Người Cùng Quê Tập III

phan tứ

Chương 1

Buổi sáng cuối hè ấy, dường như tất cả các hoa phượng đỏ và vàng trên đường Lê Thánh Tôn cùng nở vét sòng một lần cuối trước khi tàn rụng vào đầu thu. Ve sầu trên dãy sấu cổ thụ dọc đường Lý Thường Kiệt cũng thi sức réo từ sáng sớm tuy đêm qua đã hòa nhạc rất khuya.

Một anh bộ đội đang đi dọc Lý Thường Kiệt về phía Lê Thánh Tôn. Anh này cao hơn mức trung bình, mặt lún phún râu quai nón, mặc bộ quân phục đại quân vá vai hai túi được phát cho cấp trung đội trưởng trở xuống, đeo lủng lẳng một bên vai cái ba-lô lép kẹp, kiểu đeo đỡ nóng lưng của người lính đi xa đơn vị.

Ngôi nhà lớn bệ vệ có chữ đắp nổi rất chung chung là “Đại học Việt Nam” đang dậy tiếng loa phóng thanh báo tin trúng và trượt trong kỳ thi vào Trường đại học Tổng hợp. Anh bộ đội càng đến gần tiếng loa càng bước ngập ngừng, như tim óc muốn đi mà đôi chân ngại nhích tới thất bại.

Anh tới cổng vào sân trường khi một loạt trai gái trẻ tuồn ra. Nhìn qua nhận thấy ngay ai trúng ai trượt. Trúng thì mặt đỏ, cười nói ríu rít, từng lúc cố tự hãm và vui mừng trước các bạn rủi ro, buông đôi câu an ủi chung chung. Thất bại thì cố gượng cười để buông đôi lời tỏ vẻ bất cần, cũng dễ thấy “tiếu tựa văn nhân lạc đề thi”, trước khi nhanh chóng tách khỏi đám đông để tìm nơi giải sầu. Anh bộ đội chọn một người mặc quân phục giống hệt mình, mũ còn quân hiệu như mình, ghé lại hỏi:

- Thế nào, xướng danh tới đâu rồi cậu?

- Sắp xong khoa học tự nhiên, chưa tới các khoa xã hội.

- Phần cậu ra sao?

- Vỏ chuối. Lính đi thi hầu hết vỏ chuối. Chả có thì giờ học ôn, ganh đua thế nào được với học sinh trong thành. Tớ thi vào Lý, đề ra hỏi điện, mà chục năm nay tớ chỉ dùng đuốc với đèn dầu. Vào đi cậu, sắp sang phần xã hội đấy. Chúc may mắn hơn tớ!

Anh bộ đội bắt tay người bạn chưa biết tên, đi vào sân trong trường vừa lúc máy phóng thanh báo tin sang các khoa Xã hội. Khoa Sử đọc trước, một chọi hai. Khoa Ngữ Văn một chọi năm, lại thêm cả một loạt ưu tiên cho các dân tộc thiểu số, cho học sinh nữ. Nhà trường dành ba điểm ưu tiên cho thương binh, bộ đội trên năm năm chiến đấu, trên tổng số 40 điểm, nhưng chỉ tính riêng số này cũng đã gấp đôi chỉ tiêu được tuyển vào năm đầu khoa Ngữ Văn.

- Số ba: Nông Thị Ân. Số chín: Nguyễn Châu Bình. Số mười bảy: Phan Cam. Số hai mươi ba: Trần Đình Giang...

Anh bộ đội Sáu Cam đã rập chân đứng nghiêm và đáp “có” thật to khi tên mình được gọi giống hệt khi điểm danh ở đơn vị, khiến cho các thí sinh trên sân trong của Trường đại học đều quay lại nhìn và bật cười to nhỏ, gái che miệng và trai cười ra tiếng, ồn ào hô hố.

Mười phút sau, Cam lại đeo ba-lô một bên vai, ra khỏi cổng trường. Có một mảnh đất tí xíu bên kia đường Lê Thánh Tôn, cắm biển là Vườn hoa Tao Đàn. Cam ngồi xuống một ghế đá gra-ni-tô sứt mẻ, nhìn lại quãng đường Lý Thường Kiệt và Lê Thánh Tôn mới đi qua sáng nay. Sợ mình nghe lầm, Cam còn ghé xem danh sách trúng tuyển được đánh máy và dán bên trong một tủ lưới mắt cáo. Đúng thật rồi. Anh lặng lẽ đi ra, không quen ai để tán ríu rít như mấy cô cậu sát bên cạnh.

Hai con đường Cam quen qua lại trong đợt thi bỗng dưng đổi màu. Lá xanh tươi hơn, hoa đỏ, vàng nổi sáng hơn, tiếng ve vui hơn. Cam hỏi giờ một cậu trẻ tuổi lững thững đến ngồi ghế đá bên cạnh, vò nát điếu thuốc lá trong đôi bàn tay chán chường. Còn những ba tiếng nữa mới có xe lửa ngược lên thị xã Phú Thọ. Và còn sáu ngày nữa Cam mới hết hạn phép. Nằm trạm đón tiếp quân nhân trên đường Cột Cờ thì suốt ngày nhức tai vì loa truyền thanh và các sòng tu-lơ-khơ trong căn buồng kê mười sáu giường chân niễng. Về căn buồng tí xíu của Hoàng Lan trong bệnh viện Phủ Doãn, dứt khoát không được. Đành la cà đâu đấy quanh hồ Gươm đã được đám miền Nam tập kết gọi là hồ Tìm Kiếm. Thế nhưng... sao mình chợt mệt mỏi đến thế? Đời lính chiến đấu có hai kiểu mệt. Đánh trận bị thua, không thắng không bại cũng là thua, lính mệt đấy nhưng vẫn bị nỗi đau chích nhoi nhói vào thịt, buộc từng người bật dậy, sửa soạn cho trận phục thù sắp tới. Cái mệt sau khi thắng lớn lại khác. Thân thể và đầu óc lính ta đều đòi được nghỉ, được ngủ, được ăn, được tắm giặt sau những đêm ngày ác liệt, và đòi hỏi ấy rất chính đáng, không ai chối cãi được. Một cơn mệt thắng trận như thế đang tỏa khắp người Cam, sau nhiều tháng năm tìm chỗ khuất trong doanh trại chong đèn học gạo rất khuya, chỉ tắt một lúc khi trực ban và tổ tuần tra chộp được, đợi họ đi xa là thắp lại.

Cam móc quai ba-lô vào cánh tay trái, duỗi tay vịn dài trên lưng ghế đá, móc quai mũ đính quân hiệu dưới cằm, nhắm mắt. Lập tức, anh cảm thấy chiếc chế xoay tròn dưới thân mình, từ từ bốc lên cao...

Một bàn tay đập trên vai Cam. Lại vỗ mạnh hơn.

- Nè anh lính Cụ Hồ, dậy, kẻ cắp lấy sạch trơn rồi kìa!

Cam dụi mắt nhìn quanh, bỗng chồm đứng. Mũ và ba-lô biến từ bao giờ? Cam bước ra xa ghế, ngó quanh, chẳng thấy một ai. Tiếng cười rộ lên sau lưng khiến anh quay lại. Thêm một lần sửng sốt nữa: anh Năm Chò và anh Ba Dĩnh chứ ai đâu xa lạ. Năm Chò cúi xuống lôi ba-lô và mũ của Cam giấu dưới ghế đá ra, vẫn cười:

- Mày sống miết với dân ruộng dân rừng, về Hà Nội lũ móc túi được món phát tài. Hỏi mày luôn: đậu hay rớt?

- Đậu anh à. Chắc là đội sổ. Họ không báo điểm từng người.

- Làm điệu hoài. Anh em ở Đoàn 81 nói mày học giỏi lắm, năm ngoái Ban chính trị thiếu trợ lý văn hóa không cho mày đi thi vô đại học, bị đấu một trận ra trò, năm nay mới chịu nhả mày ra, phải chưa? Qua bấy nhiêu năm trung đội trưởng mà vẫn mặc vá vai hai túi à?

Cam cười xòa, quay sang hỏi chuyện anh Ba Dĩnh.

Anh Ba lên tới chính ủy trung đoàn, gần cuối kháng chiến đạp phải mìn Gip phải cưa chân dưới gối, lắp chân giả. Sau một năm tập kết, anh được điều về làm bí thư Đảng ủy một khu mỏ ở Quảng Ninh. Còn Năm Chò không dính mảnh dính đạn lần nào, rất khỏe, nhưng văn hóa quá thiếu, thi vào Học viện quân sự bị trượt, thi vào lớp bồi dưỡng cán bộ trung cấp trượt, thi vào trường Lục quân đào tạo cán bộ sơ cấp cũng trượt nốt. Ưu tiên đến mấy cũng không bù nổi. Hai năm trước, nghe lời rủ của Ba Dĩnh, anh chuyển ngành về vùng mỏ, nhưng nhất định không nhận làm anh cán bộ tổ chức bên cạnh Ba Dĩnh:

- Mày biết đó, Ba. Làm tổ chức thì phải biết nghề, biết người. Nghề mỏ tao dốt đui, làm sao đánh giá được năng lực anh em. Còn người là dân tứ xứ, người Việt cũng cả chục tỉnh kéo tới, chưa kể người Hoa, người Nùng, người Thổ Thái Mèo Mường, tao từ trong Nam ra Bắc lần đầu, biết gì mà tổ chức họ. Để tao cuốc than vài ba năm đã.

Anh làm đúng như đã nói. Ban đầu cuốc than trên tầng lộ thiên, thoáng gió nhưng phơi nắng và lương thấp. Nửa năm sau anh xuống lò, cuốc xúc trong đáy hầm sâu. Cậu thợ phụ đun xe vào loại khỏe và chăm. Lương chính của anh cộng với tiền sản phẩm được trên dưới 150 ngàn, gần sấp đôi lương cán bộ tiểu đoàn. Tuy vậy, anh đang tính chuyển về nông trường Sao Vàng ở Thanh Hóa. Ở đấy anh sẽ nhận lương bằng một phần ba so với khi làm thợ mỏ. Anh chưa nói vì sao định làm thế.

Mắt anh Năm Chò sáng lên khi nghe Cam còn thừa sáu ngày phép. Anh xốc cái ba-lô lép kẹp của Cam ngoặc vào vai:

- Mày đi thăm vùng mỏ với tao, với anh Ba. Tao phải về chào từ biệt anh em vài ngày, gói ghém đồ đạc mang về nông trường. Anh Ba có cùng rủ mày hay biểu mày can gián tao, mày cứ lờ đi cho tao nhờ, hẹn rồi nghen. Mày còn gì ở trạm Cột Cờ không?

- Sạch trơn anh à. Còn một gói sách giáo khoa em gửi ở nhà Hoàng Lan, khi trở về Phú Thọ em ghé lấy.

- Sao mày không ở nhà con Lan cho yên tĩnh mà học ôn?

- Cậu Thống đi xa, em tới ở dễ mang tiếng. Vợ lính vắng chồng...

- Phong kiến bỏ mẹ! Mà cũng phải... Tao đi hè.

Chiếc xe com-măng-ca vẫn đợi từ nãy bên kia đường, cậu lái ngủ gật. Ba người cùng đẩy một quãng cho xe nổ máy, chạy xuống Hải Phòng, sẽ đi tiếp ca-nô đến thị xã Hòn Gai.

*

Suốt hai ngày trên xe và trên ca-nô, Cam nghe chuyện anh Năm Chò, lắm lúc nghĩ: bốn năm tập kết ra Bắc đối với anh cứ trôi thẳng tuột, nhẹ nhõm. Còn đối với mình, sao cứ phải lo toan quanh quẩn mãi thế?

Cam tập kết theo chuyến tàu Ki-lin-xki gần cuối. Sau vài tuần đợi ở đơn vị thu dung, một anh ở Tổng cục cán bộ đến bảo khai lý lịch và nguyện vọng. Mươi ngày sau anh trở lại, gọi từng người đến giải đáp. Cam cũng như anh em khác đều muốn trở về đơn vị cũ. Không được, sư đoàn 305 đã lắp đủ cán bộ, đề bạt có, trên điều về có. Trong một buổi “đả thông” chung, anh càng nói càng bốc, đến khi tới đỉnh cao thì anh tuyên bố:

- Tinh thần yêu nước có nội dung từng giai đoạn. Trước kia các đồng chí xung phong đi chiến đấu là yêu nước, đến nay hòa bình đã lập lại, đất nước lo xây dựng kinh tế, các đồng chí bị sức khỏe giảm sút và không thạo kinh tế, cho nên lúc này tình nguyện ra khỏi quân đội mới là thực sự yêu nước...

Một đại đội trưởng tóc sớm bạc, đi Nam tiến từ năm 1946 nay trở ra Bắc, để lại một vợ hai con trong Nam, dơ tay xin nói. Anh nói rất thong thả:

- Tôi hỏi thăm nhiều người quen, được biết đồng chí nhập ngũ năm Năm mươi mốt, qua Trung Quốc học trường Lục quân và ở lại làm cán bộ nhà trường, mới về nước cách đây một tháng. Chúng tôi rất sẵn sàng ra khỏi quân đội để giảm gánh nặng cho dân, chỉ mong không phải nghe những lời nhảm nhí của những kẻ chưa hề nghe tiếng súng.

Anh phái viên đỏ bừng đến tận cổ, càng nổi rõ bộ áo quần ngoại mới tinh được là rất kỹ. Anh vừa mở miệng ấp úng, chợt có một thương binh cụt hai tay mặc bộ xi-ta cúc dừa vá nhiều chỗ đứng vọt lên, hét to:

- Đề nghị khinh mười phút!

Anh em ùn ùn kéo ra khỏi phòng họp, một phòng ngủ hai mươi giường khung tre lợp lá cọ.

Chưa nói đâu xa, chỉ riêng trong tiểu đoàn thu dung cũng đã lắm tiếng dội rất căng từ bên ngoài. Cấp trên luôn nói trong quân đội không có chủ nghĩa thành phần, nhưng lặng lẽ rút đi một tiểu đoàn trưởng gốc phú nông, một chính trị viên con nhà địa chủ có sáu mẫu ta Bắc bộ, có phát canh thu tô vì bảy người con lần lượt theo kháng chiến cả. Hai người được đưa về thay: một trung đội phó mắc tật nói cà-lăm làm chính trị viên, một trung đoàn phó “có vấn đề” làm chỉ huy tiểu đoàn. Rồi một đêm nọ, ba người gần như trần trụi chạy xổ vào đơn vị. Anh em kinh hoàng nhận ra bí thư Đảng ủy xã, chủ tịch xã, xã đội trưởng. “Họ ghép chúng tôi vào Quốc Dân Đảng cả. Tổ chức địch lồng trong tổ chức ta mà lị”. Anh em bàn nhau cùng giấu. Giấu sao được. Chỉ sau hai ngày, cả ba đều bị số du kích “nòng cốt” đến trói tay, giải ra Tòa án nhân dân đặc biệt, cô chánh án mười tám tuổi vừa xử vừa quay đầu lại hỏi “anh đội” ngồi sát sau lưng.

“Tụi nó hay hô khẩu hiệu lừa mị dân, ra vẻ mình bị bắn oan”, một cô du kích đã giảng cho bộ đội ở nhà mình như thế. Cô này khá xinh, trẻ măng, không giấu lòng tin mến với anh Sáu Cam, cũng không chút dè dặt khi Cam nói rõ bố mình là cường hào gian ác, mình là tiểu tư sản học sinh. “Ối, hơi đâu tính đường xa”. Em thấy anh chả có gì là cường hào hay tiểu tư sản cả. Bộ đội Cụ Hồ ai cũng như ai”. Nhưng Cam không thể quên cặp mắt long sòng sọc và bộ mặt đàng đằng sát khí khi cô bắn và lên đạn rong róc sau mỗi phát súng. Cam lảng xa cô, giả tảng không thấy những ánh mắt tủi hờn.

Ngày hẹn hiệp thương trôi qua. Ở vương quốc Cam-pu-chia, lực lượng kháng chiến không được ghế vào trong bầu cử. Phía vương quốc Lào, hai tỉnh tập kết của Pa-thét Lào bị tấn công rất dữ. Sai lầm trong cải cách ruộng đất đợt năm ngày càng hiện rõ.

Đơn vị đóng ở Phú Thọ, cách thị xã độ bảy cây số. Cam xin giấy giới thiệu, đến trường cấp ba Hùng Vương mé trên thị xã, xin mượn sách giáo khoa về tự học thêm, mượn được giáo trình các thầy cô giáo càng tốt. Nghe mãi nghĩ mãi chỉ thêm rối đầu rụng tim, cứ chúi mũi tự học cho nó khuây.

Vẫn không được yên để khuây khỏa. Tiểu đoàn trưởng gọi lên giao làm báo tường sau khi đọc lý lịch. Chỉ sau năm ngày, anh chính trị viên nói lắp lại gọi lên giao việc khác: dẫn một trung đội thu dung đi bảo vệ cho cải cách ruộng đất ở xã gần bên. Đêm gác, tuần. Ngày giúp dân làm ruộng, đào mương. Được vài tháng, đơn vị gọi Cam về “vì lý do sức khỏe”, tuy dạo ấy Cam đã lành hẳn các vết thương, chỉ có khuỷu tay trái bị vẹo cáng vá còn trên năm chục phần trăm sức cũ. Chính trị viên tiểu đoàn lạnh nhạt nhắc lại lý do bằng giọng lắp quen thuộc. Anh biết, và biết Cam cũng biết, rằng Cam bị rút về vì hai lá thư. Một do Cam gửi về Đoàn thu dung, phê bình anh đội trưởng xử sự theo kiểu “nhất đội nhì trời”, cố đẩy phú nông lên địa chủ cho đủ chỉ tiêu 5 phần trăm do trên giao, đôn trung nông khá lên phú nông và tuyên bố “cô lập phú nông” tuy chính sách là trung lập phú nông. Lá thư thứ hai là của ông đội trưởng kia ghép Cam vào tội chung chung là “mất lập trường” đối với các giai cấp bóc lột... Tiểu đoàn chẳng đủ sức đi tận nơi xem xét, cứ rút Cam về cho gọn. Càng hay thôi, Cam lại chúi mũi học ngày học đêm trong khi chờ lệnh mới.

Đợt sửa sai đến khi Cam học gần xong chương trình cấp ba, chỉ thiếu phần Lý Hóa thực hành. Anh chính trị viên tiểu đoàn được điều đi lặng lẽ, nghe nói về sau anh được xếp trung đội trưởng, lên một cấp so với trước. Sau một tháng học về năm đợt Cải cách ruộng đất và Chỉnh đốn tổ chức, cán bộ được phép viết lại lý lịch. Cam viết đúng như sự thật, rất khác bản xác nhận hằn học của Ba Mít tức là Chủ tịch Hùng Minh. Hai bản khác nhau đến nỗi chi bộ và tổ học tập không dám thông qua, đòi phải có cán bộ cùng quê viết ý kiến gửi đến. Được thôi. Cam viết hàng chục thư gửi tất cả cán bộ được biết địa chỉ. Đoàn thu dung định điều Cam đi sửa sai, Cam từ chối mềm dẻo nhung dứt khoát:

- Tôi là tiểu tư sản, con cường hào gian ác, nay lý lịch không rõ ràng, nói chẳng ai tin, lại mới bị ghép “thiếu lập trường” nữa, xin hoãn ít lâu đợi điều tra thêm.

Năm Chò đang ở vùng mỏ, được thư vội chạy về Hà Nội, lùng khắp nơi, lấy được cả thư có đóng dấu của anh Bảy Quý ủy viên Trung ương Đảng, cả một lô giấy xác nhận của cán bộ từ cấp đại đoàn, trung đoàn trở xuống, đánh điện báo trước cho để khỏi đi xa khi anh đến. Cam nhận điện một ngày sau khi bản lý lịch mới được duyệt rất gọn, chỉ mất mười lăm phút. Về sau Cam mới biết: anh Bảy Quý, phó Ban tổ chức trung ương, được thư Cam đã gọi dây nói đến thẳng chính ủy Đoàn thu dung qua mạng lưới của quân đội, nói những điều cần làm rõ đối với cậu cán bộ trẻ lắm thành tích và thương tích bị rơi vào chỗ không ai quen biết và không ai đi xác minh ở quê quán được.

Cam được gọi lên tiểu đoàn, gặp lúc anh Năm Chò đang ném ra trước mặt Ban chỉ huy cả một xấp giấy đóng dấu đỏ, mặt đỏ bừng hung hãn, tay áo xắn cao và mở hai cúc cổ, cả thân hình vuông và đen như tủ gỗ mun chồm tới như sắp lao vào đánh vật. Cam ấn xấp giấy vào túi dết, kéo anh về chỗ ở. Lát sau hai anh em đã cười nghiêng ngả, nói chuyện khác.

- Tao đem cho mày năm chục ngàn... Đừng lo, tao về mỏ, đi lò lãnh khá lắm, mỗi tháng trên dưới trăm rưởi ngàn, có khi hơn hai trăm ngàn là thường. Mày bì sao được, phụ cấp trung đội trưởng đủ hút thuốc sừng bò nửa tháng, về sau là ngửa tay hay lượm tàn. Ông Bảy Quý phò trợ mày về chính trị, còn tao lo cho mày tiền tiêu.

Cam đi sửa sai ở Thanh Hóa với niềm vui đơn giản. Ba tháng sau anh trở về với mặt sa sầm, giọng nhát gừng. Nông thôn ta bị đảo lộn quá mức tưởng tượng. Mấy gia đình đã đón và giúp đỡ Trường Lục quân năm xưa đều có tang, có người bất mãn đòi “rạch mồm bọn tố điêu”, có người quay lưng bỏ đi khi nghe nói sửa sai, có những bà mẹ ôm Cam khóc ròng khi nhắc tới kỷ niệm của lớp lính trọc đầu ngày ấy chuyển lang thang qua các huyện Thọ Xuân, Nông Cống, Tĩnh Gia, quần quật từ bốn giờ sáng đến chín giờ rưỡi tối. “Các con về thăm thì cha mẹ mừng, về kêu gọi thì đừng thì chớ. Bọn ăn ốc trốn biệt cả rồi, xui các con về đổ vỏ đấy...”. Ngón tay các mẹ chỉ lên tấm ảnh viền đen trên bàn thờ.

Cam đã gào to đến khản cổ trong những mít-tinh không có máy phóng thanh, đã nhiều phen cởi áo sơ-mi phơi các vết sẹo chi chít trên thân, đã túm tay cán bộ bị quy oan buộc phải xóa thù cũ với số cốt cán lựa gió phất cờ trong Cải cách. Người dân chưa tin Cam mấy, nhưng dù sao cũng nể anh bộ đội chỉ biết hiến máu thịt mà chẳng xơ múi gì, bỏ bố mẹ anh em lại trong Nam để ra xây dựng miền Bắc. Chỉ trong ba tháng, Cam bị các vết thương cũ nổi loạn, nằm liệt giường, phải trở về Đoàn thu dung với bộ mặt hốc hác và bước chân lê lết, trong khi các nơi Cam đến đều tạm yên, lắm báo cáo còn đề nghị khen thưởng đồng chí đội phó đội sửa sai. Tiểu đoàn chỉ nói qua cho Cam biết, sau đó lặng im luôn. “Công chung tập thể chứ công riêng gì ai, xấu đều hơn tốt lỏi. Đằng nào cậu ấy cũng ra khỏi quân thường trực...!. Nước ta tuyên bố giảm quân số tám vạn. Đoàn thu dung cố đưa về phục viên (trước quen gọi là xuất ngũ), nếu có nơi nhận thì cho chuyển ngành, cũng khá nhiều được sang nông binh vào các nông trường quân đội mới mở.

Riêng Cam và một số anh em được giữ lại làm trợ lý văn hóa hay giáo viên văn hóa, giúp cho anh em chưa xếp chỗ được học thêm ít nhiều trước khi ra khỏi quân đội, cũng để giảm bớt những cơn sốt ruột đâm nói bậy. Ừ thì làm. Quân đội nuôi mình học chữ ở Liên khu Năm, Liên khu Bốn, nay giúp lại đồng đội là phải. Cam lại hùng hục lao vào việc mới, và làm được việc đến nỗi Đoàn bác bỏ đơn xin dự thi vào đại học mùa hè năm 1957 vì lý do “đang phục vụ xây dựng quân đội”.

Cam chỉ được phép dự thi vào đại học Tổng hợp I Hà Nội sau khi Đoàn thu dung được quyết định “kết thúc nhiệm vụ”, tức là giải thể. Chỉ được một tháng ôn thi, nhưng Cam vẫn trúng tuyển. Lần đầu về Hà Nội, Cam phát khiếp khi gặp số học sinh phổ thông lên, họ đọc làu làu như cháo chương trình cấp ba, rất thương hại anh lính lớ ngớ tỉnh lẻ đi thi cầu may, mà lại thi vào khoa Ngữ Văn hóc búa, năm người chọn một, chẳng phải như khoa Sử ba người lấy hai, khoa Hóa hai người lấy một.

Và như thế, đồng chí Sáu Cam thương binh bước vào đời sinh viên. Anh Ba Dĩnh cười tủm tỉm:

- Tao tới trường hỏi kỹ rồi. Học bổng toàn phần sinh viên hăm hai ngàn. Học bổng cho cán bộ bộ đội trên năm năm công tác là ba mươi lăm ngàn. Nhắm mày chịu nổi không?

- Chịu nổi. Ngày hai bữa cơm, được học tiếp là quý rồi.

- Thôi được, mày có ông anh đào mỏ khá tiền, ổng bù đắp thêm. Đừng ép xác quá nghen Cam, ho lao nửa chừng lại mệt tụi tao. Ảnh có kế hoạch bơm xăng cho mày đó.

Kèm đấy là một phát vỗ lưng đến nảy ngược cả người. Sau anh Cả Chanh, biết bao nhiêu ông anh đã nện vào Cam như thế?

Tháng Tám năm nay mưa muộn, mà cũng có thể do vùng khí hậu ven vịnh Hạ Long, chỉ đổ rào xuống từng đợt ngắn. Ba anh em đứng dựa mạn ca-nô ngắm cảnh, tán dông dài, và ý nghĩ dạo nào trước khi tập kết lại láy mãi như điệp khúc trong Cam: “Nghĩ vừa vừa thôi cho dễ sống, Cam ơi”. Anh Năm Chò ra đi với đứa con trong bụng chị Năm Bưởi, nay vẫn chưa biết con trai hay gái, sống hay chết, vợ được yên thân hay chăng, mà anh cứ cười nói tỉnh bơ.

Mới đến Hải Phòng, anh Năm đánh điện ngay cho Đoàn thu dung, báo tin Cam phải làm thủ tục một tuần nữa mới xong. Thấy Cam áy náy, anh gạt phăng: “Chúng nó bày việc ra cho có vẻ tận tụy đến phút cuối cùng, vậy chớ ai cũng lo cuốn gói”. Sự thật cũng đúng thế. Cùng lắm thì ghi vào số ngày phép mà Cam chưa từng dùng đến sau bốn năm tập kết, bởi cấp trên đã nói cắn cưa: đi phép thăm cha mẹ vợ con hay anh chị em ruột mới được cấp giấy phép, được thanh toán tàu xe. Cam đành bó tay vì anh Năm không phải anh ruột, lý lịch ghi rõ như thế. Biết bắt đền ai nếu miền Nam chưa được giải phóng?

Hải Phòng trông bình dân hơn Hà Nội nhiều với những sơ-mi cộc tay bỏ ngoài quần soóc, mũ lưỡi trai mềm, áo ngắn nữ, rất nhiều quán ăn nhậu xuề xòa ầm ỹ. Tàu nước ngoài vào ăn a-pa-tít màu nâu đen nhiều: tàu Đai-un Ma-ru của Nhật, Plê-i-at của Hi-lạp, Ki-rốp của Liên Xô, Đi-mi-trốp của Bun-ga-ri... Tàu ta có ba chiếc nhỉ, anh Ba Dĩnh bảo là loại chở 600 tấn, Hòa Bình, Hữu Nghị, Việt Xô 57, đều chở than cám. Các chị lái máy kéo nối một chuỗi moóc đều đội nón lá và phô đôi mắt sung húp, chắc phải làm ca đêm nhiều. Loa truyền thanh đang phát buổi tiếng Trung Quốc, nghe lạ tai. Các biển hiệu đều viết bốn thứ tiếng: Việt, Hoa, Anh, Pháp.

Đến thị xã Hòn Gai, trong khi anh Ba và anh Năm lo các giấy tờ thuyên chuyển. Cam để một ngày đi thuyền buồm thăm vịnh Hạ Long, một ngày đi các nhà máy than luyện, than cốc, nhà sàng, hơi hàn, cơ khí.

Sang ngày thứ ba ở Hòn Gai, anh Năm đánh thức Cam dậy lúc ba giờ rưỡi sáng để đi “chào tạm biệt”. Tạm biệt ai vào lúc đêm đen kịt này? Cam ríu ríu làm theo lời ông anh: thay mặc bộ “áo quần chiến thuật” đã vá nhiều chỗ, đội giày vải rách, đeo túi dết và cái bi-đông rỗng. Hai anh em đi ngược dốc đến chỗ xe lửa đậu, loại Đờ-cô-vin đường hẹp xe nhỏ. Anh Năm chìa bi-đông cho bà hàng rót đầy nước chè xanh vào, lấy hai gói xôi đậu đen bày sẵn trên chõng. Tất cả bảy trăm, anh đưa tờ một ngàn và phẩy tay nhẹ, bỏ đi. Quen nhau đến nỗi không cần nói tiếng nào, cả chủ lẫn khách!

Trong toa xe hẹp và tối om bò chậm như xe đạp, hai anh em giở xôi ra ăn lặng lẽ. Anh Năm vẫn lì lì như cóc cắn. Cam liếc nhìn anh nhiều lần, không nhận ra nét gì trên khuôn mặt đen trũi lẫn vào bóng đêm. Chắc có gì trái ý trong hai ngày làm thủ tục chuyển đi xa, anh vốn ghét giấy tờ đến cái độ kinh niên. Đợi đấy, chớ hỏi, anh sẽ tồng tồng kể hết.

Một bác rậm râu ngồi cạnh, cặp lồng cơm trưa kẹp giữa hai chân, rít mồi thuốc lào rõ dài, nói to hơn với anh thợ trẻ đang gật gà cạnh sườn:

- Thế đấy Súy ơi, một tuần phép có vui có buồn. Thằng em tao lên vù vù trong giảm tô, trong cải cách đợt năm, qua kiểm tra chững lại, đến phúc tra mới cắp chiếu hầu tòa, án bảy năm, nay về nhà mổ lợn ăn mừng rồi. Cũng là bọn ghen ăn ghét ở, đội sau lật ngược đội trước lấy tí thành tích. Cái khoái nữa là tao gặp đích thị thằng đội trưởng phúc tra ở Hải Phòng... Nó không dám về quê, cũng không về nơi nó cải cách, lang thang kiếm không ra việc. Cái thằng dạo trước tao nói đấy, nó bắt cốt cán phải thuộc lòng: “Ơn Bác, ơn Đảng, ơn Đội”, thiếu hai chữ ơn Đội thì sau phải vớt thêm vào cuối mít-tinh. Nó không nhận ra tao, khi ngồi ăn cơm vỉa hè nghe tao nói chuyện làm mỏ, nó sấn vào nằn nì tao giúp nó làm thợ phụ. Dạo tao về làng, bao giờ cũng ngồi rìa dưới cùng vì tội liên quan thằng em, còn nó mặc đại cán chễm chệ trên ghế chủ tịch...

- Bác cho nó mấy quả?

- Không quả nào.

- Hừ, bác lành quá đấy, gặp cháu thì nó vỡ quai hàm.

- Ghét thì vưỡn. Mà đánh kẻ chạy đi chứ ai nỡ đánh đứa chạy lại. Nó khỏe vâm mà nhếch nhác, hốc hác, bệ rạc quá mày ơi. Hay ta cho nó vào cúp mình, hở Súy?

- Thay cháu à?

- Đời nào! Thay cái Hợi, nó ễnh bụng sáu tháng rồi xúc hai xẻng than đã thở thụt bễ, hư thai có ngày. Đưa nó về Nhà sàng ngồi nhặt đất đá cánh mình tom góp giúp tí sữa tí tã, để phúc cho con cháu...

Ra thế. Những làn sóng dội xa của Cải cách đợt năm và của đợt sửa sai tiếp liền theo đó đã lay chuyển từng anh bộ đội, từng bác thợ mỏ, gắn với nếp nghĩ Việt Nam ngàn năm là “bầu ơi thương lấy bí cùng”! Nhiễu điều phủ lấy giá gương!. Đâu phải là họ dễ dãi. Đổ xương máu và hiến mạng sống suốt cả một cuộc Kháng chiến trường kỳ không thể là những người ngây thơ, ba phải. Xóa bỏ được bấy nhiêu thù oán trong sai lầm cải cách chỉ có thể là những người vô cùng nhân đạo, vô cùng yêu nước yêu dân, vô cùng tin ở Đảng và Bác Hồ.

Xe lửa dừng ở Hà Lầm, thợ lò chuyển sang ô-tô. Anh Năm chỉ ghé thoáng qua một nhà bên đường, nhận một gói to bọc giấy báo, ném ra mấy tờ giấy bạc rồi đi tiếp, hẩy tay cho Cam trèo lên một xe Ta-tra thùng vuông đóng thêm thang sắt lên xuống và nhiều tay vịn dọc, người đứng ép nhau như cá hộp. Xe chở thợ lên lò 87 và 88 cách Hà Lầm ba cây số. Đến hai giờ chiều tan ca một, phần lớn thợ cuốc bộ xuôi dốc, ai mệt quá mới đi ô-tô.

Sườn núi quanh các lò nham nhở than đen và đá xít cũng đen nhưng không bóng, xa miệng lò mới thấy đất đồi đỏ pha vàng. Một anh thợ trẻ mặc bộ quân phục lắm chỗ vá như Cam, cũng quen anh Năm rối rít hỏi thăm về đại đoàn Ba lẻ tư mà Cam mù tịt. Cậu chuyển ngành làm thợ xúc than ở một cúp xoi tít vào đáy sâu, lương chính và tiền sản phẩm xấp xỉ hai trăm ngàn, phải cái làm vất vả.

Anh bạn mới gặp đã thân, rót vào tai Cam vô số lời hướng dẫn. Cam nghe mãi đến mụ cả đầu. Chỉ nhớ loáng thoáng về lò cái, lò chợ, lò gió, lò cúp, ga cho xe goòng tránh nhau, đĩa sắt xoay goòng đun than. Và rất nhiều tên cho gỗ chống lò, cột bích, cột mộng, cây xà, cây văng, cây chèn nóc, cây chèn vách, cây thìu. Cam chỉ nhớ ấn tượng chung là bước qua cửa lò thấy nóng, ngạt, ẩm, chỉ ngớt khi qua chỗ quạt 17 mã lực hút không khí lên cao, lò gió bên dưới tỏa mát ngọt vào mũi. Lắm chỗ không khí ép phun phì phì như đầu máy hơi nước qua những ống thép và cao-su dày. Đi phải coi chừng: trên đầu lắm nước dột, bên sườn căng dây tời điện kéo goòng rỗng lên lò, dưới chân là đường goòng và nhiều vũng nước đọng. Càng vào sâu càng chật và bí hơi, có đoạn phải bò bốn chân mới lọt. Anh Năm đã mượn mũ nhôm và ủng cao-su cho cả hai, một đèn đất xỉ lửa ngang đủ sáng để tránh đường goòng dưới chân và nhận ra những chữ phấn kèm mũi tên trên vách: “Hay cặm”, “dễ lật”, “đĩa xoay”, “đường dãn”.

- Anh Năm, ới anh Năm Phi Đao! Rẽ cúp này chứ!

- Ơ... chúng mày đến đây rồi à?

- Theo vỉa mới, chưa kịp đặt ray. Được khá lắm anh. Mới kéo tạm bằng xe ba gác đã gấp rưỡi cúp cũ. Cầm chắc tháng này hăm lăm vạn, tính cả phần ông phi đao đấy!

- Thôi để chúng mày đỡ cho vợ con. Rửa qua cái tay, ta làm lễ tạm biệt. Tao vào Thanh Hóa làm ruộng nông trường, móc nối để trở về miền Nam đây.

Giữa rất nhiều tiếng xuýt xoa ồn ào, anh Năm giở cái gói nhận ở Hà Lầm, bỏ ra một chai rượu ngang, nửa tút thuốc lá Hoa Hồng, một gói chả lụa còn nóng. Anh rót rượu ra một ngăn cà-mèng và chuyền tay nhấp mỗi người một ngụm.

Ông bác ngoài năm mươi tuổi ngồi xổm cạnh Cam nâng ngăn cà-mèng rượu lên:

- Tiếc anh lắm lắm, mà cơ sự ra thế thì chúc anh đi chân cứng đá mềm. Trộm phép anh, chứ đám này bảo nhau người như anh Năm là của hiếm. Cầm quân đánh giặc bao năm ròng, về mỏ không chịu làm ông quan bàn giấy, chui vào lò hùng hục xúc đất cuốc than với dân thợ chúng tôi, chia nhau nắm cơm vấu cháo...

Anh Năm vẫn ít mở miệng, nhưng mặt anh tươi dần lên. Anh tự đứng lên trước, túm hai tay lắc vai từng người trong tổ, ngoài anh ra còn lại năm.

Ra khỏi lò, gió mát rượi quạt vào mặt. Gặp một cô rỗi việc đang soi gương chải tóc, Cam mượn gương soi mình, bật cười khi thấy mặt nhọ nhem, nhìn xuống thì cả ủng lẫn quần vấy đầy bùn than, trong khi anh Năm sạch sẽ hơn nhiều.

Anh Năm rửa và trả các thứ mượn, kéo Cam lên một xe ben tuy đã được báo lệnh mới là thợ mỏ không được đi xe ben vì thùng xe trơn tuột, người dễ văng ra ngoài. Xuống chợ Hà Tu gần trưa, họ vào một cửa hàng mậu dịch nhỏ. Anh gật đầu chào chị bán vé, búng tay đánh tách và giơ hai ngón, cụp xuống, lại giơ hai ngón như người phương Tây chúc hai lần thắng lợi. Vài phút sau, trước mặt mỗi người đã có một bát phở lợn giá ba trăm, chai bia Trúc Bạch, cốc vại bỏ đá. Cam ăn gần hết hát phở, lại nghe tiếng búng tay và nhận rất nhanh bát phở thứ hai, lần này là phở bò tái, rất khó gặp vì Chính phủ cố chặn bớt việc giết trâu bò. Hình như anh Năm dựng hai ngón xong còn thêm ngón cái dựng đứng, Cam thoáng thấy thế. Chắc là ám hiệu khách quen sẵn sàng trả thêm.

Từ Hà Tu lên khu mỏ lộ thiên Bàng Danh B chừng bốn cây số. Một xe Ta-tra ấn còi gọi, rồi lái xe nhảy hẳn xuống đất vành loa quanh miệng gọi anh Năm, anh chỉ xua tay, nắm hai tay giơ cao giật giật như bắt tay từ xa, kéo Cam đi bộ. Cam nghĩ ngay: giờ tâm sự bắt đầu!

Đúng thế. Vừa xa khu chợ, anh mở miệng:

- Tao nhắc chuyện tao thêm phiền cho mày, thôi cứ diễn hề cho mày đỡ tủi. Tao cháy ruột đó Cam. Chị Năm Bưởi bị tù từ sau Giơ-neo, đẩy tù lao này qua lao khác, con tao sanh ra chưa biết trai hay gái, sống hay chết. Cả nhà mình ở Linh Lâm bị treo tấm bảng to tướng: “Tình nghi can cứu, loại A!”. Bọn tề ngụy đi đâu cũng ghé vô hạch sách, khám nhà, hỏi giấy, sau đó phải một nồi xôi hay cháo gà cho vài chục đứa ăn khuya... Ở nông trường Sao Vàng được đón anh em vượt tuyến ra Bắc nhiều lắm, dân Quảng Nam cũng khá đông. Còn ở mỏ đây, mấy ai có thì giờ nghĩ tới miền Nam đâu. Đào nhiều than, kiếm lắm tiền, đem về nuôi vợ con ở quê, bấy nhiêu thôi. Tao nói chuyện miền Nam, họ nghe lát lại tưởng là chuyện ở Nam Định hay tỉnh Hà-Nam. Ngay Ba Dĩnh là cỡ khá trong Đảng ủy mà cả năm nay đề nghị mua vài tờ báo Thống Nhứt cho khu mỏ cũng chưa được, “hết kinh phí”, xin bó tay. Mày kể tao nghe bốn năm không được đi phép vì không có cha mẹ hay anh chị em ruột ở miền Bắc, mày hiền quá đó, tao cứ như xe ủi đất, thách đứa nào dám cản... Tao về nông trường Sao Vàng để sống với anh chị em miền Nam, họ báo trước mỗi tháng trả không quá bốn vạn. Kể gì đâu Cam, tao ra Bắc để đợi ngày về Nam, đâu tính làm giàu. Tiếc một chút là Chánh phủ cho mày ít quá. Ở nơi củi quế gạo châu như Hà Nội mà mỗi tháng ba vạn rưởi, sợ mày học gạo chịu không nổi, rút dù nửa chừng...

- Chịu được quá chớ anh Năm. Con nhà lính mà!

- Ừ thì lính. Cũng là lính, mà lính địch hậu khác lính chủ lực, lính chủ lực khác lính văn phòng, lính văn phòng khác lính hậu cần, lính kiểng lính ma, mới nhập ngũ đã qua học bên Liên Xô, Trung Quốc nhờ ơn các ông tướng tá vun vén cho nhau...

Mày cứ học tới tới đi nghen, đừng để tụi nó coi khinh lũ dân nghèo mình. Nhà mình dốt nát, anh Cả Chanh chỉ học trong tù, tao dốt đui thi đâu có rớt đó, trông cậy còn mình mày ngoi lên trí thức cách mạng, vinh dự cho cả nhà...

Anh Năm rài rài không ngớt trên bốn cây số leo dốc lên tầng mỏ lộ thiên Bàng Danh B, nơi anh lần đầu vung cuốc chim xắn vào than đá. Lại một chầu ngừng tay tạm biệt nữa dưới nắng gay gắt.

Hai anh em về Hòn Gai theo xe lửa đầu ca hai quá hai giờ chiều. Tắm rửa xong, Cam bước về buồng trọ được xếp, thấy anh Năm chống tay cằm nhìn xấp giấy bạc trước mặt: anh em trong cúp gửi anh những năm chục vạn đồng, kèm một mẩu giấy viết nguệch ngoạc, đầu vết than bẩn: “Anh Năm không nhận thì chúng em biểu tình, liệu hồn!”. Anh Năm đưa hai mu tay lau mắt, nói nghẹn:

- Quái quỷ, mình ở thì chán tụi nó, cầm quyết định ra đi cứ ruột gan cồn cào. Cam, mày biểu tao làm gì... Với tụi ở mỏ chớ ai nữa... Sao tao thương quá, Cam ơi, sợ tao rứt đi không nổi. Bấy lâu đùm bọc nhau còn hơn máu thịt. Gắn bó quá sá rồi, tao ra đi như cắt ruột...

Cam biết, anh Năm sẽ đi thêm một bước về gần miền Nam, sẽ kiêu hãnh vì chịu lương rất thấp, sẽ trở về với những người cùng quê.

Cam trở về Đoàn thu dung, được đọc ngay bản quy định mới nhất của Tổng cục cán bộ: một số quân nhân đỗ vào các trường đại học và cao đẳng có thể trở về phục vụ trong quân đội như ngành Y, Dược, Sư phạm thì cho phong quân hàm, hưởng chế độ như khi tại ngũ. Trong số các ngành khác mà quân đội chưa cần, có nêu rõ tên đại học Tổng hợp, Nông lâm, Thủy lợi... Cậu cán bộ chơi thân ở văn phòng kéo Cam ra sân, rỉ tai:

- Mày đi là phải. Mày thâm niên trung đội trưởng thành tích có thừa, thế mà khi xét đề bạt Đảng ủy cũng bác, “chưa cần thêm cán bộ”, là lý do thôi. Khi xét đề nghị phong quân hàm, các ông ấy chỉ để mày cấp chuẩn úy, lại lý do là “khuyến khích phấn đấu, khiêm tốn học hỏi”. Chuyển ngành thôi, Cam à. Còn may là cái huân chương Chiến thắng hạng ba của mày về kịp rồi, tao đang giữ hộ. Các thứ huân huy khác chỉ có giấy, chẳng được tí đỏ ngực nào, chỉ có huy hiệu Điện Biên được phát thôi, cả những đứa ở xa Điện Biên mấy trăm cây số cũng nhận. Lính địch hậu cánh mình đánh bọp xẹt như du kích xã, chắc các cụ nghĩ thế, không nhìn vào bản thống kê mới đây là tỉ lệ thương vong của lính địch hậu cao hơn nhiều so với lính các đại đoàn chủ lực.

Cam nghĩ nhanh tới lời động viên đã từng nghe: trước kia yêu nước phải tòng quân, đến nay yêu nước là ra khỏi quân đội!. Dù cậu cán bộ kia nói hớ, thì cách xử sự của đơn vị chẳng khác là bao. Ra đi thôi. Hãy dồn sức vào chiến dịch mới: cuộc tấn công vào thành trì khoa học.

Chương 1

Tiến >>

Đánh máy: hoi_Ls
Nguồn: hoi_Ls - NXB HỘI NHÀ VĂN, 1996
VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 9 tháng 8 năm 2019