Cửa Sông

nguyễn minh châu

Chương 1

Hồi còn đi học, không bao giờ Thùy nghĩ sau này mình trở thành một cô giáo.

Thùy học hết lớp mười liền nộp đơn xin thi vào trường Trung cấp Lâm nghiệp. Thể lệ quy định những học sinh đã qua lớp mười được miễn thi. Đến ngày khai giảng các lớp trung cấp, Thùy mới biết người ta xếp cô sang sư phạm. Lý do rất dễ hiểu, những ngành như địa chất, hàng hải, khai thác rừng... nghĩa là những ngành có nhiều gian khổ nhưng hứa hẹn trước những miền đất xa lạ và kỳ thú, học sinh trung học - cái lớp người đầy mơ ước và hăm hở - chen chúc nhau như vào đám hội. Trong lúc đó, nghề dạy học chẳng được mấy người ngó tới. Tất nhiên Sở Giáo dục người ta phải điều chỉnh lại. Thế là Thùy đành bỏ cái mộng trở thành một cô gái gây rừng để chuẩn bị bước vào nghề "gõ đầu trẻ".

Một buổi sớm, chúng ta thấy xuất hiện ở cửa phòng thầy hiệu trưởng trường cấp hai xã Kiều Sơn một người con gái có thân hình mảnh dẻ, tất cả sức mạnh dường như thu lại trong đôi mắt to và đôi dải tóc tết giản dị, cũng rất to buông thõng phía sau lưng. Thầy hiệu trưởng, một ông giáo cao tuổi đã dạy cấp một từ ngày kháng chiến ngước cặp kính lên nhìn khuôn mặt bỡ ngỡ của người con gái đứng khép nép trước bàn, cùng chiếc huy hiệu Đoàn ghim ngay ngắn trên khuôn ngực bé nhỏ của cô:

- Em ở bên công trường muối sang, em muốn xin vào học ư?

Xem giấy tờ xong, ông ta vội vã đứng dậy nắm lấy cả hai bàn tay mỏng mảnh của cô gái mới đến và xin lỗi rối rít.

Từ buổi đó, Thùy trở thành một cô giáo, phụ trách dạy các môn sử và địa lý ở các lớp sáu và bảy.

Cô đã dạy được hơn ba năm.

Bây giờ giá được phép chọn một nghề khác, chắc chắn Thùy sẽ không chịu rời khỏi cái mái trường lợp lá này để làm một công việc khác, dù cho đấy là cái ngành mà những năm trước cô hằng ước ao đến phát ghen với những người bạn.

Trường cấp hai Kiều Sơn gồm bảy gian nhà lợp rạ và tường trét đất, nằm ngoảnh mặt ra bờ sông. Đấy là một con sông lớn có tên trong bài địa lý các sông ngòi miền Bắc. Từ phía trước trường học, đứng bất kỳ chỗ nào cũng có thể trông thấy cửa sông Kiều với những vẻ khác nhau của nó. Về mùa đông, con sông thu mình lại dưới vòm hẹp của bầu trời màu xám chì. Nhưng đến mùa hè, trong mùa nước sa, cửa sông Kiều hiện ra sau những rặng phi lao với màu đỏ lộng lẫy như son mài. Con nước sa từ các nguồn đổ về, nâng mặt sông lên cao và kéo cái vạch nước ra tít tận hai bên bờ cỏ, mặt nước hơi lùm lên. Con sông như đến ngày hồi sinh, không bao giờ ngớt tiếng sóng xô ào ạt vào bờ. Biển ngoài xa cũng nhuộm chất bùn đỏ phù sa. Trong những ngày ấy, tiếng sóng biển sao mà gần gũi và xoáy sâu, tưởng như tiếng dội từng nhịp thở của con người.

Mùa hè đã qua. Ngoài rừng phi lao, đàn ve đá kêu inh ỏi suốt ngày đêm đã im tiếng.

Nhà trường chuẩn bị khai giảng. Lớp học đã được sửa sang lại. Những cánh cửa mở tung, tranh ảnh, khẩu hiệu mới dán trên các mặt tường. Các gian phòng trong mấy tháng hè anh em dân quân xã dùng làm trụ sở đã được quét dọn và kê lại bàn ghế. Ngoài sân, các học sinh đang xoay trần ra đào hào tránh máy bay.

Theo chỉ thị của trên, giờ học sẽ chuyển về ban đêm. Ở đây tuy xa các đường giao thông lớn nhưng thuộc về vùng biển, thỉnh thoảng máy bay địch đảo vào nhòm ngó. Chúng bay một hoặc hai chiếc, từ trên đầu những ngọn sóng bạc bất ngờ nhô lên vút qua bãi phi lao, đánh vèo một cái chúng đã quay ra và mất hút ngoài biển. Trước đây một tuần, chúng nó đã thả hai quả bom xuống khu đồng muối ở gần xã.

Buổi sớm hôm khai giảng, Thùy thức dậy rất sớm. Cũng như hồi còn là một cô bé cắp sách đi học, ngày khai trường bao giờ cũng gợi cho Thùy những cảm xúc đẹp đẽ và trong trẻo. Cô cẩn thận kiểm tra lại sổ sách, các bài giảng, rồi ngó vào các dãy bàn học còn để trống. Cô sực nhớ những kỳ khai trường năm ngoái, năm kia và suốt quãng đời học sinh của mình. Trong cái ngày trang trọng ấy, biết bao cảm xúc quen thuộc từ những kỷ niệm cũ được gợi lên, nhưng lại xen lẫn một cái gì rất bỡ ngỡ và mới mẻ.

Trời vừa tối, lớp học đã lên đèn. Trong các lớp, học sinh đã đến đông đủ và đang nói chuyện rất ồn ào. Mỗi người mang theo một chiếc đèn xách tay đặt trước bàn. Thùy gọi tên các học sinh và đưa mắt nhìn những khuôn mặt, những trang giấy trắng tinh mở ra dưới ánh đèn. Ánh đèn dầu lù mù chỉ vừa đủ soi một mảng ánh sáng trên trang vở, và chiếu hắt lên gần năm chục khuôn mặt trẻ măng, cũng có vẻ trang nghiêm khác thường, đang ngước lên nhìn cô giáo và chờ đợi.

Thùy đứng trước tấm bảng đen, quyển sách cầm trong tay, thỉnh thoảng cô lại ngó nhìn ra ngoài sân trường. Trong mấy tháng hè, Thùy đã làm quen với những buổi đào hào, những đêm cùng các chị em dân quân khoác súng đi tuần ngoài bãi cát, nhưng cô không khỏi bỡ ngỡ trước khung cảnh buổi học mới. Trước mắt Thùy, hiện lên những đoàn xe kéo pháo, những con đường xuyên rừng mở ra dưới ánh đuốc, và từng hàng bộ đội hùng dũng kéo đi trên những con đường xuyên rừng làm gấp. Những khung cảnh xa lạ, tưởng như chẳng hề có quan hệ đến cái buổi học đầu tiên đang thu hút cả tâm trí cô giáo.

Những người mà Thùy và cả lớp học đang chờ đợi đã đến: Từ ngoài sân, ba người học sinh đến sau cùng bước vào lớp. Họ vừa bước lên thềm, Thùy liền lật đật chạy ra đón và niềm nở bắt tay từng người một. Trong phút chốc, cả lớp học bỗng trở nên nhộn nhịp và ồn ào, chẳng khác gì một buổi họp.

Thùy đã nhẩm trước câu chuyện nói với các em, nhưng cô chỉ thốt lên được mấy lời vắn tắt:

- Các em, chúng ta lại bắt đầu học... Và buổi học đầu tiên hôm nay, có ba bạn đến từ biệt chúng ta. Ba bạn sắp đi bộ đội... làm nhiệm vụ đánh Mỹ cứu nước!

Thùy đưa ngón tay phủi những vệt đất đã khô trên vạt áo ngắn mới nhuộm, vệt đất còn dính lại từ buổi đào hào ngoài bờ sông. Cô cũng không thể nói dài hơn. Cướp lấy lời cô giáo, những tràng vỗ tay nổi lên và kéo dài, muốn làm vỡ tung cả gian phòng. Buổi học biến thành một buổi liên hoan tiễn những người bạn học sắp lên đường. Các học sinh xúm quanh ba người bạn. Họ nắm tay nhau, chúc mừng nhau, ghi sổ tay cho nhau. Trông nét mặt ai nấy đều rạng rỡ. Một anh chàng tóc đỏ hoe và bờm xờm, cao lớn, đang chỉ vào ngực một cậu sắp được ra đi:

- Lân, cậu là thằng "số may mắn", biết chưa? Đáng lý lần này đến phần tớ chứ không phải đến phần cậu!

- Nhưng tớ đã "trúng" thì cậu mừng cho tớ, hay cậu ghen tỵ?

- Tất nhiên, tất nhiên là tớ chúc mừng cậu!... Nhưng cậu mà vào bộ đội, người ta sẽ gọi là "lính nhóc" cho mà coi!

Lân ngồi dãy bàn đầu, ngay lối cửa ra vào. Lân còn trẻ quá! Trông vào vóc người thì cậu to lớn gộc gạc, thân thể rất nở nang cân đối nhưng trông vào nét mặt thì rõ ràng còn là một chàng thiếu niên đẹp trai, có phần hơi ngây thơ. Tuy Lân đã chải rẽ món tóc mềm mại và đen nhánh để tỏ ra một người đã lớn, nhưng người ta chỉ nhận thấy tự nhiên cậu ta sinh ra đỏm dáng một cách buồn cười, vì xưa nay chẳng bao giờ thấy cậu ta chải đầu! Lân không mang sách bút, không mang đèn đi theo, chỉ vác trên vai một chiếc mai. Cậu ta đi đào giao thông hào với anh em dân quân ngoài bờ đê rồi vào thẳng lớp học.

Lân tựa chiếc mai vào cạnh bàn rồi quàng tay qua vai hai người bạn, nói chuyện huyên thuyên hết sức vui vẻ.

Giữa cảnh náo nhiệt, một cậu trong nhóm ba người đứng dậy. Anh ta là một người học giỏi nhất lớp, trạc mười tám, mười chín, cao và gầy:

- Thưa cô, thưa các bạn...

Anh ta nhắc câu ấy đến lượt thứ hai thì cả lớp im bặt.

- Thưa cô, thưa các bạn, giữa lúc bọn kẻ cướp Mỹ đang mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược đầy tội ác ở miền Nam nước ta và đánh phá miền Bắc, nhiệm vụ chúng ta, những người thanh niên là nghe theo tiếng gọi cứu nước, sẵn sàng rời ghế nhà trường để ra đi bộ đội cầm súng giết giặc... Chúng tôi xin hứa với cô và các bạn, chúng tôi sẽ tích cực rèn luyện, nhận bất cứ nhiệm vụ gì và đi bất cứ nơi nào Đảng cần...

Gian phòng im phăng phắc. Tiếng sóng vỗ vào bờ sông Kiều nghe rõ từng đợt, tiếng sóng cũng rất trầm và trang nghiêm. Anh học sinh nói rất dài và sôi nổi. Làm xong cái việc mà các bạn đã ủy thác, anh ta ngồi xuống, đôi mắt nhìn thẳng cô giáo. Thùy căn dặn các học sinh vài câu rất ngắn. Thùy vừa nói dứt thì Lân đã đứng dậy. Lân nhảy ra đứng giữa lớp, mặt đỏ như vừa uống rượu, sải hai cánh tay ra phía trước:

- Nào, hát nhé!

Lập tức có nhiều tiếng thét ở phía dưới cùng một lúc:

- Hát đi!... Hát... đi!

"Giải phóng miền Nam!..."

Tiếng hát vỡ ra từ những lồng ngực. Tiếng hát không có một âm điệu nào ngân dài, mà rầm rập, nhộn nhịp, xối xả. Cả lớp vỗ tay lên bàn hát đồng nhịp, họ hát với tất cả hơi thở căng lồng ngực, với tất cả niềm say sưa của tuổi trẻ đang bị kích động.

Ba người học sinh ngồi dự cho hết buổi học cuối cùng của họ. Khi Thùy bắt đầu đọc cho họ chép bài, tiếng cô vẫn còn hơi run. Ánh sáng những ngọn đèn trước mặt có lúc nhòe đi. Làm sao Thùy không cảm động, khi chợt nghĩ rằng những học sinh đang ngồi trước mặt mình, đang nghe mình giảng bài, chỉ ít hôm nữa sẽ cầm súng và khoác quân phục, họ sẽ trở thành những người chiến sĩ ở ngoài mặt trận. Ngày mai, họ ra đi sẽ mang theo những kỷ niệm và những bài học ở nhà trường. "Không, mình chẳng dạy dỗ họ được điều gì cả - cô lại nghĩ - Một người con gái còn ít tuổi và thiếu từng trải như mình, làm gì xứng đáng có được những người học trò như thế? Lòng hi sinh dũng cảm và những đức tính tốt đẹp của họ là do Đảng giáo dục, là truyền thống yêu nước sẵn có trong dòng máu của họ".

Tuy nghĩ thế, nhưng Thùy vẫn cảm thấy trách nhiệm nặng nề của mình - "Chẳng lẽ những bài học ở nhà trường không hề góp thêm một phần nào vào tâm hồn lớp người trẻ tuổi đang lớp lớp cầm súng lên đường hiện nay như Liên đã nói hay sao?".

Bất giác Thùy nghĩ đến Liên, và những câu chuyện mà Liên vừa cho biết...

***

Cách đây mấy hôm, Thùy về huyện họp để bàn việc chuẩn bị khai giảng năm học mới.

Trên dọc đường, cô gặp Liên là một cô bạn cũ. Liên đang đạp xe trên đường đê, bỗng nhận ra Thùy từ xa và vẫy tay gọi rối rít.

Hồi đi học, Liên học khá, nhất là môn quốc văn. Chiếc cặp sách của Liên bao giờ cũng chứa đủ các thứ sách truyện, từ "Sống mãi với thủ đô" đến "Tam quốc chí", "Xạ thủ Cúp-cô". Liên và Thùy học cùng một lớp và ở cùng phố. Liên học chưa hết cấp ba thì bỏ học, cô đi học phiên dịch tiếng Nga. Sau vài tháng, cô lại bỏ phiên dịch, và ông chú ruột của Liên là một thiếu tá ở phòng tham mưu hải quân giới thiệu cô vào làm giáo viên văn hóa trong đơn vị bộ đội.

Đã lâu, hai người không được gặp nhau. Hồi này, trông Liên có vẻ "người lớn" hơn trước. Vừa gặp Liên, Thùy liền hỏi đùa:

- Cậu vẫn còn dạy "trong đó" chứ, hay cậu đã chán?

- Mình đã thôi dạy rồi - Liên nói rất nghiêm nghị - đã hơn nửa năm. Chẳng phải vì mình chán. Nhưng bây giờ là thời chiến, bộ đội bận đánh nhau, đâu có thì giờ ngồi học?

- Bây giờ cậu làm gì?

- Cậu thử đoán xem? - Liên vỗ vào chiếc cặp xách tay bằng vải bạt nhưng cô lại khoác sau lưng bằng một sợi dây da đeo súng.

Hai người ngồi nói chuyện với nhau rất lâu. Liên được các đồng chí cán bộ tuyên huấn giao cho đi viết những bài báo nhỏ, hoặc những mẩu chuyện chiến đấu. Cô đã từng đi khắp nơi, đến các căn cứ tàu đỗ, xuống tàu, vào các quân y viện để gặp gỡ bộ đội.

Những người học trò khoác quân phục của Liên đang trải qua những thử thách mới. Trong cuộc chiến đấu, những đức tính tốt đẹp mới bộc lộ ra hết và Liên mới có dịp hiểu như thế nào là những người chiến sĩ quân đội.

Liên kể một vài trận đánh và kể chuyện nhiều đồng chí chiến đấu rất dũng cảm.

Cô báo cho Thùy biết:

- Cách đây khoảng một tháng, mình tới một quân y viện. Ở đó mình hỏi chuyện một đồng chí chiến sĩ bị thương. Đồng chí ấy là người làng Kiều, huyện Kiến Thành, đồng chí ấy bảo là học trò của cậu.

Thùy hỏi, lo lắng:

- Anh ấy tên là gì?

- Bân! Cậu có người học trò nào tên là Bân không?

Thùy hỏi gặng:

- Anh ấy có việc gì không?

- Đồng chí ấy bị thương vào ngực và cánh tay phải. Vết thương khá nặng nhưng cũng sắp khỏi. Một người chiến đấu gan dạ đấy! Đồng chí ấy không phải là pháo thủ mà làm quan trắc của tàu.

Từ hôm gặp Liên và biết tin Bân bị thương, Thùy cũng không báo tin cho gia đình anh biết.

Bân là anh Lân, hai anh em cùng cha khác mẹ.

Ngày trước, Thùy ở trọ nhà Bân.

Hồi Thùy mới về, nhà trường chưa có nhà tập thể cho các giáo viên ở nên địa phương phải thu xếp mỗi người ở trọ một gia đình. Ông Vàng, chủ nhiệm hợp tác xã Kiều Sơn là một người đàn ông trạc ngoài năm mươi, đầu hói, người vừa gầy vừa đen, lúc nào cũng hấp tấp, vội vã. Bữa thầy hiệu trưởng vào gặp ông Vàng để nhờ thu xếp chỗ ở cho Thùy, ông Vàng nói:

- Vâng, tôi phải bố trí một gia đình cơ sở. Nhưng cô ta là người thành phố hay ở nông thôn? Nếu là người thành phố thì phải chọn cho cô ấy một cái nhà trong xóm đồng, sạch sẽ và có bể nước. Nếu là người nhà quê thì tôi muốn để cô ấy ở nhà bà Thỉnh - ông ta hấp háy cặp mắt rồi xoa tay thú thực một cách ngượng nghịu - nói giấu gì thầy, tôi chỉ ước có một người kèm riết cho thằng Bân nó thanh toán chong chóng cái lớp bảy.

Bân là người học trò khá đặc biệt: anh là kế toán trưởng của ban quản trị hợp tác xã. Ông Vàng và ban quản trị thu xếp cho Bân đi học văn hóa thêm, dự tính nay mai lớp trung cấp nông nghiệp tỉnh mở, sẽ cử Bân đi học để sau này về làm chân phó chủ nhiệm phụ trách kỹ thuật.

Trong số các học trò đã đi bộ đội, Thùy không bao giờ quên Bân, một thanh niên rất đứng đắn ngồi ở dãy bàn cuối trong lớp, một anh học trò có lẽ còn hơn tuổi cả cô giáo. Bân không giống Lân mấy, không đẹp trai và nhanh nhẹn nhưng làm việc gì cũng chắc chắn và học tập rất chăm chỉ. Cô nhận thấy sự cần thiết của địa phương nên đã kèm riết cho Bân học. Cả người dạy và người học đều vất vả. Ngày nào cô cũng bỏ ra vài giờ ở nhà, vào buổi trưa hay buổi tối để giảng lại cho Bân từng "tiết" của chương trình các lớp dưới. Bân vùi đầu vào học văn hóa không kể ngày đêm, chẳng khác nào người đi cày vội để cho kịp có đất cấy. Sắp đến ngày lớp trung cấp nông nghiệp trên tỉnh mở (giấy gọi học sinh đã gửi xuống ủy ban xã), thì Bân trúng tuyển nghĩa vụ quân sự. Thế là anh từ biệt lớp học của Thùy, bàn giao công việc kế toán cho một người khác và lên đường.

Bân ra bộ đội được nửa tháng và vẫn đóng ở gần. Hồi ấy, địch chưa bắn phá miền Bắc và tình hình hãy còn yên tĩnh. Anh được phép về thăm nhà vào một ngày chủ nhật. Thùy còn nhớ lần ấy, Bân nói với cô: "Chế độ nghĩa vụ bây giờ có hai năm, trong bộ đội cũng tổ chức học văn hóa. Xong khóa nghĩa vụ này, tôi trở về chắc ông Vàng lại bắt đi học lớp kỹ thuật nông nghiệp gì đó thôi!". Hôm đó, anh mặc bộ quân phục mới còn ra vẻ lúng túng, chưa hợp lắm. Trông anh còn y hệt một chàng thanh niên nông thôn - một anh chàng kế toán trưởng. Đấy là lần duy nhất Bân về thăm nhà.

Buổi tối hôm ấy, giữa buổi học khai giảng, Thùy chợt nghĩ tới Bân và cái tin anh chiến đấu bị thương mà Liên vừa cho biết. Chắc bây giờ Bân đã khác lần về thăm nhà nhiều lắm. Lúc tan học, Thùy nắm tay từng người học sinh sắp ra đi và siết chặt như gửi gắm tất cả niềm tin của mình. Đến lượt Lân, Thùy hỏi:

- Lâu nay em có năng sang nhà u không? (Lân gọi mẹ đẻ Bân bằng u).

Lân trả lời rất sốt sắng:

- Có, cô ạ! Nhưng mà mấy lâu nay u em không nhận được lá thư nào của anh Bân. U em sốt ruột lắm, cứ hỏi rằng anh ấy có gửi thư về ngoài trường không?

Thùy thấy không tiện nói cái tin ấy cho Lân biết lúc Lân sắp lên đường. Cô trả lời:

- Không... Chắc anh ấy bận nên không có thì giờ biên thư đó thôi...

Các học sinh đã trở về trong xóm. Thùy còn ngồi bên ngọn đèn. Không khí buổi học đầu năm còn in trong lòng Thùy. Chưa có một kỳ khai giảng nào cô cảm thấy không khí náo nức và hơi kỳ lạ như vậy. Cô lấy giấy bút và ngồi biên thư cho Bân. Bức thư không gửi tới đơn vị mà đề theo địa chỉ quân y viện - địa chỉ Liên mới ghi cho cô.

Chương 1

Tiến >>

Thanh Vân sưu tầm
Nguồn: dtv-ebook.com
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 2 tháng 4 năm 2020