Sống Đọa Thác Đày

mạc ngôn

dịch giả: trần trung hỷ

Quyển một: Kiếp lừa phóng đãng - 1 -

nguyên bản tiếng hoa sinh tử bì lao của mạc ngôn
*
chịu nhục hình kêu oan trước điện,
bị khinh khi chuyển thế làm lừa.

NHÂN VẬT CHÍNH

1. Tây Môn Náo:

Địa chủ làng Tây Môn. Bị bắn chết, đầu thai thành lừa, trâu, lợn, khỉ, Lam Ngàn Năm Đầu To - Người kể chuyện.

2. Lam Giải Phóng:

Con của Mặt Xanh và Nghinh Xuân, từng làm chủ nhiệm hợp tác xã cung tiêu huyện, phó huyện trưởng - Người kể chuyện.

3. Bà Bạch:

Vợ chính Tây Môn Náo.

4. Nghinh Xuân:

Vợ hai Tây Môn Náo, sau giải phóng làm vợ Mặt Xanh.

5. Ngô Thu Hương:

Vợ ba Tây Môn Náo, sau giải phóng làm vợ Hoàng Đồng.

6. Mặt Xanh:

Làm công trong nhà Tây Môn Náo, sau giải phóng làm ăn cá thể, là hộ cá thể duy nhất ở Trung Quốc.

7. Hoàng Đồng:

Đội trưởng dân quân, đại đội trưởng đại đội sản xuất.

8. Tây Môn Kim Long:

Con Tây Môn Náo và Nghinh Xuân, sau giải phóng đổi thành họ Lam. Trong cách mạng văn hóa từng giữ chức chủ nhiệm Hồng vệ binh làng Tây Môn, trại trưởng trại lợn, bí thư chi đoàn. Sau cải cách giữ chức bí thư chi bộ Tây Môn, tổng giám đốc khu du lịch mở.

9. Tây Môn Bảo Phượng:

Con Tây Môn Náo và Nghinh Xuân, em Kim Long. Cán bộ y tế Tây Môn, ban đầu là vợ Mã Lương Tài, sau là vợ Thường Thiên Hồng.

10. Hoàng Hỗ Trợ:

Con Hoàng Đồng và Thu Hương, vợ Kim Long.

11. Hoàng Hợp Tác:

Em gái Hỗ Trợ, vợ Lam Giải Phóng.

12. Bàng Hổ:

Anh hùng quân giải phóng, từng làm bí thư xưởng gia công số 5.

13. Vương Lạc Vân:

Vợ Bàng Hổ.

14. Bàng Kháng Mỹ:

Con Bàng Hổ, từng làm bí thư huyện ủy, vợ Thường Thiên Hồng, tình nhân của Kim Long.

15. Bàng Xuân Miêu:

Con Bàng Hổ, em Kháng Mỹ, tình nhân, vợ kế Giải Phóng.

16. Thường Thiên Hồng:

Thời cách mạng văn hóa làm phó chủ nhiệm ủy ban cách mạng huyện, sau làm phó đoàn trưởng đoàn kịch huyện.

17. Mã Lương Tài:

Hiệu trưởng trường tiểu học Tây Môn.

18. Lam Khai Phóng:

Con Lam Giải Phóng và Hoàng Hợp Tác, làm phó đồn cảnh sát ga.

19. Bàng Phượng Hoàng:

Con gái Bàng Kháng Mỹ.

20. Tây Môn Hoan:

Con nuôi Tây Môn Kim Long.

21. Mã Cải Cách:

Con Tây Môn Bảo Phượng.

22. Hồng Thái Nhạc:

Thôn trưởng, bí thư chi bộ làng Tây Môn

23. Trần Quang Đệ:

Khu trưởng, huyện trưởng Đông Bắc Cao Mật.

1

Chịu nhục hình kêu oan trước điện,

Bị khinh khi chuyển thế làm lừa.

Câu chuyện của tôi bắt đầu từ ngày một tháng một năm một ngàn chín trăm năm mươi.

Trước cái ngày ấy hai năm, không ai có thể tưởng tượng được rằng dưới âm tào địa phủ, tôi đã chịu cơ man nào là cực hình tàn khốc. Nhưng lần thẩm vấn nào cũng thế, tôi vẫn một mực kêu oan. Tiếng kêu bi thương thê thiết của tôi vang lên khắp các ngõ ngách của điện Diêm La. Nó cứ vang mãi vang mãi bất tuyệt. Mang tiếng là một trang nam tử, tôi không thể chấp nhận một sự áp đặt, không hề ân hận về chính mình. Tôi biết, trong thâm tâm bọn tiểu quỷ Diêm La rất thán phục tôi. Tôi cũng biết, Diêm Vương đã chịu hết nổi tiếng kêu lải nhải của tôi. Nhưng trớ trêu thay, cực hình vẫn cứ tiếp tục hành hạ tôi, càng ngày càng độc địa, bởi họ muốn tôi nhận tội. Rồi một ngày kia, tôi bị bỏ vào vạc dầu, thân thể tôi bị bọn tiểu quỷ nhào lên lật xuống giống như người ta rán một con gà, đau đớn không thể tả. Sau đó, chúng dùng gậy xiên qua người tôi, đưa lên cao rồi đem đặt trên đại điện. Từ trong thân thể tôi rỉ ra những giọt dầu tí tách, chảy thành dòng trên sàn, từ đó bốc lên một làn khói vàng vàng. Bọn tiểu quỷ vẫn không ngừng phát ra những âm thanh giống như tiếng kêu của loài dơi hút máu người. Rất cẩn thận, chúng đặt tôi lên trên một phiến đá màu xanh trước điện Diêm La rồi quỳ xuống trước mặt Diêm Vương:

- Tâu Đại vương, đã rán xong rồi ạ!

Tôi biết mình đã bị khô giòn, chỉ cần một cái chạm nhẹ là sẽ vỡ ra từng mảnh. Trong ánh sáng rực rỡ của hàng ngàn ngọn nến từ trên cao chiếu xuống, tiếng của Diêm Vương vẳng đến tai tôi:

- Tây Môn Náo, ngươi còn dám náo loạn không?

Thú thật, trong giây phút ấy tôi đã bị dao động. Thân thể tôi đã từng khô cháy trong vạc dầu, xương thịt hiện đang kêu rôm rốp. Tôi biết sức chịu đựng nỗi đau đớn về thể xác của tôi đã đến giới hạn, nếu không khuất phục, không biết là bọn đầu trâu mặt ngựa này còn dùng cực hình gì nữa đối với tôi. Nhưng nếu khuất phục, há những cực hình tôi đã chịu trước đây hóa thành vô ích sao? Tôi vật vã ngẩng đầu lên. A! Dường như đầu của tôi đã đứt lìa khỏi cổ. Nhìn lên chỗ đèn nến đang cháy sáng trưng, tôi thấy Diêm Vương ngồi trên ngai và bọn phán quan đứng chầu chực hai bên. Trên mặt họ đều lộ vẻ cười cợt thỏa mãn. Một cơn giận trào dâng trong lòng tôi. Dù bị chúng nghiền nát trên tảng đá này, dù bị chúng bỏ vào cối sắt giã nát như tương, tôi cũng phải kêu oan:

- Oan uổng quá!

Phun ra một ngụm dầu tanh mùi máu, tôi kêu tiếp: Oan uổng quá!

Tôi, Tây Môn Náo, sống trên dương trần ba mươi năm, yêu lao động, cần mẫn tiết kiệm, sửa cầu làm đường, giúp đỡ đồng loại. Tất cả các miếu chùa ở Cao Mật, tôi đều bỏ tiền ra tu sửa, tạc tượng. Mỗi người nghèo ở Cao Mật đều đã từng ăn cơm của tôi. Trong kho nhà tôi, mỗi hạt lúa đều thấm mồ hôi của tôi. Mỗi đồng bạc trong tủ đều dính máu của tôi. Nhờ vào lao động và trí lực mà tôi trở nên giàu có. Tôi tự tin mà nói rằng, bình sinh tôi chưa làm chuyện gì ác... Nhưng mà... Một người lương thiện như tôi, một người chính trực như tôi, một người tốt như tôi lại bị bọn họ hành hạ đến chết đi sống lại thế này sao? Tôi muốn kêu lên nhưng tiếng kêu cứ nghẹn ứ trong cổ họng... Họ dẫn tôi lên cầu, dùng khẩu súng bắn đạn ria, đứng cách tôi nửa thước và... bóp cò. Một tiếng “đoàng” chát chúa vang lên, đầu tôi vỡ toác, óc văng ra tứ tung giống như ruột quả bí trắng vương vãi trên cầu, dưới cầu... Tôi không phục, tôi oan uổng... Tôi thỉnh cầu mọi người cho tôi trở về để tôi tìm gặp những người ấy hỏi cho ra, cuối cùng tôi phạm phải tội gì?

Trong khi đang ngắc ngứ với tiếng kêu cứu của mình, tôi nhìn thấy khuôn mặt núc ních đầy mỡ của Diêm Vương liên tục biến đổi, bọn phán quan đứng chầu chực bên Diêm Vương, đứa nào cũng lấm la lấm lét, không dám nhìn thẳng vào mặt tôi. Tôi biết, tất cả bọn họ đều hiểu sự oan ức của tôi, ngay từ lúc mới bắt tôi về đã biết tôi oan ức, nhưng có điều không biết do đâu mà họ lại câm hơi lặng tiếng. Họ càng im lặng, tôi càng kêu, tôi kêu đi kêu lại... Cuối cùng, Diêm Vương cũng thì thầm gì đó với những người chung quanh, rồi một tiếng gõ “cốp” vang lên trên đại điện, tiếp theo đó là tiếng Diêm Vương khào khào:

- Được rồi, Tây Môn Náo! Ta biết ngươi oan uổng. Trên thế gian có bao nhiêu kẻ đáng chết lại không chết, cũng nhiều người không đáng chết lại phải chết. Đó là một thực tế mà bản vương đây cũng đành phải bó tay. Bây giờ ta khai ân cho ngươi quay trở về dương thế.

Lời phán quyết chí lý của Diêm Vương như một luồng gió mát rượi làm dịu đi nỗi đau nhức đang râm ran trong cơ thể tôi. Đưa cho tiểu quỷ một tấm lệnh bài màu hồng hình tam giác, với giọng điệu không đủ kiên nhẫn, Diêm Vương ra lệnh:

- Đầu trâu mặt ngựa, hãy đưa anh ta trở về!

Nói xong, Diêm Vương phất ống tay áo đi vào trong, các phán quan cũng lục tục đứng dậy theo sau. Những ngọn nến trong ống tay áo rộng thùng thình của họ lung linh.

Hai tên quỷ sứ mặc áo đen, lưng thắt đai to bản màu cam từ hai bên bước đến cạnh tôi, một tên quay lưng lấy chiếc lệnh bài giắt vào thắt lưng, tên còn lại nắm lấy cánh tay định kéo tôi dậy. Tôi nghe từ cánh tay mình vang lên những tiếng răng rắc tựa hồ như xương cốt đang va đập vào nhau. Đột nhiên, tôi rên lên một tiếng nhỏ. Tên quỷ sứ giữ lệnh bài đẩy cánh tay đang nắm tay tôi của tên kia, tỏ ra rất kinh nghiệm, tuôn ra một tràng chửi bới:

- Mẹ mày! Não mày chứa toàn nước à? Mắt mày bị chim mổ cho mù rồi sao? Có lẽ nào mày không nhìn thấy toàn thân của nó đã giòn giống như một cành hoa gai dầu ở phố Vệ thập bát ở Thiên Tân rồi sao?

Tên quỷ kia dường như chẳng hiểu vì sao mình lại bị mắng nhiếc như vậy, đôi mắt trắng dã đảo qua đảo lại, đang lóng ngóng không biết làm gì thì nghe tên đeo lệnh bài bảo:

- Còn đứng ở đấy làm gì? Mau mang máu lừa lại đây!

Vỗ vỗ mấy cái lên trán, tỏ ra đã hiểu, tên tiểu quỷ chạy ra khỏi điện, một lát sau quay lại với một cái thùng chứa đầy huyết tươi, xem ra có vẻ rất nặng vì hắn cong gập người lại, chân đi lảo đảo xiêu vẹo, có thể ngã lăn ra đất bất kỳ lúc nào.

Cơ thể tôi bị chấn động mạnh khi cái thùng gỗ nặng nề được đặt ở bên cạnh. Một mùi âm ấm tanh tưởi, phảng phất mùi lừa bay lên khiến tôi lộn mửa. Trong đầu tôi thoáng hiện thân thể của một con lừa vừa bị giết còn đang run bần bật. Tên đeo lệnh bài lấy từ trong cái thùng gỗ ra một cái chổi bó bằng lông lợn, nhúng ngập vào trong thùng máu đỏ bầm, sau đó phết lên đỉnh đầu tôi. Một cảm giác kỳ lạ lan khắp người, vừa đau đớn, vừa dễ chịu, lại như có hàng vạn mũi kim châm vào da thịt làm cho tôi buột mồm rên lên một tiếng nhỏ. Tôi nghe thấy tiếng kêu lách tách và da thịt tôi dần dần tươi tắn trở lại, giống như mảnh đất hạn hán lâu ngày bất ngờ gặp được trận mưa ngọt ngào. Tâm trí tôi rối loạn với hàng trăm cảm xúc dâng trào. Như một thợ sơn lành nghề, tên tiểu quỷ liên tục phết máu lừa lên toàn thân, cuối cùng hắn bê nguyên cả thùng máu rưới từ đầu đến chân tôi. Tôi cảm thấy sức sống đang quay trở lại và cuộn trào trong thân thể, cảm thấy sức lực và dũng khí cũng đã hồi phục. Không cần sự trợ giúp của chúng, tôi tự mình đứng dậy.

Mặc dù mang danh là “đầu trâu” và “mặt ngựa” nhưng hai tên tiểu quỷ chẳng giống với những gì mà tôi thấy trong những bức họa về âm ty địa phủ. Hình dáng của chúng trông không khác với người bình thường, chỉ có màu da là khác. Nó như được nhúng bởi một dung dịch thần kỳ nào đó, xanh rực, lấp lánh đến lóa mắt. Tôi chưa từng thấy loại vải nào, loại lá cây nào lại có màu xanh cao quý đến như thế ở dương gian, nhưng rõ ràng là có một loài hoa mang màu xanh ấy - loài hoa sớm nở chiều tàn chỉ có ở vùng Đông Bắc Cao Mật.

Với sự giúp đỡ của hai tên tiểu quỷ to cao, tôi đi qua một con đường hầm âm u dài ngoằn. Hai bên vách đường hầm, cứ khoảng mười mấy thước lại có một cặp giá đèn giống như san hô, hình thù quái dị, ở trên giá treo một ngọn đèn hình chiếc đĩa. Dầu đèn cháy bốc lên mùi nồng nồng làm cho đầu óc tôi mê mê tỉnh tỉnh. Trong ánh sáng mờ mờ của những ngọn đèn, tôi nhìn thấy trên vòm cong của đường hầm, nhiều con dơi to tướng đang treo lủng lẳng, đôi mắt lấp lánh trong bóng tối nhờ nhờ, những bãi phân dơi hôi thối thỉnh thoảng lại rơi lộp bộp xuống đầu tôi.

Cuối cùng cũng ra khỏi đường hầm, chúng tôi bước lên một cái đài cao. Một bà già tóc bạc phơ nhưng đôi bàn tay lại mịn màng trắng muốt, chẳng xứng hợp tí nào với tuổi tác, đang cầm một cái thìa đen đúa múc từ cái nồi bằng sắt trông rất nhớp nhúa ra một thứ nước hôi thối đen ngòm, rồi đổ vào một cái bát lớn bằng sứ màu hồng. Một tên tiểu quỷ tiếp lấy bát nước bê đến trước mặt tôi, nét mặt tỏ ra thân thiện, cười nói:

- Uống đi! Uống xong bát nước này, mi có thể quên hết tất cả thống khổ, phiền não hay cừu hận trong quá khứ!

Tôi giơ tay hất đổ bát nước, nói với tên tiểu quỷ:

- Không, tôi muốn giữ lại toàn bộ thống khổ, phiền não và thù hận trong lòng, nếu không tôi quay trở về dương gian cũng chẳng còn ý nghĩa gì!

Tôi đường hoàng rời khỏi đài, dưới chân tôi những tấm ván sàn kêu lên ken két. Hai tên tiểu quỷ réo gọi tên và chạy theo tôi.

Liền ngay sau đó, tôi thấy mình đang bước trên những con đường quen thuộc của vùng đất Đông Bắc Cao Mật quê tôi. Tôi thuộc nằm lòng từng ngọn núi, từng dòng khe, từng ngọn cây lá cỏ nơi đây. Cái lạ nhất là có những cây cọc gỗ màu trắng đóng trên đất, trên đó dùng sơn đen ghi tên của nhiều người, trong đó có cả người quen lẫn không quen, ngay cả những mảnh đất rất màu mỡ của gia đình tôi cũng có rất nhiều những cọc gỗ ấy. Sau này tôi mới biết, trong lúc tôi đang kêu oan dưới âm phủ thì ở trên dương gian người ta đã tiến hành cải cách ruộng đất. Họ thu đất đai của người giàu chia cho người nghèo, đất đai của nhà tôi tất nhiên cũng không ngoại lệ. Chính sách phân chia ruộng đất vốn đã có ở các triều đại trước, nhưng trước khi chia ruộng cần gì phải đem tôi ra bắn cho nát óc!

Hai tên quỷ sứ chắc nghĩ rằng tôi sẽ bỏ trốn nên mỗi tên một bên, dùng đôi tay lạnh ngắt đầy những móng vuốt bám chặt cánh tay tôi. Ánh mặt trời rực rỡ, không khí trong lành, chim kêu ríu rít trên cao, thỏ chạy đùa vui trước mắt tôi. Nơi nắng không rọi tới được của các con sông, tuyết đọng lâu ngày lấp lánh đến lóa mắt. Tôi liếc nhìn khuôn mặt màu xanh của hai tên tiểu quỷ, bỗng nhiên thấy chúng rất giống những diễn viên trang điểm lòe loẹt trên sân khấu, chỉ có điều phấn sáp của nhân gian chắc chắn không thể tô được những khuôn mặt có màu xanh cao quý và tự nhiên đến thế.

Men theo con đường cạnh bờ sông, vượt qua mười mấy ngôi làng, tôi gặp rất nhiều bạn bè, láng giềng quen biết cũ. Nhưng hễ mỗi lần muốn mở miệng để chào hỏi thì hai tên tiểu quỷ rất nhanh chóng và chính xác bóp lấy yết hầu khiến tôi không thể thốt ra âm thanh nào. Bực tức, tôi đá mạnh vào chân chúng, nhưng dường như chúng chẳng biết đau, chẳng kêu lên tiếng nào. Điên tiết, tôi húc đầu thật mạnh vào mặt chúng, nhưng mặt chúng vẫn cứ trơ trơ như tượng gỗ. Cánh tay bóp chặt yết hầu tôi chỉ nới lỏng đôi chút khi không có người trên đường.

Một chiếc xe ngựa bánh bọc cao su chạy qua, tôi ngửi thấy mùi mồ hôi thân thiết từ trên xe tỏa xuống. A! Đây là chiếc xe của nhà tôi. Người đánh xe mặc cái áo da dê màu sáng cầm roi ngồi trước càng xe, ống điếu và túi thuốc buộc chung vào nhau giắt nghiêng nghiêng ở bụng lúc la lúc lắc. Xe của nhà tôi, ngựa cũng của nhà tôi nhưng người đánh xe không phải người làm công nhà tôi. Tôi muốn nhảy lên xe để hỏi cho ra nhẽ nhưng hai tên tiểu quỷ như những sợi dây leo giữ rịt không cho tôi cựa quậy. Tôi cảm thấy tên đánh xe nhất định nhận ra tôi, nhất định nghe được tiếng giãy giụa của tôi, nhất định ngửi thấy cái mùi quái dị khó tìm thấy ở dương trần trên cơ thể tôi, nhưng hắn vẫn cứ điềm nhiên đánh xe chạy thật nhanh, vút qua mặt tôi như thể đang chạy trốn tai họa gì đó. Sau đó chúng tôi còn gặp cả một đoàn người đi cà kheo đang diễn tích Đường Tăng đi thỉnh kinh. Những người đóng vai Tôn Hành Giả, Trư Bát Giới đều là người quen trong thôn. Từ những tấm biểu ngữ và nghe những lời trò chuyện xôn xao của họ, tôi biết đó là ngày Tết Dương lịch năm một ngàn chín trăm năm mươi.

Lúc sắp đến chiếc cầu nhỏ bằng đá đầu làng, tôi tự nhiên cảm thấy trong lòng bất an. Ngay lập tức tôi nhìn thấy những viên đá hình quả trứng trước đây thấm đẫm máu và óc của tôi nay đã đổi màu. Trên các viên đá vẫn còn dính mấy sợi tóc bẩn thỉu, mùi tanh tưởi vẫn còn vương vất. Dưới gầm cầu, mấy con chó hoang đang thơ thẩn, hai con nằm, một con đứng, hai con màu đen, một con màu vàng. Thì ra lông của chúng đều trơn mượt, lưỡi của chúng đều đỏ hồng, răng của chúng đều trắng nhởn, mắt của chúng đều long lanh rực sáng.

Trong cuốn tiểu thuyết “Mật đắng”, Mạc Ngôn đã từng viết về chiếc cầu đá này, đã từng viết về những con chó ăn thịt người này. Anh ta còn viết về một đứa con hiếu thuận đã từng moi mật của người chết về cho mẹ chữa mắt. Dùng mật gấu để chữa bệnh thì không có gì để nói, còn chuyện dùng mật người chữa bệnh thì chưa hề nghe qua, chắc là do thằng bé to gan ấy bịa ra. Câu chuyện mà Mạc Ngôn kể trong cuốn tiểu thuyết ấy phần nhiều là những điều bốc phét, đừng bao giờ tin.

Trên con đường đi từ chiếc cầu nhỏ về nhà, trong óc tôi hiện ra rõ mồn một tình cảnh lúc tôi bị bắn: Tôi bị trói quặt hai tay, cổ đeo lủng lẳng cái thẻ “tử hình”. Đó là ngày hai mươi ba tháng chạp, trước Tết chỉ có bảy ngày. Gió thổi lạnh buốt, mây đen dày đặc, những hạt tuyết trắng muốt như những hạt gạo bám vào cổ tôi. Sau lưng tôi, bà vợ cả họ Bạch đang khóc lóc thảm thiết, nhưng tôi không hề nghe thấy tiếng của bà vợ hai Nghinh Xuân và vợ ba Thu Hương của tôi. Nghinh Xuân đang mang thai sắp đến ngày sinh nở, không đến vĩnh biệt tôi còn có lý, nhưng Thu Hương trẻ trung không hề mang thai lại không đoái hoài gì làm tôi buồn kinh khủng. Sau khi đã đứng yên trên cầu, tôi quay người lại, nhìn chăm chăm vào tay đội trưởng dân quân Hoàng Đồng cùng mười mấy người nông dân đang đứng chỉ cách tôi mấy bước chân, nói lớn:

- Các ông ơi! Chúng ta cùng sống với nhau một làng, từ xưa đến nay chưa hề gây thù oán gì nhau. Anh em cả, có chuyện gì không phải thì cứ nói với nhau, việc gì mà phải như thế này.

Hoàng Đồng giương mắt nhìn tôi, nhưng ngay lập tức lại cụp mắt xuống. Con ngươi màu vàng trong mắt hắn sáng rực như hai vì sao. Hoàng Đồng ơi là Hoàng Đồng, bố mẹ đặt cho mày cái tên sao mà xứng thế!

- Đừng có huyên thuyên. Đây là chính sách! Hoàng Đồng xẵng giọng.

Tôi tiếp tục biện bạch:

- Các ông ơi! Các ông cũng nên để cho tôi chết một cách minh bạch chứ. Rốt cuộc, tôi đã phạm tội gì?

Hoàng Đồng lẩm bẩm:

- Cứ xuống Diêm Vương mà hỏi cho minh bạch nhé!

Rồi giơ khẩu súng lên, nòng súng chỉ cách trán tôi có nửa thước. Tôi cảm thấy cái đầu của tôi bay đi đâu mất, chỉ có ánh lửa sáng rực, tiếng ầm ầm từ nơi xa xôi văng vẳng vọng lại. Trôi trong bồng bềnh, tôi ngửi thấy mùi thuốc súng nồng nồng lan tỏa khắp không gian...

Cổng chính nhà tôi đang khép hờ. Nhìn qua kẻ hở có thể thấy trong sân bóng người thấp thoáng. Có lẽ nào họ biết tôi đã trở về? Hướng về hai tên tiểu quỷ, tôi nói:

- Hai người anh em, đi đường vất vả quá!

Trên khuôn mặt xanh cao quý của chúng thoáng một nét cười quỷ quyệt. Chưa kịp hiểu ý nghĩa của nụ cười ấy, chúng đã túm lấy cánh tay tôi, dùng lực đẩy thật mạnh về phía trước. Mắt tôi tối sầm giống như đang dầm mình trong nước, bên tai nghe văng vẳng tiếng kêu hoan hỷ của một người nào đó:

- Đẻ rồi, đẻ rồi!

Tôi cố mở mắt để nhìn. Toàn thân tôi dấp dấp một thứ chất dịch như keo và đang nằm sau mông của một con lừa cái. Trời ơi! Không ngờ Tây Môn Náo tôi, người đã từng học qua trường tư thục, biết chữ hiểu nghĩa, đường đường là một thân sĩ ở làng lại trở thành một con lừa bốn chân lông trắng mõm màu hồng nhạt sao?

Quyển một: Kiếp lừa phóng đãng - 1 -

Tiến >>


Nguồn: Nhà xuất bản: NXB Phụ Nữ
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 17 tháng 3 năm 2023