Thời tiết, không nên oi bức như thế này chứ.
Thời tiết thế này khiến tôi liên tưởng tới đường xá Đài Bắc giữa trưa.
Từng hàng xe chen chúc nhau nhả khí thải, hơi nóng tỏa ra từ điều hòa nhiệt độ của những căn nhà cao tầng,
Dưới ánh nắng chói chang của mặt trời, cột thủy ngân trên nhiệt kế không ngừng dâng cao.
Cái lòng chảo Đài bắc như biến thành Hỏa Diệm Sơn trong Tây Du Ký.
Rất muốn nhờ Tôn Ngộ Không tới tìm quạt ba tiêu của Thiết Phiến công chúa, quạt hết khí nóng đi.
Nhưng tôi lại đâu có ở Đài Bắc, mà đang ở Đài Nam;
Giờ cũng chẳng phải giữa tháng bảy, mà là cuối tháng năm.
Đã mấy ngày liền rồi, thời tiết vẫn cứ lây dây với bạn như vậy, không hề có dấu hiệu chịu thỏa hiệp.
Người còn có thể trốn vào phòng lạnh nghỉ mát, nhưng chó đâu có được may mắn như người.
Nghe nói đám chó vì lè lưỡi ra quá lâu nên thường phát sinh hiện tượng chuột rút.
Tôi trọ trên tầng cao nhất, là nơi gần với thượng đế nhất, cũng là nơi dễ cảm nhận được khí nóng của thượng đế nhất.
Học sinh nghèo nào được quyền trang bị điều hòa nhiệt độ, chỉ đành gắng gượng coi quạt điện như quạt ba tiêu.
Nhưng quạt điện không cách nào giảm bớt khí nóng của thượng đế, mồ hôi của tôi vẫn đổ xuống như mưa.
Xuống phòng nghiên cứu thôi! Tôi nghĩ thầm như vậy, vì trong phòng nghiên cứu có điều hòa.
Nếu thời tiết vẫn cứ oi bức thế này, vậy kẻ không thể không thường xuyên chạy xuống phòng nghiên cứu là tôi,
Chắc sẽ nhanh chóng hoàn thành được luận văn tốt nghiệp của mình.
Tắm nước lạnh một hồi, thay bộ quần áo đã ướt đẫm mồ hôi.
Túi sách trên lưng, mang theo hai quyển sách để trang trí, tôi như trốn khỏi hiện trường hỏa hoạn chạy như điên xuống lầu.
Lúc lên xe máy vì muốn mát mẻ hơn nên ngay cả mũ bảo hiểm cũng không đội.
Tuy có câu nói: “Đổ hồ hôi vẫn tốt hơn đổ máu”,
Nhưng với thời tiết thế này, tôi tình nguyện chịu phạt 500 đồng, khiến ví da đổ một đống máu,
Cũng không muốn đổ thêm một giọt mồ hôi nào nữa.
Cơn gió lướt qua bên mặt không ngờ cũng mang đi chút nóng nực, làm giảm tốc độ đổ mồ hôi.
Dừng xe lại, nhìn thấy con chó Akita màu đen trong trường đang lè lưỡi nhìn lên bầu trời.
Theo ánh mắt nó, tôi cũng ngẩng đầu lên, nhưng không hề há miệng ra.
Thật chẳng ngờ, bầu trời vốn “không một gợn mây”, giờ lại kéo tới “một áng mây đen”.
“Cuối cùng cũng mưa rồi!” Tôi bắt đầu mong chờ cơn mưa đầu mùa năm nay.
(Chó Akita: một giống chó quý của Nhật, được gọi là "quốc khuyển của Nhật Bản”)
Như đáp lại lời thỉnh cầu của tôi, bầu trời vang rền một trận sấm.
Lũ lượt kéo tới, chẳng khác nào âm thanh khi đem bi thép trong máy pachinko ra trút hết vào chậu.
Sau vài ngày giằng co, thần mưa rốt cuộc cũng đánh bại được Tảo Tinh nương, trút một cơn mưa lớn xuống...
Đưa túi sách lên che kín đầu tóc, tôi lại như chạy nạn chui tọt vào phòng nghiên cứu.
Tình cảnh lúc này, hệt như khi gặp được Tín Kiệt.
(Máy pachinko: một trò chơi giải trí có thưởng rất phổ biến tại Nhật Bản. Trong đó “Pachin” là một từ tượng thanh chỉ âm thanh co dãn của cao su và “Ko” có nghĩa là trái bóng.
Tảo Tinh nương là một hình nhân phụ nữ bằng giấy được treo dưới mái hiên khi cầu khẩn trời quang mây tạnh.)
Tôi thở hổn hển, lau gọng kính bị nước mưa làm mờ.
Tuy không có gió lớn trợ uy nhưng ngoài cửa sổ bóng cây cối vẫn lay động không ngừng.
Thật chẳng ngờ đã không mưa thì thôi, mưa một cái lập tức kinh thiên động địa.
Khép chặt cửa sổ có vẻ không che nổi cơn thịnh nộ của mưa, hai cái bàn sát cửa sổ dần dần bị mưa thấm ướt.
Một giọt... hai giọt... ba giọt... dần dần thành một mảng...
Cuối cùng biến thành một vũng.
Tuy nước mưa làm ướt bàn học của tôi nhưng cũng khiến cho ký ức của tôi càng thêm rõ ràng.
Hóa ra cơn mưa nà không chỉ rửa sạch bụi đất trên những con đường nhựa kia, tiêu trừ khí nóng của thượng đế,
Mà còn phá bỏ tấm bùa chú phong ấn tất cả hồi ức giữa tôi và nàng.
Tấm bùa bị bóc đi, những chuyện xưa như thủy triều dâng trào lên trong lòng.
Bước khỏi phòng nghiên cứu, đứng bên ban công, thật muốn xem xem cơn mưa này lớn tới mức nào.
Ngoài cửa sổ đã là một khoảng không trắng xóa, như bao phủ trong một màn sương mù lớn.
Ngay cả một hơi tôi vô ý thở ra, cũng hơi hơi hóa trắng.
Giờ mới khoảng ba bốn giờ chiều nhưng xe cộ trên đường đều đã lấp loáng ánh đèn mờ nhạt phía trước.
Còn áo mưa đủ các loại sắc màu, trong thế giới trắng xám lại đặc biệt nổi bật, rực rỡ.
❆❆❆
Nhớ lại hôm đó bước khỏi “Hollywood KTV”, mưa cũng đầm đìa như vậy.
“Sao trời mưa lớn vậy, anh có mang áo mưa không?” Nàng hỏi tôi với vẻ quan tâm.
“Áo mưa của anh bị gió thổi bay mất lúc phơi ngoài ban công rồi.” Tôi bất đắc dĩ trả lời.
“Bị gió thổi bay mất rồi à? Tiếc quá. Vậy làm sao anh về được đây?”
“Anh ở cũng gần đây thôi! Chạy nhanh một chút, chắc cũng không ướt lắm đâu.”
“Thế... thế... thế anh có thể...” Đột nhiên nàng lại ấp a ấp úng.
“Có thể làm sao?” Tôi lúng túng hỏi lại.
“Anh có thể mặc áo mưa của em không?”
Giọng nói của nàng bỗng trở nên rất nhỏ, nhất là lúc nói tới hai chữ “áo mưa”, tới mức gần như không thể nghe thấy được.
“Không cần đâu. Em cũng cần về mà?” Tôi mỉm cười, khéo léo từ chối lời đề nghị của nàng.
Trời mưa lớn như vậy, chẳng hề có chút dấu hiệu nào cho thấy sẽ ngừng.
Da mặt tôi có dày tới đâu cũng chẳng thể mặc áo mưa của nàng vào rồi để nàng ở lại chỗ này!?
Nàng nghe câu trả lời của tôi xong, khuôn mặt lộ vẻ vô cùng thất vọng.
Cứ như tôi vừa từ chối, không phải một chiếc áo mưa, mà là tâm ý của nàng.
“Em sao vậy? Anh nói sai gì à?”
“Không có gì. Anh đừng có để ướt như chuột... A-no... chuột cái gì ý nhỉ?”
“Nó gọi là chuột lột. Anh đã dạy em rồi mà, em quên rồi à? Lúc về phạt viết ‘chuột lột’ mười lần.”
Tôi cất giọng bông đùa.
“Hai! Tuân lệnh. Lần sau đi học em sẽ nộp lại cho thầy, thầy Thái.”
Nàng mỉm cười. Vậy mới đúng, hiếm hoi lắm mới có một cơn mưa, nàng nên vui lên chứ.
Nàng lấy ra chiếc áo mưa màu tím đỏ của mình, từ từ mặc vào.
Phảng phất như đang mặc một chiếc kimono đắt giá, từng cử chỉ của nàng đều thật nhẹ nhàng.
Đây là lần đầu tiên tôi thấy nàng mặc chiếc áo mưa đó.
Đội chiếc mũ áo mưa lên, nàng thật giống “cô bé quàng khăn đỏ” trong truyện cổ tích, vừa dịu dàng lại vừa đáng yêu.
Chẳng phải nàng nói mình rất thích mặc áo mưa đi dạo trong mưa sao?
Vì sao tôi luôn cảm thấy sắc mặt nàng nhuốm chút buồn bã vậy?
❆❆❆
Đột nhiên, một tiếng sấm vang lên khiến tôi hơi giật mình một chút, ngắt đứt dòng suy nghĩ.
Cũng khiến cho hồn phách tôi từ trong đêm mưa ngoài Hollywood KTV, trở lại bên ban công ngoài phòng nghiên cứu.
Tôi vẫn đứng một mình.
Còn cơn mưa, vẫn như trút nước.
Hóa ra, cho dù bên tôi không có nàng, mưa vẫn sẽ rơi.
“Đàn anh, mắc mưa à?” Một đàn em vừa vặn đi ngang qua, hảo tâm hỏi.
Mắc mưa thì không đến nỗi, bởi vì sau này nàng vẫn đưa chiếc áo mưa màu tím đỏ đó cho tôi.
Còn tôi vẫn luôn cất chiếc áo mưa này trong tủ tài liệu ở phòng nghiên cứu, chưa bao giờ mặc.
Vì nếu trời chỉ mưa lác đác, tôi không nỡ mặc;
Còn nếu mưa to, tôi lại không đành lòng để cơn mưa tầm tã đó vô tình vô nghĩa đánh lên chiếc áo mưa này.
Cho nên tôi lại trở lại trong phòng nghiên cứu, pha một cốc cà phê, để hương cà phê tràn ngập cả gian phòng.
Ngồi trước bàn đọc sách, hưởng thụ sự cô độc khi ngăn cách với cơn mưa.
Lại để tiếng mưa rơi dẫn dắt bản thân bước vào đường hầm thời gian, trở lại những tháng ngày mới quen nàng...
❆❆❆
Nàng tên Itakura Ameko, một cô gái Nhật Bản rất hay cười.
Năm Chiêu Hòa thứ 47 (năm 1972) ra đời tại một thôn xóm nhỏ gần Wakayama, sau mười tuổi di cư tới Osaka.
Năm Bình Thành thứ 6 (năm 1994), sau khi tốt nghiệp khoa tiếng Trung Quốc và khoa văn học tại đại học Kyoto lại một mình tới Đài Loan học tiếng Trung.
Tuy nói là tới học tiếng Trung, nhưng ngoại trừ âm điệu tiếng Nhật khá rõ ra,
Tiếng Trung của nàng cũng đã khá lưu loát.
Quen biết Itakura Ameko có thể coi là trùng hợp! Do Tín Kiệt giới thiệu hai người bọn tôi.
Tín Kiệt là bạn tốt của tôi, khi đó đang học thạc sĩ tại khoa nghiên cứu lịch sử đại học Thành Công.
Cậu ta là một quái nhân, lúc thi vào đại học chẳng ngờ lại chọn hệ lịch sử làm nguyện vọng một.
Vì cậu ta nói mình thích lịch sử, lại thích hóa thân thành các nhân vật lịch sử.
Thế nên có lúc cậu ta là Chu Du cười nói phá binh Tào, có lúc lại là Tô Vũ chăn dê bên biển bắc.
Câu mà cậu ta thích nói nhất là:
“Bài học duy nhất mà loài người học được từ lịch sử là loài người không thể học được bài học nào từ lịch sử.”
Tôi nghĩ, rò ràng là Tín Kiệt chẳng học được bài học nào từ lịch sử, vì cha cậu ta cũng học lịch sử.
❆❆❆
Trước khi gặp Itakura Ameko tầm một năm, tôi quen Tín Kiệt tại thư viện.
Chiều hôm đó, trời bỗng đổ mưa.
Tôi đang đi dạo trong trường, chẳng thể làm gì khác, đành chạy vội tới kiến trúc gần đó nhất trú mưa.
Thật may mắn, đó là thư viện của trường.
Tôi lau nước mưa đầy trên khuôn mặt, cởi chiếc áo khoác, chỉnh sửa đôi chút thần sắc chật vật.
Sau đó tới khu sách lịch sử, tiện tay giở ra đọc giết thời gian.
Cơn mưa rào này, đến rất nhanh nhưng đi lại chẳng nhanh, kéo dài tới vài giờ liền.
Tôi chẳng thể làm gì khác, đành xem từ Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc tới chiến tranh nha phiến.
Dưới đất, ở một góc giá sách, tôi nhặt được một tấm thẻ học sinh.
Chủ nhân của tấm thẻ tên Tạ Tín Kiệt, năm đầu ban thạc sĩ khoa nghiên cứu lịch sử đại học Thành Công.
Trong ảnh chụp, cậu ta để đầu húi cua, đeo một cái kính gọng đen, rất có dáng vẻ học giả.
Tôi đưa tấm thẻ sinh viên vừa nhặt được này tới trả cho quầy thủ thư, nhờ bọn họ thông báo giúp.
Nửa phút sau, Tín Kiệt thở hồng hộc chạy tới:
“Cám ơn cậu... cám ơn cậu... vô cùng cám ơn cậu...”
Thái độ khách khí của Tín Kiệt khiến tôi có ấn tượng rất sâu. Có thể là bởi tôi rất thích lịch sử,
Cho nên tôi rất có hảo cảm đối với sinh viên hệ lịch sử.
“Đừng khách khí... đừng khách khí... cậu không cần khách khí như thế đâu...”
Tôi chỉ như con vẹt, tinh nghịch bắt chước giọng điệu của cậu ta.
“Ơn huệ này, tiểu đệ xin khắc ghi trong lòng.”
Quả nhiên là sinh viên tài cao của viện văn học, vừa mở miệng là lời hay ý đẹp.
“Chỉ chút việc nhỏ, huynh đài đừng quá để ý.”
Chúng tôi nhìn nhau, cùng mỉm cười rồi bắt tay. Tôi bước ra phía cửa.
Mưa vẫn không ngừng trút xuống, vừa rồi chắc đã xem lướt qua chiến tranh Trung Pháp hay chiến tranh Giáp Ngọ.
“Bạn học này, mắc mưa à?”
Tôi quay người lại, Tín Kiệt đang bật ô, mỉm cười nói.
Tôi cười khổ nhún vai.
“Đi ăn nhé! Tớ mời cậu. Coi như báo đáp ân cứu mạng.”
“Cậu khách khí quá, tớ cũng chỉ tình cờ nhặt được thẻ sinh viên của cậu thôi mà.”
“Đối với sinh viên, thẻ còn người còn, thẻ mất người mất. Cho nên xem như cậu vừa cứu tớ một mạng. Đi chứ?”
Tuy sắc trời thật vô “tình” nhưng Tín Kiệt lại rất nhiệt tình.
(Tác giả chơi chữ, chữ tình này là 晴 với nghĩa trời trong, trời quang)
Tôi không tiện từ chối ý tốt của cậu ấy, bởi vậy gật đầu đồng ý.
Cái ô của Tín Kiệt không lớn lắm, vì vậy để tránh bị ướt, chúng tôi đành phải dựa sát vào nhau.
Cũng may tay áo hai người đều rất chỉnh chu, không có cảnh “đoạn tụ chi phích”,
Bằng không, đưới bầu không khí thế này, kề vai tựa má sẽ rất dễ dẫn tới súng ống phát hỏa.
Chúng tôi tới căng tin của trường dùng bữa rồi cùng trò chuyện.
(Đoạn tụ chi phích: điển tích này bắt nguồn từ mối tình giữa Hán Ai Đế và Đổng Hiền. Hán Ai Đế cũng từng sủng ái và phong chức rất cao trong triều cho Đổng Hiền, một người giống phụ nữ, dịu dàng và có khuôn mặt kiều diễm. Có một lần ngủ trưa, Đổng Hiền gối lên cánh tay áo của nhà vua ngủ. Ai Đế muốn quay người nhưng cũng không muốn làm tỉnh giấc của Đổng Hiền nên cắt cánh tay áo của mình. Người ta sau gọi mối tình đồng tính là mối tình cắt tay áo cũng là có nguồn gốc là điển cố này. Khi nhà vua mất, hoàng đế mới là Vương Mãng cực lực phản đối Đổng Hiền. Vì sợ gặp họa và cũng để đáp lại tình yêu của vua dành cho mình, Đổng Hiền và vợ con đã tự sát tại nhà.)
“Bạn học, nên xưng hô với cậu ra sao?” Tín Kiệt khách khí hỏi dò.
“Giờ tớ đang là nghiên cứu sinh năm đầu, cậu nên gọi tớ là đàn anh. Nhưng tớ lại nhỏ hơn cậu một tuổi, cậu cũng có thể gọi tớ là đàn em.
Cho nên tốt nhất cậu cứ gọi tớ là đàn anh đàn em chứ đừng gọi là bạn học.”
“Ha ha ha... cậu thật thú vị. Để tớ giới thiệu trước, tớ là Tạ Tín Kiệt.
‘Tạ’ là Tạ trong Tạ An đại phá trăm vạn đại quân của vua Tiền Tần - Phù Kiên trong trận chiến Phì Thủy.
‘Tín’ là Tín trong Chức Điền Tín Trường (Oda Nobunaga) đánh tan Kim Nguyên Nghĩa Xuyên (Imagawa Yoshimoto) trong trận Okehazama;
‘Kiệt’ là Kiệt trong Trương Thế Kiệt thua Mông Cổ trong chiến dịch Nhai Sơn dẫn tới Nam Tống diệt vong.”
Tôi ngẩn ra một lúc, sau đó bật cười.
Thật không ngờ Tín Kiệt tự giới thiệu lại thú vị tới vậy.
Tôi suy nghĩ một chút rồi bắt chước giọng điệu cậu ta, cũng tự giới thiệu bản thân:
“Tớ tên Thái Trí Hoằng. ‘Thái’là Thái trong Thái Luân phát minh ra kỹ thuật làm giấy cuối thời Đông Hán;
‘Trí” là Trí trong Minh Trí Quang Tú (Akechi Mitsuhide) phản bội giết chết Chức Điền Tín Trường (Oda Nobunaga);
‘Hoằng” là Hoằng trong Hoằng Lịch, tục danh của người tự xưng Thập Toàn Lão Nhân, Thanh Cao Tông, Càn Long Hoàng Đế.”
Thật ra tôi thường nói với mọi người, “trí” trong trí tuệ.
Có điều nếu Tín Kiệt đã muốn làm Chức Điền Tín Trường vậy Trí Hoằng cũng chỉ đành liều mình cùng quân tử làm Minh Trí Quang Tú thôi.
“Ha ha ha... Sau này xin cậu cứ gọi tớ là Tín Kiệt, ngàn vạn lần đừng gọi là Chức Điền Tín Trường.”
“Vậy cũng xin cậu gọi tớ là Trí Hoằng, không cần gọi tớ là Minh Trí Quang Tú.”
“Trí Hoằng, không ngờ cậu cũng biết sử chiến quốc Nhật Bản.”
“Thật ra cũng may, mới đây vừa đọc xong bộ ‘Tokugawa Ieyasu toàn tập’.”
“Hả? Thật sao? Tớ hỏi này, cậu thích nhân vật Tokugawa Ieyasu này à?”
“Không thể nói là thích được, có điều nếu so với Toyotomi Hideyoshi ngông cuồng muốn chiếm đoạt Minh triều, Tokugawa Ieyasu vẫn đáng yêu hơn một chút.”
“Thật ra đánh giá những nhân vật lịch sử thường mang theo tình cảm yêu ghét chủ quan, rất khóc có tiêu chuẩn khách quan, hơn nữa có lúc còn pha lẫn nhân tố phức tạp khác như tính dân tộc.”
“Sao lại nói vậy?”
“Lấy Tokugawa Ieyasu làm ví dụ, cho dù người Nhật Bản trách ông ấy vì chuyện Mạc Phủ Tokugawa thiết lập chính sách bế quan tỏa cảng khiến cho cường quốc phương Tây xâm lấn, phải chịu khuất nhục; nhưng người Nhật Bản hiện giờ lại cực kỳ tôn sùng Tokugawa, nhất là tán thưởng tính cách ẩn nhẫn trong tình thế bất lợi của ông. Thậm chí người nước ngoài còn tin rằng nguyên nhân chủ yếu khiến Nhật Bản có thể nhanh chóng khôi phục sau chiến tranh chính là người Nhật Bản ít nhiều gì cũng đều có tính cách này như Tokugawa.”
Tín Kiệt dùng ngón áp út tay phải đẩy gọng kính, nói tiếp:
“Nhưng nếu để người Trung Quốc đánh giá Tokugawa Ieyasu thì sao? Có lẽ kẻ giết vợ như Tokugawa, sẽ giống Ngô Khởi bị cười khinh bởi hành động giết vợ cầu vinh. Có điều...” Tín Kiệt ngừng lại một chút, uống một ngụm nước.
“Có điều làm sao?”
“Có điều người Nhật Bản lại rất tán thưởng hành động giết vợ như ông ấy.”
Tôi học Tín Kiệt, dùng ngón áp út tay phải đẩy đẩy gọng kính:
“Có lẽ đơn giản là phụ nữ Nhật Bản trong thời chiến quốc vốn không có địa vị gì, cho nên giết vợ với giết chó không có gì khác biệt. Có lẽ các học giả lịch sử của Nhật Bản đều sợ vợ, cho nên trong tiềm thức tán thưởng hành động dám giết vợ của Tokugawa.”
“Ha ha ha... Trí Hoằng, chắc chắn tương lai chúng ta sẽ là bạn tốt.”
“Vì sao?”
“Vì quan điểm của cậu rất thú vị, tuy hơi linh tinh nhưng cũng có thể cung cấp một cái nhìn khác về lịch sử.”
“Tín Kiệt, giờ chúng ta đã là bạn tốt rồi mà. Chẳng phải sao?”
“Ừ, không sai.”
Tín Kiệt thông thái thoải mái khiến tôi có ấn tượng sâu sắc.
Có thể trở thành bạn bè với cậu ấy, đương nhiên là chuyện cầu còn chẳng được.
Tín Kiệt quả nhiên là người học lịch sử, khi nói tới vấn đề lịch sử, cậu ta nói rất rành mạch.
Từ Tần Thủy Hoàng Doanh Chính tới Tuyên Thống đế Ái Tân Giác La Phổ Nghi thời nhà thanh, cậu ta đều hiểu rõ như lòng bàn tay.
“Tín Kiệt, chắc chắn cậu không có bạn gái.”
“Hả? Sao cậu biết?”
“Tớ nghĩ chẳng cô gái nào chịu nổi cái tính thích bàn chuyện lịch sử Trung Quốc của cậu.”
“Ha ha ha... Nói cũng đúng. Nhưng tớ thật sự rất thích nói về những tình tiết trong lịch sử.”
“Vậy cậu nên đổi sang học về lịch sử nước Mỹ mới đúng, chỉ có hai trăm năm ngắn ngủi, nói một lúc là xong.”
“Ha ha ha... Cậu đang chế giễu nước Mỹ đấy!”
Máy hát đã được bật, Tín Kiệt thuật lại chuyện của mình:
“Có lần nói chuyện về Đường Cao Tông Lý Trì với một cô gái, tớ nói tính cách tớ ôn hòa rất giống Lý Trì. Cô ấy lại đột nhiên bảo mình như Võ Tắc Thiên, chuẩn bị mưu đoạt giang sơn Đại Đường.”
“Sau đó thì sao?”
“Đương nhiên tớ không chịu thua rồi, thế nên hóa thân làm Đường Huyền Tông Lý Long Cơ, phục hưng lại nhà Đường.”
“Tín Kiệt, cậu phản ứng tốt thật.”
“Ai ngờ cô ấy phản ứng còn nhanh hơn, cô ấy bảo mình có thể biến thành Dương Quý Phi, vẫn có thể đạp đổ giang sơn Đại Đường.”
“He he... Cô gái này cũng thật đặc biệt! Cậu nên giữ cho chắc vào.”
“Ài... Chỉ tiếc là trước khi tớ kịp hóa thân thành Quách Tử Nghi dẹp loạn An Sơn cô ấy đã bỏ đi rồi.”
“Tín Kiệt, cậu quá vô vị. Cậu nên nói nhiều về chuyện phong hoa tuyết nguyệt chứ.”
“Chẳng có cách nào, đây là bệnh nghề nghiệp của tớ rồi. Mấy cô bé đàn em khóa dưới thường giới thiệu bạn gái cho tớ, nhưng không ai chịu nổi tính khô khan này. Sở trường của tớ là có thể lập tức nói ra bất cứ chuyện lớn nào xảy ra trong một năm nào đó, nhưng lại không thể nhìn một cái lập tức đoán ra cô gái này sinh ra vào năm nào.”
“Tớ cũng có bệnh nghề nghiệp. Tớ học thủy lợi, sở trường là có thể từ tình hình sinh trưởng của cỏ dại trong cống rãnh đoán ra được nó đã bao lâu không được nạo vét, thế nhưng không thể nhìn một cái lập tức đoán ra cô gái này đã bao lâu không có bạn trai.”
“Trí Hoằng, chúng ta có thể coi là cùng chung cảnh ngộ.”
“Ừ. Nhưng cảnh của cậu nặng hơn tớ.”
“Ha ha ha... Khoa lịch sử lắm con gái lắm, để hôm nào tớ giới thiệu cho cậu vài cô.”
“Vậy trước tiên tớ xin cảm tạ cậu đã đại nghĩa diệt ‘thân’.”
Chúng tôi rất ăn ý nhìn nhau một cái, sau đó cùng mỉm cười. Tín Kiệt nói tình bạn như chúng tôi sẽ không có cảnh “thấy lạ tự nghiêng”. Nói cách khác, tức là không bởi thấy giới tính “lạ” mà thay đổi tình bạn.
(Nguyên gốc: Kiến dị tư thiên ~ đứng núi này trông núi nọ; lập trường không vững)
❆❆❆
Sau lần nói chuyện ở căng tin, tôi với Tín Kiệt cũng dần quen thuộc. Tôi thường tới chỗ cậu ta ở để đọc sách, phòng của cậu ấy không lớn lắm, khoảng mười sáu mười bảy mét vuông nhưng gần như chất đầy sách lịch sử. Bạn cùng nhà tôi cũng chẳng khác gì, có điều chất đầy trong phòng bạn tôi lại là tạp chí PLAYBOY, cho nên với người thích đọc sách lịch sử như tôi, phòng của Tín Kiệt là nơi giải sầu tốt nhất.
Tín Kiệt cũng giống tôi, thuê phòng trọ ở bên ngoài, rất trùng hợp là cả hai thuê ở cùng một con đường nhưng lại không cùng ngõ. Cậu ta có hai bạn cùng phòng, một nam một nữ, nam là bạn học cùng lớp, nữ là đàn em trong trường. Đúng là “toàn gia trung liệt”, tất cả đều học lịch sử. Bạn cùng phòng của Tín Kiệt tên là Trần Doanh Chương, theo lời Tín Kiệt thì: “Trần là Trần trong ‘Trần Khang lạm điều’; Doanh là doanh trong ‘ác quán mãn doanh’, Chương là chương trong ‘ác danh liêu chương’.” Còn tên của cô nàng đàn em còn lại, Tín Kiệt đã nói mấy lần nhưng tôi vẫn không nhớ được. Tôi chỉ biết cô ấy xuất thân từ đội điền kinh, sở trường là ba môn ném, từng tham gia giải các trường đại học.
(Trần Khang lạm điều: Cổ lỗ sĩ, không hợp thời.
Ác quán mãn doanh: Tội ác tày trời
Ác danh liêu chương: tiếng xấu vang xa)
Tuy tôi thường tới chỗ Tín Kiệt nhưng không quen mấy với bạn cùng phòng của cậu ta. Tình cờ gặp mặt cũng chỉ gật nhẹ đầu, chào hỏi một câu mà thôi. Mãi tới tận lúc bốn người bọn tôi cùng chơi mạt chược, mới có thể coi là “vì bài bạc mà quen nhau”. Lần đó là bởi đàn em học lịch sử thấy một con chuột, gào toáng lên. Tín Kiệt với Trần Doanh Chương muốn bắt nó nên tìm tòi khắp phòng.
Có điều, chuột thì không tìm được, lại phát hiện một bộ mạt chược.
Tín Kiệt nói, thấy mạt chược mà không đánh sẽ bị trời phạt, thế nên đề nghị mọi người cùng chơi.
“Bọn mình chỉ có ba người thôi, thiếu một sao chơi được.” Trần Doanh Chương xoa xoa bàn tay đã phát ngứa, nói.
“Đừng nhìn em, bạn bè em quen đều là người có tiêu chuẩn đạo đức cao, không biết chơi mạt chược đâu!”
Cô bé đàn em khoa lịch sử nói rất kiên định, có điều lại quên mất bản thân mình biết chơi mạt chược.
“Ài... Ba người thiếu một, đúng là một trong bốn nỗi khổ lớn của cuộc đời.” Tín Kiệt cảm khái cất lời.
Bốn chuyện vui lớn của cuộc đời, mọi người đều biết là:
“Hạn hán lâu ngày gặp mưa dầm, đất khách quê người gặp bạn cố tri, đêm động phòng hoa chúc và lúc được ghi danh bảng vàng.”
Còn bốn nỗi khổ lớn của cuộc đời, Tín Kiệt lại nói thành:
“Đi xe dã ngoại gặp mưa dầm, đất khách quê người trốn kẻ thù địch, tối hè nóng nực bị cúp điện và đánh bài ba người thiếu một chân.”
“Nghĩ ra rồi! Tớ quen một sinh viên bên kỹ thuật, chắc chắn cậu ta biết chơi.” Tín Kiệt đột nhiên nói với vẻ hưng phấn.
“Sao cậu dám chắc cậu ta biết chơi?” Trần Doanh Dương nghi hoặc hỏi lại.
“Sinh viên kỹ thuật toàn tiếp xúc với phương trình và chữ số, quan niệm về lễ nghĩa liêm sỉ tương đối nhẹ.”
“Đàn anh ơi, anh nói cũng ác miệng quá.” Cô bé đàn em khoa lịch sử cười nói.
Thế nên Tín Kiệt gọi điện cho tôi, lúc gọi cậu ta nói:
“Muốn phá Tào công, nghi dùng hỏa công, vạn sự đã chờ, chỉ cần cơ hội.”
“Cậu nói cái khỉ gì thế? Sao lại bắt chước lời Khổng Minh?”
“Nói đơn giản là bọn tớ định chơi mạt chược nhưng chỉ có ba nhà tây nam bắc, cho nên muốn tìm cậu tới làm gió đông.”
“Thật đúng là, ba người thiếu một thì cứ nói thẳng chứ.”
“Trí Hoằng, cậu biết chơi không?”
“Đùa gì thế? Đương nhiên là biết rồi! Đợi lúc nữa tớ chấp cậu tay trái.”
Nhiều nhất 30 đồng, ít nhất 10 đồng, đối với sinh viên thì đây là loại đặt cược dù thua tiền cũng không phá hỏng tình bạn. Tín Kiệt hôm đó không được may mắn, một nhà nướng thịt ba nhà hưởng, còn tôi là người được hưởng nhiều nhất. Đến lượt gió bắc, Tín Kiệt phản công trong cảnh cùng đường, khiến chúng tôi thua liền bảy ván. Vốn dĩ đang từ chỗ nướng cậu ta lại đột nhiên ngửi thấy mùi thơm, tới phiên ba người chúng tôi thành thịt nướng. Tới trận thứ tám, Trần Doanh Chương vứt một cái khăn tay lên trên bàn. Tín Kiệt đang định đổ xúc sắc đột nhiên ngừng lại, quay sang hỏi: “Tiểu Trần, cậu ném khăn tay làm gì?”
“Tỏ ý đầu hàng chứ còn gì! Khi thi đấu quyền anh, huấn luyện viên ném khăn lên sân đấu đồng nghĩa với chịu thua, ngừng đánh. Cũng tương tự như vậy, bỏ khăn tay lên bàn nghĩa là chịu thua, không đánh nữa.”
“Ha ha ha ha...” Tín Kiệt vừa đếm tiền vừa cười nói:
“Thắng thua trên bàn bài cũng như thịnh suy trong linh sử, đều luôn biến hóa thất thường, giữa cõi u minh tự có thiên ý. Tớ như Hán Cao Tổ Lưu bang chém rắn trắng khởi nghĩa, tuy rằng đánh đâu thua nấy, trốn đông trốn tây nhưng cuối cùng trong chiến dịch Cai Hạ lại lật ngược thế cờ, khiến Hạng Vũ phải diễn vở Bá Vương biệt Cơ.”
Tín Kiệt gom tiền, vô cùng đắc ý nói chuyện trên trời dưới biển, lại bắt chước Lưu Bang đánh trống, hát:
“Đại phong khởi hề vân phi dương,
Uy gia hải nội hề quy cố hương,
An đắc mãnh sĩ hề thủ tứ phương.”
(Nguyên gốc: “Đại phong ca” của Lưu Bang
大風起兮雲飛揚,
威加海內兮歸故鄉,
安得猛士兮守四方。
Bản dịch của Huỳnh Minh Đức, nguồn http://www.thivien.net/viewpoem.php?ID=4261
Gió lớn dậy hề, mây tỏa ra
Uy tràn trong nước hề, về quê nhà
Sao được tướng giỏi hề, giữ nước ta.)
Nếu Tín Kiệt là Lưu Bang vậy tôi chắc chắn là Hạng Vũ rồi, bởi người thua nhiều tiền nhất chính là tôi.
Tôi liên tưởng tới Hạng Vũ bị vây khốn tại Cai Hạ, cảnh tượng bi thảm cùng đường mạt lộ.
“Lực bạt sơn hề khí cái thế,
Thời bất lợi hề Truy bất thệ.
Truy bất thệ hề khả nại hà,
Ngu hề Ngu hề nại nhược hà?”
(Dịch thơ:
Sức nhổ núi, khí thế trùm thiên hạ.
Thời bất lợi, Ô Truy chẳng chạy nữa.
Ô Truy chẳng chạy ta biết làm sao đây?
Ngu Cơ nàng hỡi, biết sao đây?
Nguồn: http://www.tiengtrung.org/doc-hieu/t...5%9A%E6%AD%8C/ )
Tới phiên tôi học Hạng Vũ, chuẩn bị cáo biệt với Ngu Cơ.
“Mỹ nhân Ngu Cơ đây!” Cô em khoa lịch sử đột nhiên hét lớn một tiếng khiến tôi giật nảy mình.
Không ngờ cô ấy cũng bắt chước hát theo:
“Hán binh dĩ lược địa,
Tứ diện Sở ca thanh.
Trượng phu ý khí tận,
Tiện thiếp hà liêu sinh”
(Dịch thơ:
Quân Hán lấy hết đất,
Khúc Sở vang bốn bề.
Trượng phu chí lớn cạn,
Tiện thiếp sống làm chi.)
Thân hình cô nàng vốn cường tráng lại bắt chước dáng vẻ của Ngu Cơ, khiến mỹ nhân Ngu Cơ biến thành “Ngu Cơ” khách làng chơi tới tiêu khiển.
(Tác giả chơi chữ, chữ Ngu thứ 2 là 娱 nghĩa là tiêu khiển)
Nếu thật sự phải dẫn ả Ngu Cơ này trở lại Giang Đông, tôi thà tự vẫn bên bờ Ô Giang.
Chỉ còn mình Trần Doanh Chương chưa phát điên.
Bởi thế ánh mắt Tín Kiệt đẩy sang phía cậu ta, xem cậu ta sẽ trở thành nhân vật lịch sử nào từng ngã xuống dưới tay Lưu Bang.
“Ta là Hoài Âm Hầu Hàn Tín. Lưu Bang ơi hỡi Lưu bang, không có Hàn Tín ta, nào lập nên cơ ngơi triều Hán?
Sau khi ngươi thống nhất thiên hạ, công thần đầu tiên ngươi đối phó, thật chẳng ngờ lại là ta đây! Ài......”
Trần Doanh Dương lúc vừa rồi ném khăn tay, giờ không cam lòng yếu thế, bắt chước Hàn Tín, trầm giọng ngâm lên:
“Cao điểu tẫn hề lương cung tàng,
Giảo thỏ tử hề tẩu cẩu phanh,
Địch quốc diệt hề mưu thần vong.”
(Chim kia gục rồi cất cánh cung
Thỏ khôn chết hết nấu chó săn
Địch quốc đã trừ diệt mưu thần)
Sau chiến dịch Cai Hạ trên bàn cờ bạc, Lưu Bang mở lòng từ bi mời bọn tôi tới đường Đông Ninh uống bia ăn nhậu.
“Dẫu sao đây cũng là tiền của phi nghĩa mà!” Lưu Bang đĩnh đạc nói.
Của phi nghĩa ở đâu ra? Đây rõ ràng là tiền mồ hôi nước mắt của bọn tôi cơ mà!
Sau một lúc ăn ăn uống uống, tôi cũng bắt đầu quen với Trần Doanh Chương coi mình như Hàn Tín,
Với đàn em khoa lịch sử tự nhận mình là Ngu Cơ.
❆❆❆
Trần Doanh Chương có hai cô bạn gái, một người ở Đài Nam, người còn lại ở Đài Bắc.
Ở Đài Nam, mới quen nhau một thời gian ngắn; ở Đài Bắc, đã quen nhau một thời gian dài.
Trần Doanh Chương thường nói: “Kẻ được thiên thời ắt mất địa lợi.”
Cho nên quen nhau càng lâu thì ở càng xa.
“Vậy cậu thích ai hơn?” Có lần tôi tò mò hỏi cậu ta.
“Tớ thuộc cung Thiên Bình, đương nhiên công chính nghiêm minh, tuyệt đối không thiên vị.”
Trước giờ tôi mãi tôi vẫn không nhớ nổi tên đàn em khoa lịch sử, đành phải gọi cô ấy là Ngu Cơ.
Cô ấy lại luôn miệng, chỉ cần tôi có gan gọi Ngu Cơ, cô ấy cũng có gan nhận.
Ngu Cơ thân cao tới 1m72, còn từng tập cử tạ, song thật ra lại là một cô gái rất tinh tế.
Những chuyện lớn lớn nhỏ nhỏ trong phòng Tín Kiệt lúc thường đều do cô ấy quản lý.
Ngu Cơ nói mình với bạn trai quen nhau là một chuyện “bất ngờ”.
Chuyện là có lần cô nàng chạy bộ trong sân trường, va phải một chàng trai đạp xe nên mới quen nhau.
Có điều, người bị ngã lại là chàng trai kia chứ không phải Ngu Cơ.
Sau đó, cậu ta trở thành bạn trai của Ngu Cơ.
Cho nên tôi vẫn luôn lấy chuyện đó ra răn dạy bản thân, nhắc nhở chính mình khi đi xe trong trường phải thật cẩn thận.
❆❆❆
Năm 1994, một ngày tháng chín mát mẻ, Tín Kiệt gọi điện cho tôi:
“Alo, tôi là con trai bất tài của Lưu Bị, Lưu Thiện. Trí Hoằng có đó không?”
Thói xấu của Tín Kiệt lại nổi lên rồi, chắc tới tám phần mười cậu ta đang nghiên cứu sử tam quốc.
“Tôi không phải Trí Hoằng, tôi là Triệu Tử Long đơn thương độc mã cứu chủ tại dốc Trường Bản, Dương Dương.”
“Ha ha! Trí Hoằng, để cảm tạ ơn cứu mạng của cậu, tối nay mang quà tới mừng sinh nhật tớ đi!”
Tối hôm đó, trong tiệc sinh nhật của Tín Kiệt, lần đầu tôi và Itakura Ameko gặp mặt.
❆❆❆
Thật ra người đầu tiên quen Itakura Ameko không phải là tôi cũng chẳng phải Tín Kiệt, mà là Ngu Cơ.
Kỳ hè năm 1993, Ngu Cơ đăng ký học chương trình “sử Trung Quốc hiện đại”.
Còn Itakura Ameko tới Đài Loan vào đầu tháng 7 năm 1993, tuy vẫn luôn học tại khoa tiếng Trung,
Nhưng cũng thường tới khoa lịch sử nghe giảng sử Trung Quốc hiện đại.
Giáo sư giảng dạy sử Trung Quốc hiện đại là một nhà giáo già, từng tự thân trải qua chiến tranh thế giới thứ hai.
Có một lần khi lên lớp, giảng tới quãng lịch sử này thậm chí không tự chủ được, đôi mắt hai hàng lệ.
Ông khóc lóc than thở, lại không ngừng lên án sự hung ác tàn bạo của quân Nhật.
Lúc đó chẳng biết Itakura Ameko lấy dũng khí từ đâu ra, không ngờ lại rụt rè giơ tay đặt câu hỏi:
“Giáo sư, xin lỗi. Khi em học đại học tại Nhật Bản, sách lịch sử không viết như vậy.”
Khi đó Ngu Cơ mới biết Itakura Ameko ngồi ngay bên cạnh mình là người Nhật Bản!
Bầu không khí trong lớp học đột nhiên trở nên căng thẳng, Ngu Cơ bắt đầu lo lắng phản ứng của giáo sư.
Kết quả giáo sư chỉ nặng nề thở dài một tiếng rồi nói:
“Ài... Thật không ngờ, không chỉ người Trung Quốc cố quên đi quãng lịch sử này mà cả người Nhật Bản cũng vậy...
Thôi vậy... Sau khi khai giảng học kỳ sau chuyển tới học lớp của tôi! Tôi sẽ dạy trò lịch sử chính xác.”
Sau khi tan học, Itakura Ameko chủ động hỏi Ngu Cơ một số thủ tục chọn lớp học,
Lòng vẫn còn canh cánh những lời lên án vừa rồi của giáo viên.
“Hon-do?” (Có thật không?) Itakura Ameko trợn tròn hai mắt hỏi Ngu Cơ.
“Chắc là thật!? Trên sách lịch sử Đài Loan viết thế mà. Dù sao bọn mình cũng không trải qua thời đại đó.”
Câu trả lời của Ngu Cơ thật ra rất khách quan, cùng là một sự kiện trong lịch sử, nếu người Nhật Bản đã có cách nói riêng của mình,
Vậy sao người Đài Loan không tự có một cách giải thích khác của bản thân?
Chân tướng lịch sử ra sao không nên bị vặn vẹo, nhưng những người ghi chép lại lịch sử lại có lập trường riêng của mình.
Thế là Ngu Cơ trở thành người bạn Đài Loan đầu tiên của Itakura Ameko.
Ngu Cơ thường chủ động mời Itakura Ameko đi ăn, cũng thường dẫn cô ấy đi dạo chơi khắp nơi.
Được Ngu Cơ giới thiệu, Itakura Ameko cũng quen Tín Kiệt và Trần Doanh Chương.
Nhưng trước sinh nhật Tín Kiệt, tôi vẫn không có cơ hội quen Itakura Ameko.
Sau này Ngu Cơ mới nói, nàng cũng không mấy hảo cảm với người Nhật Bản, ngoại trừ ba anh chàng đẹp trai trong “Đội thiếu niên”.
“Vậy sao lúc đó hai người lại trở thành bạn bè?” Tôi hiếu kỳ hỏi.
“Ừm... Cô ấy rất thân thiết!” Ngu Cơ nghĩ cả nửa ngày mới nặn ra được lý do này.
“Thân thiết? Có phải là tự ‘thân’ trải nghiệm nên mới biết nỗi đau khi ‘thiết’?” Tôi vẫn bán tín bán nghi.
“Anh đừng nói linh tinh nữa. Có lẽ do ánh mắt Itakura Ameko rất thành khẩn.”
“Thành khẩn? Hai chữ này có thể dùng để tả ánh mắt à? Vậy lỗ tai tôi có phải rất thực tế hay không?”
“Ai da! Tóm lại là em biết cô ấy là một cô gái rất tốt!”
(Đội thiếu niên: ban nhạc đầu tiên của Nhật Bản bước ra thế giới.)
❆❆❆
Hôm tiệc sinh nhật Tín Kiệt, Ngu Cơ cũng dẫn cả Itakura Ameko tham gia.
Thế nên Tín Kiệt giới thiệu nàng:
“Trí Hoằng, đây là đàn em khoa lịch sử mà tớ mới quen...”
Cậu ta chỉ vào một cô gái mà từ lúc vào cửa tới giờ, nụ cười trên môi chưa bao giờ tắt.
Cô ấy vẫn ngồi quỳ gối trên miếng đệm lót, lắng nghe cẩn thận từng người trò chuyện nhưng không hề xen vào.
Ánh mắt trong sáng, làn da trắng trẻo, lại thêm hai chiếc răng khểnh đã gần bằng quỷ hút máu,
Khiến nàng trông thật sự không giống người trung thổ.
"Hai! Wa-Da-Si-Wa Itakura Ameko Des, Ha-Zi-Me-Ma-Si-Te, Do-Zo, Yo-Ro-Si-Ku."
Nàng đột nhiên đứng dậy, khom người 90 độ thực hiện một lễ chào tiêu chuẩn với tôi,
Đồng thời dùng tiếng Nhật lưu loát chặn lời Tín Kiệt.
Ô! Bô lô ba la cái gì vậy? Hóa ra nàng thực sự là người ngoại quốc!
Ta nhìn Tín Kiệt cầu viện nhưng cậu ta chỉ run run khóe miệng,
Nhìn cái là biết đang cố nhịn cười.
Tôi vò đầu bứt tai, không biết trả lời ra sao, vẻ mặt ngạc nhiên ngây ra tại chỗ...
“Xin lỗi, em là Itakura Ameko. Lần đầu gặp mặt, xin anh chỉ giáo thêm.”
Nàng nhanh chóng đổi giọng, dùng thứ tiếng Trung hơi đặc biệt của mình chào thêm một lần nữa, đồng thời lại cúi người 90 độ thi lễ.
Như bị nàng làm ảnh hưởng, tôi cũng luống cuống chân tay cúi mình gần 90 độ chào lại.
“Anh là Thái Trí Hoằng, cũng lần đầu gặp mặt, cũng xin chỉ giáo thêm.”
Tín Kiệt thấy chúng tôi như vậy, cuối cùng không nhịn nổi cười phá lên.
“Ameko, Trí Hoằng là sinh viên kỹ thuật, tính cách không tồi, sau này em có thể nhờ cậu ấy giúp đỡ.”
Tín Kiệt chỉ vào tôi lúc này mặt đang đỏ tới tận mang tai, giới thiệu cho nàng lúc này khuôn mặt cũng đỏ chẳng kém gì tôi.
“Hai! Thái-san, sau này mong anh giúp đỡ, A-Ri-Ga-Do."
Nàng đỏ mặt trả lời, song vẫn không quên cúi người 90 độ thi lễ.
Còn tôi, lần này lại ngượng ngùng gãi gãi đầu.
“Trí Hoằng, đưa phần này cho Ameko.”
Tín Kiệt cắt một miếng bánh gato, khóe miệng cong cong, chỉ về phía Ameko, giọng nói cũng hạ thấp xuống.
Tôi không đoán nổi vì sao Tín Kiệt lại lộ vẻ thần bí như vậy, chẳng lẽ định chơi tôi một vố?
Tôi buồn bực cầm miếng bánh gato, đưa tới cho nàng.
“Tiểu thư Itakura, mời dùng.”
“A-Ri-Ga-Do. Thái-san, anh cứ gọi em là Ameko.”
“A┅A┅Ame┅┅”
“A me” suốt cả nửa ngày vẫn không biết nên đọc tiếp ra sao.
“A-me-ko. Ame nghĩa là “vũ” (mưa); Ko là “tử”, cho nên em là Ameko.”
Nàng mỉm cười giải thích.
“Ameko, đã quen ở Đài Loan chưa?”
Dùng câu này để mở đầu, tuy lực thì chưa đủ nhưng tạm coi như hợp tình hợp lý.
Nếu không thì hỏi cái gì? Chẳng lẽ hỏi sao cô ấy lại chạy tới Đài Loan học tiếng Trung?
Câu đó chắc chắn đã bị hỏi tới phát phiền rồi, hơn nữa không khéo do người ta ăn no rửng mỡ không có chuyện gì làm thôi.
“Mọi thứ đều rất tốt. Đài Loan là nơi rất tuyệt, em rất thích.”
“Khi nói chuyện với mọi người không có vấn đề gì chứ?”
“Ừm, chỉ có điều đôi lúc em không hiểu được tiếng Đài.”
“Ở Đài Nam mà không hiểu được tiếng Đài thật cũng hơi phiền.”
Tôi lên tiếng phụ họa, nhưng sau đó lại chẳng biết nói gì.
Còn khi nói chuyện với tôi, Ameko luôn mỉm cười nhìn thẳng vào mắt, chăm chú lắng nghe.
Sợ cô ấy nghe không hiểu cho nên tôi cố gắng giảm chậm tốc độ nói lại, cũng bỏ đi những câu chữ tương đối tối nghĩa.
Nói chuyện như vậy, không mệt mới là lạ!
“Trí Hoằng, qua đây chút.”
Tín Kiệt lên tiếng thật đúng lúc, hóa giải nguy cơ giúp tôi.
“Có chuyện gì vậy?” Tôi tới cạnh cậu ta hỏi.
“Ameko trông không tệ chứ!?” Tín Kiệt cười chẳng chút hảo ý.
“Cậu gọi tớ sang chỉ vì cái này?”
“Đương nhiên không phải rồi! Tớ định tặng cậu một cơ hội ngàn năm có một.”
“Cơ hội gì? Có phải bảo cậu viết tớ là người nhận trong bảo hiểm tai nạn bất ngờ không?”
“Cậu bớt lảm nhảm đi! Là thế này, Ameko muốn tìm người dạy em ấy tiếng Trung, mà em ấy cũng có thể dạy tiếng Nhật.”
“Thế thì sao?”
“Cho nên sướng cho tên thối tha nhà cậu chứ sao.”
“Xin cậu! Sao lại tìm tới tớ? Tớ đâu có học tiếng Nhật?”
“Sao lại không học tiếng Nhật?”
“Thứ nhất, tớ không thích Nhật Bản; thứ hai, học tiếng Nhật với tớ không có tác dụng gì.”
“Cậu chưa từng nghe câu ‘đừng từ chối chỉ vì người nói’ à? Đừng có vì ghét người Nhật Bản mà không thích học tiếng Nhật chứ!”
“Không phải tớ ‘ghét’, tớ chỉ ‘không thích’ người Nhật Bản thôi, hai thứ này khác nhau đấy nhé.”
Vì sao lại không thích? Tôi cũng chẳng giải thích được. Chắc do cảm giác thành kiến!?
Có lẽ ngoại trừ thù hận trong lịch sử ra, còn một lý do khác nảy sinh từ chuyện kinh tế Nhật Bản rất thịnh vượng,
Đó là cảm giác bất mãn do đố kỵ lâu ngày.
“Trí Hoằng, tớ biết cậu còn chút thù hằn dân tộc với Nhật Bản. Nhưng có câu ‘tội chẳng tới vợ con’
Cho dù người đàn ông đã làm sai chuyện gì thì vợ con hắn cũng vẫn vô tội, đúng không?”
Tín Kiệt nói rất có lý, chỉ có điều thành kiến này của tôi đâu phải chỉ mới một hai ngày.
“Em ấy có thể vô tội nhưng không có nghĩa là tớ không thể không thích. Nói chung, tớ không muốn học tiếng của giặc Oa.”
“Tớ hỏi câu này, xe máy của cậu có phải do Nhật Bản chế tạo không? Máy thu âm với tivi Sony thì sao?
Còn cả máy tính Casio? Máy móc thí nghiệm khoa học? Những thứ đó có cái nào không phải đồ của Nhật?
Cậu có gan thì đừng dùng đồ Nhật Bản nữa rồi hãy quay lại đây khoe tình thần dân tộc cao thượng với tớ.”
Tín Kiệt không ưa nổi thành kiến của tôi với người Nhật, bắt đầu lên giọng dạy bảo.
“Cái đó đâu có giống! Chính vì cuộc sống bình thường đã dùng nhiều đồ Nhật Bản như vậy cho nên càng không muốn linh hồn mình cũng bị Nhật Bản vấy bẩn.”
“Cậu vớ vẩn nó vừa thôi! Cậu vẫn học tiếng Anh, chẳng lẽ thích bị nước Mỹ vấy bẩn?”
“Tiếng Anh là ngôn ngữ quốc tế thông dụng cơ mà! Sao lại đánh đồng với tiếng Nhật được. Hơn nữa tớ học tiếng Anh không tốt lắm cho nên linh hồn vẫn rất trong sạch.”
Tôi nói không lại Tín Kiệt, đành giở giọng cưỡng từ đoạt lý.
“Cậu đừng từ chối liên tục thế này nữa, làm hay không làm nói thẳng một câu nào!”
“Thật ra không phải tớ quá bài xích tiếng Nhật, chỉ có điều thấy không cần phải học thôi.”
“Cậu thật chẳng biết điều gì cả, bao nhiêu đàn em hẹn trước với tớ, tớ cho cậu, cậu lại dám không nhận!?”
“Nếu đã nhiều người tranh cướp như vậy cậu cứ công khai tỷ văn chiêu thân là được mà! Huống hồ tớ là sinh viên kỹ thuật, trình độ tiếng Trung làm sao khá hơn đám sinh viên khoa văn bọn cậu được.”
“Cậu không hiểu rồi. Giả sử bảo sinh viên đại học tới dạy học sinh tiểu học toán cộng là ‘dùng dao mổ trâu giết gà’.
Nếu trình độ tiếng Trung của Ameko như con gà vậy sinh viên khoa văn bọn tớ chính là dao mổ trâu.
Cho nên dao thái thịt như cậu lại vừa hợp lúc cần sử dụng.”
Tín Kiệt vỗ vỗ vai tôi, nói với vẻ như cười mà chẳng phải cười.
Quả nhiên là sinh viên khoa văn, ngay cả lúc nói mỉa người khác cũng chẳng lộ chút dấu vết nào.
“Con dao thái thịt như tớ là đủ rồi à?”
“Đương nhiên là đủ rồi! Hơn nữa cậu còn họ Thái, trời sinh là dao thái thịt rồi.”
“Nhưng mà...”
“Không có nhưng nhị gì nữa. Huống hồ cậu cũng khá thông thạo tiếng Đài! Ameko cũng muốn học tiếng Đài.
Nói thật nhé, nếu không phải do tớ không biết dạy tiếng Đài, làm gì tới lượt cậu.”
“Hóa ra là thế. Vì cậu không thể đảm nhiệm được nên mới nghĩ đến tớ.”
“Đương nhiên rồi! Nếu không phải vì cậu là bạn tốt nhất của tớ, tớ đã chẳng buồn giúp đỡ cậu thế này. Cảm động không!?”
“Được rồi! Tớ đồng ý là được chứ gì!”
Tín Kiệt tới trước mặt Ameko, chỉ vào tôi nói:
“Ameko, trình độ tiếng Trung của Trí Hoằng cao hơn anh, sau này em có thể học tập cậu ấy.”
Tên chết tiệt này! Vừa rồi còn bảo tôi là dao thái thịt, mình là dao mổ trâu, giờ lại kêu dao thái thịt sắc hơn dao mổ trâu.
Tôi thật sự không hiểu đây là khen ngợi hay là châm chọc nữa.
“Thái-san, sau này nhờ cả vào anh.”
Ameko mỉm cười lộ hai chiếc răng khểnh, hưng phấn nói. Đương nhiên, động tác đặc trưng kia cũng lại xuất hiện.
“Cũng vậy cả thôi, xin đừng khách khí.”
❆❆❆
Từ đó trở đi, bảy đến chín giờ tối thứ ba và thứ năm mỗi tuần, Ameko sẽ tới chỗ tôi.
Một tiếng đầu tiên, tôi dạy nàng tiếng Trung, một tiếng sau, nàng dạy tôi tiếng Nhật.
Trình độ tiếng Nhật của tôi, có thể nói là mười khiếu thông chín khiếu.
Nói cách khác, tức là một chữ cũng không biết.
Cho nên nàng buộc lòng phải dạy tôi từ đầu.
Còn trình độ tiếng Trung của Ameko vốn không kém, cho nên không tính là tôi dạy nàng tiếng Trung.
Nhiều lắm là dạy nàng làm sao thưởng thức thơ Đường văn Tống mà thôi.
Thi thoảng lại xen chút tiếng Đài.
Bởi vậy khi tôi và Ameko nói chuyện, chủ yếu là dùng tiếng Trung.
Nếu tiếng Trung vẫn như nước đổ đầu vịt, vậy đành phải chuyển sang dùng tiếng Anh.
Tuy tiếng Anh của tôi không tốt, nhưng cũng đủ để cười nhạo người Nhật Bản rồi.
Tôi cũng cảm thụ thật sâu sắc câu nói mỉm cười là tiếng nói chung của loài người.
Bởi khi chúng tôi không hiểu ý của đối phương đều sẽ nhìn nhau mỉm cười.
Nhớ lại lần đầu tiên khi học, tôi hỏi cô ấy:
“Ameko, sao em lại tên là “Vũ” Tử?”
(Ameko viết theo Hán tự là Vũ Tử 雨子)
Nàng kể cho tôi, vì mình sinh trong ngày mưa nên cha đặt tên là Vũ Tử.
Thì ra là vậy.
Cho nên nếu sinh ra trong ngày trời nắng sẽ tên là Tình Tử? Ngày tuyết rơi tên là Tuyết Tử?
Vậy nếu sinh ra vào một ngày gió lớn ở Đài Loan, chẳng lẽ tên là Phong Tử?
(Tác giả chơi chữ, Phong ở đây là gió, nhưng Phong Tử đồng âm với thằng điên)
Xem ra lúc đặt tên người Nhật Bản cũng thật hồ đồ.
Nàng nói cũng bởi vậy mà nàng rất thích những ngày mưa.
Lúc trước chọn tới Đài Loan chứ không phải đại lục, có một phần là do Đài Loan nhiều mưa.
Nàng lại nói mình rất có duyên với những ngày mưa.
Thậm chí lúc thi đại học ở Nhật Bản cũng đúng ngay ngày mưa.
“Cho nên kết quả thi của em rất tốt.”
Nàng khẽ mỉm cười, không quên lộ cặp răng khểnh.
Sau này tôi rất muốn kể cho Ameko, mùa đông ở Đài Nam rất ít mưa.
Nếu muốn gặp mưa, nên đến Đài Bắc mới đúng.
Có thể nói, nếu mưa mùa đông ở Đài Bắc là chuyện thường như cơm bữa,
Vậy mưa mùa đông ở Đài Nam sẽ quý giá như vi cá bào ngư.
Nhưng từ đầu tới cuối tôi đều không nói cho Ameko, không phải vì sợ nói ra sẽ khiến nàng thất vọng,
Mà là sợ nàng sẽ chuyển tới học ở Đài Bắc thật, khiến tôi thất vọng.
❆❆❆
Chỗ trọ của Ameko chỉ cách tôi hai con đường, có thể coi là gần.
Nàng có hai bạn cùng phòng, Naomi Wada và Inoue Rena, đều là du học sinh Nhật Bản.
Naomi vóc người mập mạp, làn da ngăm đen, nghe nói sau khi tới Đài Loan thường xuyên tới bãi biển tắm nắng.
Vì quê của Naomi ở vùng Kanto Nhật Bản, một năm nhiều lắm cũng chỉ có hai tháng thật sự là mùa hè.
Hèn gì cô ấy cực kỳ thích khí hậu nóng bức ở Đài Loan này.
Inoue có khóe mắt hơi xếch lên, gò má cũng khá cao, hơi giống người Hàn Quốc.
Bạn trai Naomi là sinh viên nước ngoài ở Hồng Kông, còn Inoue, nghe nói bạn trai cô ấy ở Nhật Bản.
Thật ra ấn tượng của tôi đối với người Nhật Bản rất cứng nhắc.
Nói là “ấn tượng” cũng không thật hợp lý, bởi trước khi quen Ameko tôi chưa từng tiếp xúc với người Nhật Bản.
Mọi hiểu biết liên quan tới Nhật Bản hay người Nhật Bản đều đến từ tivi, sách vở, manga hay ý kiến của người khác.
Người Nhật Bản chăm chỉ, tuân thủ pháp luật, đoàn kết, có trật tự, háo sắc và gian trá, bắt nạt kẻ yếu nhưng lại sợ kẻ mạnh, tự ti mà lại tự đại.
Những gì tôi được biết, hay có thể nói, những thông tin không quá chính xác mà tôi lượm nhặt được là như vậy.
Còn con gái Nhật Bản là đại biểu tốt nhất cho hai chữ hiền thục.
Thượng đế nói, nếu có người tát lên má phải của bạn, bạn còn phải giơ má trái ra cho hắn tát tiếp.
Nhưng nghe nói con gái Nhật Bản còn kinh khủng hơn, không chỉ để bạn tát lên má trái của mình mà còn hỏi bạn có đau tay không.
Hay nên nói, chuyện kinh khủng hơn, không phải con gái Nhật Bản, mà là không ngờ tôi lại tin vào chuyện này,
Khiến sau này nó trở thành ấn tượng cứng nhắc của mình.
May là người Nhật Bản cũng có ấn tượng cứng nhắc đối với người Trung Quốc, cho nên tôi cũng không cần tự trách mình quá nhiều.
Người Nhật Bản cảm thấy người Trung Quốc, bẩn, loạn, ích kỷ, hám tiền, để râu cá trê, tóc thắt bím, vừa gian trá lại vừa tà ác.
Đây là đặc điểm phổ biến của người Trung Quốc trong những manga Nhật Bản mà tôi đọc.
Xem ra, “gian trá” là điểm chung của người Trung Quốc và người Nhật Bản.
Cho nên, khi mới quen Ameko, ấn tượng cứng nhắc của tôi đối với con gái Nhật lại càng thêm sâu sắc.
Vì nàng luôn có vẻ thật hiền dịu, khi nói chuyện hầu như lúc nào cũng mang theo nụ cười ngại ngùng.
Có điều sau này quen Naomi Wada với Inoue Rena, mới khiến cho ấn tượng cứng nhắc này của tôi xoay chuyển hẳn.
Đó là một buổi tối giáng sinh, Ngu Cơ mời cả Naomi, Inoue cùng AmeKo tới chơi.
Sau khi uống ba chén hoa hồng đỏ vô bụng, Naomi với Inoue bắt đầu thoải mái cất tiếng ca.
May là lúc đó đang đông chứ không tôi thật sự cho rằng các nàng sẽ kích động tới mức nhảy thoát y.
“May là” là từ mà tôi dùng, còn từ Trần Doanh Chương dùng lại là “đáng tiếc”.
Chương 1
Tiến >>
Bìa: Lê Thanh Minh
Nguồn: tangthuvien.com
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 9 tháng 6 năm 2021