“Tiểu-tốt nào dám cấm vương-tử, ngặt vì quân-pháp nghiêm”

Sợ ta nóng quá thất thố gì chăng, quan A-Bảo phải đỡ lời:

“ Nếu thượng-lệnh đã vậy thì chú chuyển lời vào cùng chúa-thượng rằng có vương-trưởng-tử cùng A-Bảo Hân-quận-công xin vào vấn-an. Chúng ta chờ ở đây. ”

Tên biện-lại vào một lúc rồi ra nói rằng:

“ Chúa-thượng hiện đương mệt, xin hai ngài về.”

Trông nét mặt thằng ấy, ta biết thừa là nó nói láo chứ nó chẳng chuyển lời gì cả. Tức quá, ta xông đến toan đánh thì nó công-nhiên ra ý cự lại ta. Quan A-Bảo vội gạt ta ra:

“ Thôi, vương-tử cứ về. Để tôi ở lại liệu cách vào bạch cùng vương-thượng.”

Ta quay về còn nghe thấy tiếng nói đổng trên chòi cổng: “ Ông to thật, nhưng còn có người to hơn ông!”

Nén giận ta phải về. Giận làm gì những đứa tiểu-tốt ấy. Chúng nó sở dĩ hỗn là vi thằng Quận Huy!

Đàm Xuân-Thụ nghe hết câu chuyện, thung-dung bảo Khải:

– Quan A-Bảo xử thế là phải. Vương-tử nén giận là phải. Hiện giờ vương-tử đương bị vương-thượng ghét bỏ, làm quá thì chỉ súc-nộ thêm vương-thượng, trước là trái đạo làm con, sau là làm cho quân tiểu-nhân thêm đường dèm-pha có hại. Vương-tử nên ẩn-nhẫn đi là hơn.

Khải cúi đầu nghĩ một lúc rồi đáp:

– Ngươi nói chí phải… Nhưng ta sợ một điều… Ta sợ lắm… Đêm qua ta nằm thấy một giấc mộng hơi dữ.

– Thưa, mộng ra sao?

Khải lại cúi đầu xuống ngập-ngừng không muốn nói. Lúc ngửng lên, Xuân-Thụ trông thấy khóe mắt Khải hơi ướt, hai giọt lệ vừa ở mắt trào ra.

Giữa lúc ấy, tên thiện-phu bưng mâm lên, Khải ngoảnh mặt đi để che nét mặt buồn:

– Mày lấy thêm bát đũa. Thầy nho ở đây uống với ta chén rượu.

Lừa lúc tên thiện-phu xuống thềm, Đàm Xuân-Thụ sẽ nói với Khải:

– Lát nữa, xin vương-tử đuổi hết tả hữu. Tôi nghe như có chuyện quan-trọng.

Khi ngồi vào mâm, Xuân-Thụ bảo thiện-phu:

– Cậu cất rượu đi. Hôm nay vuơng-tử có điều bực mình, không nên uống rượu.

Khi tên thiện-phu đi khỏi, Xuân-Thụ nói khẽ với Khải:

– Xin bỏ rượu để tâm-thần được bình-tĩnh.

Suốt bữa, hai người không nói gì.

Sau khi triệt mâm và đuổi tả hữu lui cả, Xuân-Thụ mới hỏi Khải:

– Vương-tử mộng làm sao?

– Ta mộng thấy: mình mặc áo quì-sắc, đầu chít khăn chữ đinh, đứng ở giữa phủ-đường khăn áo đại-tang, ta e rằng vương-phụ…

– Tôi cũng nghe dân-gian ngoài đồn-đại rằng có lẽ chúa-thượng qua rồi, Huy-quận cùng Đặng-thị cấm không cho ai ra vào để làm chuyện thoán-đoạt. Song cứ ý tôi…

– Thì sao?

– Thì chúa-thượng cũng chưa mệnh-hệ nào. Có điều rằng mình cũng nên sắp-đặt sẵn-sàng đi. Rồi một mai có biến thì lũ loạn thần không thể làm gì được. Nếu đợi đến lúc đại-sự xẩy ra thì trở tay không kịp. Mà ở tình-thế này, thấp cơ một chút là tính-mệnh cũng không toàn chứ đừng nói đến địa-vị. Cứ riêng ý tiểu-thần thì một mặt nên tìm cách thông với quân Tam-Phủ. Ngày kia có việc thì đóng cửa phủ lại giết Huy-quận, giam Đặng-thị lại. Một mặt cho người báo với hai trấn Kinh-Bắc, Sơn-Tây đem quân hai trấn vào thì ngôi cao mới về vương-tử được. Vương-tử nghĩ thế nào?

Khải nói:

– Đại khái thì như thế, nhưng chi-tiết ra làm sao?

– Mỗi việc xin vương-tử giao cho một người. Việc kết-nạp với dũng-sĩ Tam-phủ, xin giao cho nội-thị Chu Xuân-Hán. Việc thông trong nội-cung, xin giao cho thái-giám Khê Trung-Hầu. Việc âm kết với trấn Kinh-Bắc, xin giao cho điển-thư [5] Hà Như-Sơn. Việc âm-kết với trấn Sơn-tây, xin giao cho tiểu-thần.

Quan Đốc-đồng trấn Kinh-Bắc Ngô Thì-Nhậm mấy hôm nay không sang dinh quan Trấn-thủ làm việc vì ông thân-sinh ra ông, quan Bốc-thị Lạng-Sơn Ngô Thì-Sĩ về thăm quề nhà, nghỉ lại Kinh-Bắc chơi với con.

Một buoi chiều, sau tiệc nước, ông nói với cha:

– Con được gặp thầy vừa gặp dịp. Con có một việc không biết nghĩ nên thế nào. Con toan bẩm thầy đã mấy hôm mà cứ lưỡng-lự mãi.

– Việc công hay việc tư?

– Việc công. Việc quân-quốc trọng-sự. Vương-tử Tông [6] mưu-đồ việc bất-quỹ [7] cùng bọn tiểu-nhân trong cung, lại âm-kết-đảng với hai trấn Tây Bắc. Không lẽ để vương-tử làm bậy, mà nói ra…

– Cứ thầy xem thì việc ấy cũng là vương-tử thế bất-đắc-dĩ. Chúa-thượng mê-hoặc muốn bỏ trưởng dựng thứ. Vương-tử sợ sau này Quận-Huy cậy có binh-quyền trong tay mà làm càn thì vương-tử dự-bị sẵn từ bây giờ cũng là phải.

– Thầy chưa biết rõ. Vương-tử đã sắp-đặt đâu đấy cả rồi, chỉ chờ ngày khởi-sự nữa thôi. Hiện nay chúa-thượng hãy còn sờ sờ ra đó mà vương-tử định làm loạn thì còn ra thế nào.

– Sao con biết rõ?

– Tên học-trò con là Hà Như-Sơn hiện làm điển-thư cho vương-tử. Hắn phụng-mệnh vương-tử sang đây nói với quan tổng-trấn và hiện đã cho người lên Lạng-Sơn mua ngựa, sắm khí-giới. Ý vương-tử định: Thông nhau với quân Tam-Phủ đóng cửa cung lại, giết quan Trưởng-phủ [8] và Đặng-thị rồi gọi binh hai trấn về ủng-hộ để cướp lấy ngôi. Như thế là làm loạn chứ không phải là phòng thân nữa.

– Thế ý con định sao?

– Ý con định rằng: vương-tử định làm loạn thì con phải ngăn việc vương-tử lại.

– Con ngăn ra sao?

– Con về kinh lấy lẽ phải trái nói với vương-tử. Đó cũng là phận-sự của con vì con là tư-giảng của vương-tử. Nếu vương-tử nghe kẻ tiểu-nhân mà không nghe con thì con phải khải cùng chúa-thượng rõ.

Ngô Thì-Sĩ vội gạt:

– Điều ấy không được. Con mà tố-cáo chuyện này thì có liên-lụy đến vương-tử và quan tổng-trấn đấy. Quan tổng-trấn đây là bạn với ta, cũng như ta. Điều ấy không được.

– Con chịu ơn tri-ngộ của chúa-thượng, không thể để yên việc này được.

Biết rằng có can con nữa cũng vô-ích ông nói:

– Để mai ta về kinh đô xem thực hư thế nào rồi khi ta lên trấn rẽ vào báo tin cho con biết.

– Mai con cũng về kinh cùng thầy.

Đêm hôm ấy, hai cha con cùng trằn-trọc mỗi người băn-khoăn về một ý-nghĩ riêng.

Dưới ngọn đèn dầu lạc, ông giở tập thơ văn cổ ra xem. Cầm sách xem thơ, chẳng qua là theo thói quen mà thôi, chứ thật ra ông còn bận lòng vì lời nói của con ông ban chiều. Ông vốn biết con ông là người quyết-đoán và xử-sự rất rành-mạch, có khi nhẫn-tâm nữa. Con ông đã nói như thế thì tất việc biết rõ lắm rồi, mà cũng có thật như thế chứ chẳng sai. Nếu hắn tố-cáo thì bao nhiêu người chết. Ông áng chừng cũng biết qua loa ai là đảng với Khải, nên ngồi nghĩ nhẩm lại ông thấy toàn bạn thân của ông cả. Chết nỗi! như thế thì ra con ông nhẫn-tâm giết toàn người phụ-chấp của hắn cả. Giời ơi! nếu quả việc xẩy ra thì ta cũng không mặt mũi nào sống ở dương-gian nữa. Để cho con giết bạn mà không cứu được, còn nhục nào hơn nữa. Ông hồi tưởng lại ba mươi tư năm trước, năm ông mới hai mươi nhăm mà Thì-Nhậm, con đầu lòng ông, mới lên năm. Tết Nguyên-đán năm ấy, sáng ông đem giấy bút ra khai-bút và gọi con ông ra:

– Nào, thằng này năm nay lên năm rồi. Thầy đặt tên cho mà khai-bút.

Cậu con hóm-hỉnh hỏi:

– Thế tên thầy là gì?

– Để thầy khai-bút trước, thầy viết cho coi.

Rồi cầm bút viết hai dòng khai-bút:

Hoàng-Triều Cảnh-Hưng vạn vạn niên

chi thập-nhất, tuế thứ Canh-Ngọ chính-

nguyệt, Nguyên-Đán, cát thì thí bút.

Tả-Thanh-Uy, Ngọ-Phong Ngô Thì-Sĩ

Ông chỉ vào chữ « Sĩ » mà bảo con:

– Đây, tên thầy đây.

Cậu bé cầm bút phẩy thêm một nét trên chữ Sĩ, thành chữ « Nhậm » rồi nói:

– Hơn thầy một nét!

Nhân tiện ông đặt tên là Thì-Nhậm [9].

Ông vẫn mừng rằng có con thông-minh và với ai cũng khoe rằng con ông tự đặt tên lấy.

Ông lại nhớ rằng riêng có Ngô Tưởng-Đạo, em ông, là chê con ông: « Thằng ấy thông-minh tuấn-tú thật nhưng tôi xem tâm-thuật nó không đáng quý lắm. Tự nó đặt tên nó là nhậm mà nhậm-nhân thì chỉ là đứa nịnh mà thôi. Nó lại tự-phụ đặt tên chữ là Hi-Doãn nghĩa là nó muốn bắt chước ông Y-Doãn.................................. [10] Cái đạo «...................................... » của Y-Doãn thì nó không làm nổi rồi. Em e rằng bắt chước vị «................. » không nên thân thì thành con người sớm Tần tối Sở đó ».

Ừ mà có lẽ. Bây giờ vây cánh Đặng-thị cùng Huy-quận to, thằng này thao-thủ [11] bất-nhân, dễ thường mà nó tố-giác thật.

Sáng ông dậy từ canh tư. Trong khi đợi sáng, buồn, ông ra văn-phòng con xem có sách gì hay không. Ông thoáng thấy dưới chiếc lư trầm có hở ra một góc chiếc thư. Tò-mò ông lôi ra thì là thư ai gửi cho con ông. Thấy dáng chữ lạ, ông rút thư ra xem:

« Kinh-Bắc Đốc-Đồng Hi-Doãn nhân-ông văn kỷ:

« Công việc mười phần tôi chỉ rõ qua-loa một hai. Mong rằng nhân-huynh sớm về kinh, ta sẽ bàn-định rõ.

« Đệ: Nguyễn Huy-Bá bái ».

Đọc xong thư ông toát mồ-hôi.

«Thôi chết! giao-thiệp với thằng tiểu- nhân này thì chết! Thằng này nó chỉ lấy nghề dò-la tố-giác làm cách xuất-thân. Năm xưa nó tố-giác Thụy Quận-Công rồi đương là anh cống-sinh nhẩy lên Tiến-Triều. Sau được bổ lên Đốc-Đồng Ninh-Sóc rồi vì tham-tang phải triệt về. Nay nó đương cần xuất-chính, thế nào nó cũng cần làm hại người. Con ta di với thằng này thì thật là điếm-nhục tổ-tông.»

Sáng hôm sau ông bảo Ngô Thì-Nhậm:

– Thầy nói thật: nếu con phát-giác chuyện này thì thầy uống thuốc độc chết chứ không sống làm gì nữa! Vương-tử là quân-phụ con. Quan Trấn-Thủ đây là phụ-chấp con. Nếu con giết thày được thì cứ việc làm.

– Nào con đã làm gi! Nếu con thao-thủ như thế thì can-chi phải trình với thày. Thày nên im đi như không. Nếu thày làm to chuyện ra thì có khi vì thế mà vỡ chuyện. Việc này đã chắc gì là có. Mà dù có nữa thì con cũng mặc.

– Hôm qua con nói hôm nay cũng về kinh. Con về để vào đảng Đặng-thị chăng?

– Không, con về để can vương-tử. Nếu thày ngờ thì con không về nữa. Nhưng điều cần hơn hết là thày cứ tự-nhiên.

Hôm ấy Ngô Thì-Sĩ sang Kinh để về Tả-Thanh-Oai. Ông đi được nửa ngày thì Ngô Thì-Nhậm cũng thắng ngựa về kinh. Tang-tảng sáng hôm sau Thì-Nhậm lại sang Kinh-Bắc vào hầu quan Trấn-Thủ Nguyễn Khắc-Tuân thật sớm:

– Tiểu-sinh phải tiễn gia-nghiêm về kinh nên hôm nay mới sang hầu được.

Khắc-Tuân hỏi khẽ:

– Thế nào? việc trong kinh ra làm sao?

– Thưa vẫn yên-lặng như thường.

Hôm trước, ở Súy-Phủ [12] trong Thủy-Tinh-Cung, quân nội-thị đương sắp-sửa lễ-vật để làm tết Trùng-Cửu. Tĩnh-Vương [13] đương nằm nghe khải do Tuyên-Phi [14] đọc. Đọc hết bản-khải, Tuyên-Phi khóc. Tĩnh-Vương hỏi:

– Khanh có điều gì buồn?

– Thiếp không có điều gì buồn cả. Chỉ buồn cho chúa-thượng có người con không ra gì. Nói ra thì thiếp mang tiếng là xui bẩy mà không nói ra…

Nói tới đó, Tuyên-Phi lại khóc. Một lúc mới nói tiếp:

– Địa-vị sau này của thế-tử cả. Nhưng cha còn sống, thế-tử nỡ lòng nào làm cái việc Sở-Mục-Vương, Tùy Dương-Quảng [15].

Tĩnh-Vương ngồi nhỏm dậy hỏi:

– Làm sao? Thằng con bất-hiếu ấy định giết bố à?

– Thiếp không dám nói. Xin cho hai người hiện đứng dưới trướng lên hầu.

Tuyên-Phi sẽ liếc mắt cho nội-thị. Nguyễn Huy-Bá và Ngô Thì-Nhậm tiến lên dập đầu làm lễ. Tĩnh-Vương hỏi Ngô Thì-Nhậm trước:

– Việc đầu đuôi thế nào?

– Vương-tử ở ngoài không được vào hầu, nghe chúng đồn nhảm, cho là chúa-thượng thùy-nguy. Vương-tử sợ mất ngôi cao, định tư-thông với quân lính trong phủ, chờ đến ngày chúa-thượng khuất núi, cho quân đóng cửa phủ lại, giết quan Trưởng-Phủ, bắt giam Tuyên-Phi rồi cướp ngôi cao. Lại mật-thông Tây Bắc hai trấn đem quân về ủng-hộ,

Tĩnh-Vương quăng chén nước đương cầm ở tay xuống đất:

– Ta chưa chết mà nó đã mong ta chết. Quân bất-hiếu. Sao ngươi rõ?

– Bẩm tên Hà Như-Sơn là học-trò tiểu-thần hiện làm điển-thư cho vương-tử nói.

Tĩnh-Vương lại hỏi Huy-Bá:

– Còn ngươi? Ngươi biết những gì?

– Vương-tử đưa cho nội-thị Chu Xuân-Hán nghìn lạng bạc để dụ quân-sĩ trong phủ và mua chuộc quân Tam-Phủ. Thần biết rằng trong nước phân bè-đảng đã lâu nên đã liệu trước mà cho người nhà sang Kinh-Bắc Sơn-Tây dò trước. Nàng dâu trưởng của thần, hiện hầu Lệnh-Bà, một hôm nghe thấy Chu Xuân-Hán cùng Khê Trung-hầu nói lóng với nhau.

– Ngươi có nhớ không?

– Thưa có. Một hôm Chu Xuân-Hán gặp Khê-Trung-hầu ở cạnh Tiểu-Bút-Điếm, Hán nói: «Hồ Cừu mông nhung, nhất quốc tam công, Ngô thùy thích tòng » [16].

Tĩnh-vương nói:

– Chúng nó muốn làm loạn chứ có theo ai!

Huy-Bá nói tiếp:

– Lại một hôm, tiểu-thần thấy một đám đông ngồi tụ nhau ở cửa ô Trường Bắn, họ túm lại nghe một đứa ngồi ở giữa hát:

Đục cùn thì giữ lấy tông,

Đục long cán gẫy còn mong nỗi gì.

Rồi một đứa đứng dậy hỏi mọi người rồi lại tự đáp: Các bác có hiểu thế là nghĩa thế nào không? Thế nghĩa là: Hiện giờ chúa-thượng già rồi. (Đục cùn rồi), thì ta nên giữ ngôi cho vương-tử Tông. Nữa một mai chúa-thượng khuất núi, ông chúa con Cán quặt-quà quặt-quẹo thì quốc-gia còn trông mong nỗi gì nữa! Rồi cả bọn đứng lên cười ha-hả. Thằng kia lại nói: Xong đâu đấy cả rồi, trong tháng chín thì họ giết thằng Tốt-Áo [17] cùng cô gái hái Chè [18]

Tĩnh-Vương nói:

– Thôi, thế là đủ. Cho hai ngươi lui.

Hai người lui xong, Tĩnh-Vương tức-khắc cho gọi Huy Quận-Công Hoàng Đình-Bảo. Đình-Bảo đương ở nhà thấy lệnh-chỉ đòi vào phủ lúc gần tối, biết là có câu chuyện quan-trọng liền lên ngựa vào phủ ngay.

Tĩnh-Vương đem đầu đuôi câu chuyện nói cho Đình-Bảo nghe.

Huy Quận-Công Hoàng Đình-Bảo nghe Tĩnh-vương nói dứt lời rồi tâu:

– Thần biết rõ việc này đã mấy hôm nay. Sở-dĩ chưa nói là không muốn làm phiền lòng chúa-thượng. Thần định êm-đềm ngăn chuyện ấy đi. Đợi ngày chúa-thượng thật bình-phục, nhiên liệu sẽ khải.

– Ta muốn ngay sáng mai cho bắt cả lũ loạn thần tặc-tử ấy chém hết.

– Không nên. Cứ thần nghĩ thì vương-tử dám mưu-đồ chuyện ấy là do hai trấn Kinh-Bắc, Sơn-Tây chủ-trương. Nay hai người ủng-binh ở ngoài cả. Phỏng chúa-thượng làm vỡ chuyện ra thì thần e có biến to. Cứ thần thiết-nghĩ thì trước hết hãy triệu hai người ấy về triều giữ lỏng lại, cho tiệt hậu-họa, nhiên hậu mới tra án phân-minh mà trị tội.

Tuân Sinh-Hầu Nguyễn Khắc-Tuân được lệnh-chỉ triệu về kinh, cùng về với Đốc-Đồng Ngô Thì-Nhậm. Đến kinh, thoạt-tiên ông vào thăm cha nuôi, Hân Quận-Công Nguyễn Phương-Đĩnh và nhân-tiện yết-kiến vương-tử Khải. Đến cửa phủ-đệ Hân-Quận-Công, thấy có lính phủ Trung-Duệ gác, ông giật mình biết là việc lộ. Trên chòi cổng phủ-đệ, một tên biện-lại quân Trung-Duệ bảo ông bằng cái giọng nửa cung-kính nửa chế-nhạo:

– Quan-lớn muốn đến yết-kiến vương-tử à? Người vừa nhập-các hôm nọ xong. Quan-lớn muốn thăm quan-cố à? Người vừa nhập-phủ hôm qua. Quan-lớn nhập-phủ thì thấy cả đôi.

«Xuất-các » là chữ dùng để chỉ ông thế-tử mới được dựng. « Nhập-phủ » là chữ chỉ ông quan mới được vào làm chính-phủ đại-thần. Nghe mấy tiếng lộng-ngữ nhập-các nhập-phủ, ông đã hiểu rõ tình-thế rồi. Phen này thì nhập-âm-phủ nữa cũng có. Ông quay lại bảo Ngô Thì-Nhậm:

– Dù sao thì ta cũng xin nhập-thị để diện-khải cùng chúa-thượng đã. Ông chắc đã diện-khải trước tôi.

Thì-Nhậm cúi đầu không nói gì.

Hai người cùng đi vào Súy-Phủ. Đến Tả-Xuyên-Đường, đã thấy quan Trấn-thủ Sơn-tây, Hồng-Lĩnh-hầu Nguyễn-Ly [19] đương đợi tội-tình ở đó. Nguyễn-Ly nói:

– Ông đã rõ chưa? Vương-tử, Chu Xuân-Hán, Đàm Xuân-Thụ và đồ-đảng người thì bị bắt giam trong ngục, người thì bị giảm lỏng cả rồi. Tôi đành ở đây chờ chết thôi.

– Để tôi vào diện-khải đã rồi có chết cũng cam tâm.

Khắc-Tuân vào đến Quyển-Bồng-Điếm, xin vào nhập-thị. Vì ông là em thái-phi, cậu ruột Tĩnh-Vương nên quân lính phải vào bẩm mệnh. Ông chờ ở Quyển-Bồng-Điếm một lúc thì thấy nội-thị Quyến-Trung-Hầu, ra:

– Thế nào? chúa-thượng có cho tôi vào không?

– Chúa-thượng sai tôi ra nói với ông rằng. Chúa-thượng bắt tôi cứ nói đúng như lời ngài nói, tôi xin cứ thuật ra:« Cậu cùng thằng giặc Tông mưu việc bạn-nghịch, còn mặt mũi nào trông thấy tôi nữa!».

Tuân-Sinh-hầu cúi đầu đi ra. Ra đến Tiểu-Bút-điếm gặp Nguyễn-Ly và Ngô Thì-Nhậm. Nguyễn-Ly cùng Tuân-Sinh-hầu nhờ Thì-Nhậm làm khải hộ để kêu oan. Thì-Nhậm chối-từ. Tuân-Sinh-hầu nói:

– Ông đã tố-giác thế-tử thì ít ra ông cũng phải làm khải nói rõ-ràng sự thật, không được vu-khống gì cả.

– Tiểu-Sinh có vu-khống điều gi! Tiểu-Sinh chỉ làm trọn đạo thần-tử thôi.

Hai người buồn rầu trở ra.

Cuộc thẩm-vấn tra-cứu bắt đầu tiến-hành dưới quyền quan Thái-Giám Ngạn-Triều-hầu Phạm-Huy-Thức và quan Nghè Ngô Thì-Nhậm. Bị bắt giam tất cả hơn trăm người. Trong số đó có:

– Vương-trưởng-tử Trịnh Tông,

– Kinh-Bắc Trấn-Thủ, Tuân-Sinh-hầu Nguyễn-Khắc-Tuân,

– Sơn-Tây Trấn-Thủ, Hồng-Lĩnh-hầu Nguyễn-Ly,

– Nội-thị: Chu Xuân-Hán, Khê-Trung-hầu

– Nho-Sinh: Đàm Xuân-Thụ, Nguyễn Quốc-Trấn.

Cùng bọn gia-thần nhà vương-tử là lũ: Hà-Như-Sơn, Thế-Thọ, Phiên-Thọ, Vĩnh-Võ.

Tuy rằng theo lệnh-chỉ thì Phạm-Huy-Thức đứng đầu, song công việc nhất-nhất ở Ngô Thì-Nhậm cả.

Bị tra-tấn nhiều nhất là nho-sinh Đàm Xuân-Thụ. Phần nhiều nhận cả, nhưng chỉ nhận là có vào đảng với vương-tử để phù-lập vương-tử sau này, phòng những việc thoán-đoạt của Huy-quận, Tuyên-Phi và vương-tử Cán. Không những họ nhận, họ lại còn lấy làm phải nữa, vì họ cho như thế là giữ vững cơ-nghiệp nhà Trịnh và tắt mối loạn xã-tắc. Nhưng nhận như thế, chưa vừa ý Ngô Thì-Nhậm. Dưới đây thuật lại một đoạn bản khẩu cung của nho-sinh Nguyễn Quốc-Trấn, điển-thư của Nguyễn-Khắc-Tuân, trấn-thủ Kinh-Bắc. Phần «vấn» là lời Ngô Thì-Nhậm, phấn «đáp» là lời Nguyễn-Quốc-Trấn.

Vấn — Có phải hôm mười sáu tháng tám, quan Trấn-Thủ sai anh về kinh đến thăm vương-tử và nói với vương-tử xin vương-tử cho biết ngày khởi-sự không?

Đáp — Có. Tôi có phụng-mệnh quan Trấn-thủ về kinh, có đến hầu vương-tử nhưng không có chuyện xin vương-tử cho biết ngày khởi-sự.

Vấn — Thế quan Trấn-thủ dặn anh nói gì với vương-tử.

Đáp — Rằng: quan Trấn-thủ xin hết lòng phò-tá, ủng-hộ, một mai đại-sự đến. Xin đại-nhân nhận kỹ: một mai đại-sự đến nghĩa là một mai vương-thượng băng-tồ thì chủ tôi xin mang quân về ủng-hộ để chống với sự làm loạn của bọn Hoàng-Đình-Bảo. Còn như định ngày khởi-sự thì không có.

Vấn — Chúng mày láo! chúng mày định làm loạn để cướp ngôi, láo gì?

Đáp— Chúng tôi cho rằng: nước có vua lớn là phúc cho nước, mà bỏ trưởng lập thứ là mầm diệt vong. Vì muốn cho xã-tắc không loạn, muốn giữ cơ-nghiệp vương-gia trường- cửu, chúng tôi mới phải củ-hợp cùng nhau. Như thế là mưu việc an-nguy của xã-tắc, sao gọi là làm loạn được? Đại-nhân định vu cho chúng tôi làm cái việc của Sở Thương-Thần [20] để làm ô-nhục chúng tôi với hậu-thế, nhưng công-luận còn đó, trong sử xanh sau này chưa biết ai là loạn-thần tặc-tử! Tôi chịu bẩy hình tấn rồi. Thân này đem bầm nát ra được, nhưng lòng này không ai đoạt được đâu!

......

Ngày rằm tháng chín năm Canh-Tử, niên-hiệu Lê Cảnh-Hưng thứ 41 ở Tiểu-Bút-Điếm, các quan đứng chực giờ vào hầu Tĩnh-Vương. Quan Tham-Tụng Vũ Miên hỏi riêng quan Bồi-Tụng Bùi-Huy-Bích.

– Làm sao Ngô Thì-Nhậm đương phụng-lệnh tra-cứu việc này lại hốt-nhiên thôi!

– Quan-Lớn không rõ à? Cha hắn phẫn uất vì hắn tố-giác, uống thuốc độc chết. Hắn phải bỏ chức về quê đinh-gian [21]. Quan- Lớn làm tướng [22] mà không biết?

– Bấy lâu tôi yếu nên có vào coi việc trong phủ được mấy đâu. Vả chăng công-việc của những đứa tiểu-nhân, tôi có biết làm gì! Lê-Quí-Đôn thay hắn, phải không?

– Phải

– Phải lắm, thay việc nghè Nhậm dễ cũng chỉ có Bảng Đôn đủ tâm-địa…

– Việc này còn có cái trò hay nữa.

– Trò gì?

– Nghè Nhậm hãm bố, bạn bố vào chỗ chết để cầu quan ; nghè Tế [23] cho bắt, tra-cứu, hành-hạ và hãm-tội rể để hiến-nịnh.

Tới đó, một tên Nội-thị ở trong phủ ra nói:

– Vương thượng truyền các quan vào nhập-thị trong Thủy-tinh-cung.

Lần-lượt mọi người vào Thủy-tinh-Cung. Tới nơi mọi người đã thấy quan Trưởng-Phủ-Sự Huy-quận-Công Hoàng Đình-Bảo đứng trước Ngự-Sàng. Tĩnh-Vương nói:

– Quả-nhân bất-hạnh gặp thằng con bất-hiếu, lũ bầy tôi bất-trung cùng nhau mưu việc phản-nghịch. Chúng thật bụng dạ như chó lợn. May nhờ hồng-phúc Tiên-Vương, mưu chúng bại-lộ. Quả-nhân đã giao cho Thái-Giám Ngạn-triều-hầu Phạm Huy-Thức cùng Tình-Phái-hầu Lê Quí-Đôn tra xét. Nay án đã thành, những đứa thủ-mưu đã chịu tội, nhưng dư-dảng chắc còn nhiều, chư-khanh nên để-tâm dò dần mà trị cho tiệt-căn.

...

Kết-quả án năm ấy:

– Vương-tử Tông bị piam trong Tam-Nhàn-Đường.

– Nguyễn-Khắc-Tuân, Chu Xuân Hán uống thuốc độc chết trong ngục.

– Ngoài ra bị chém hơn hai chục người, còn đầy lên viễn-châu hơn trăm người.

– Ngô Thì-Nhậm thăng Binh Bộ Tả-thị-Lang.

– Dương Trọng-Tế thăng Thiêm-Đô Ngự-Sử.

– Nguyễn Huy-Bá đặc-cách bổ Lại-Bộ Đô-Cấp-Sự-Trung, nhập-nội Thiêm-Sai.

Lúc hành-hình, Nguyễn Quốc-Trấn chửi mắng Ngô Thì-Nhậm và Lê Quí-Đôn thậm-tệ. Đao phủ thủ đã múa gươm rồi, Quốc Trấn còn đọc hai câu thơ:

Thiên vô nhật, triều vô quan

Nhẫn xử Quốc Trấn hàm oan

Nửa tháng sau, trong kinh-thành truyền tụng đôi câu đối mới:

Sát tứ phụ nhi Thị Lang! Trung yên vấn hiếu?

(Giết bốn bố làm Thị-Lang! Trung rồi ; còn hiếu?)

Cứu nhất tế nhi Ngự Sử, công nhỉ, vương tư

(Hại một rể làm Ngự-Sử! công nhỉ: quên tư!)

Các ông đồ thóc mách hỏi nhau:

– Thế nào là giết bốn bố?

– Vương-tử Khải là quân-phụ thế là một bố ; Ngô Thì-Sĩ đẻ rứt ruột ra là hai bố ; Chu Xuân-Hán, Nguyễn Khắc-Tuân, tuổi bằng tuổi bố lại bạn với bố hắn, thế là bốn bố!

– Giá thằng Ngô Thì-Nhậm và thằng Dương Trọng-Tế ở chung nhà thì câu đối này dán ở cổng hay biết mấy!

Chú thích:

[1] Năm Cảnh-Hưng 41, Canh-tí (1780)

[2] Chồng của vú em, tiếng bắc gọi là bõ.

[3] Trẻ con đại tiểu-tiện gọi là bĩnh.

[4] Thiện phu: người đầu bếp.

[5] Chức giữ việc viết-lách sách-vở. Hà Như- Sơn là điển-thư riêng cho vương-tử Khải.

(6) Lúc ấy tên Khải còn là Tông.

(7) Nghĩa giống như bất-pháp.

[8] Tức Huy quận-công.

[9] Sau vì kiêng hai tên vua Tự-Đức (Phúc-Thì, Hồng-Nhậm) nên gọi tránh là Ngô Thời-Nhiệm.

(10) Kiểm-duyệt xóa 3 dòng.

(11) Thao thủ: Đức-hạnh hàng ngày, cách xử-thế lập thân ở đời.

[12] Tức là phủ chúa Trịnh.

[13] Tức là chúa Trịnh-Sâm.

[14] Tức là Đặng-thị-Huệ, Bà chúa Chè.

[15] Sở Mục-Vương và Tùy Dương-Quảng đều giết bố để cướp ngôi.

[16] Chữ trong Tả Chuyện. Dịch tạm là: Áo cừu lung-tung, một nhà ba ông, theo ai cho xong?

[17] Chỉ Hoàng-Đình-Bảo vì y là Phò-mã. Tục-ngữ có câu: Tốt áo như ông phò-mã.

[18] Chỉ Đặng Thị-Huệ, Tuyên-Phi của Tĩnh-Vương, mẹ đẻ ra vuơng-tử Cán.

[19] Sau đổi là Nguyễn-Khản. Tức là anh ruột tác-giả quyển Kiều.

[20]Thế-tử Thương-Thần nước Sở giết cha mà cướp ngôi.

[21] Đương làm quan mà cha mẹ chết, thôi quan về chịu tang, gọi là đinh-gian

[22] Tham-Tụng bấy giờ quyền như tể-tướng

[23) Chỉ Dương-Trọng-Tế

CHƯƠNG I

Tiến >>

Lê Thy đánh máy từ bản PDF của Gallica.bnf.fr
Nguồn: NXB TÂN DÂN HÀ NỘI 1940/ https://baovecovang2012.wordpress.com/
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 31 tháng 12 năm 2024