TỰ LỰC VĂN ĐOÀN

doãn quốc sỹ

- I - BỐI CẢNH LỊCH SỬ

(Hoàn cảnh nước nhà nhìn tổng quát suốt khoảng tiền bán thế kỷ XX)

A. Giai đoạn văn thân Cần Vương bế mạc

Giai đoạn này khởi đầu với cuộc nổi lên chống Pháp của Trương Định tại Chợ Lớn, Tân An, Gò Công vào năm 1862 và chấm dứt vào năm 1895 là năm Phan Đình Phùng chết vì bệnh kiết lỵ trong núi.

B. Giai đoạn Canh tân và Đông Du (1985-1912)

Đầu thế kỷ XX ghi dấu một giai đoạn đấu tranh dưới hình thức mới: giai đoạn Đông Du và Canh tân. Sở dĩ có cuộc chuyển hướng này vì các sĩ phu nước nhà đã rút được những bài học kinh nghiệm quý giá: các cụ biết rằng vì khí giới của mình còn quá thô sơ nên việc chống Pháp toàn bằng võ lực sẽ không thoát khỏi thất bại. Ấy là chưa kể ta gần như thường xuyên sống trong cảnh thiếu thốn về lương thực và tài chánh. Các cụ đã thấy gương Nhật Bản khoảng 1858 cũng bị lực lượng quân sự cơ giới Tây phương áp đảo, nhưng Nhật Bản đã hiểu ngay bài học tiến hóa, kịp thời canh tân để chưa đầy 50 năm sau trả đòn đánh bại nước Nga trong những trận hải, lục chiến ở Phụng Thiên và cửa bể Nhật Bản (1905).

Trong giai đoạn này ta có thể ghi chép những sự kiện sau đây:

1. Về phương diện võ lực kháng chiến.

Cuộc khởi nghĩa Đề Thám vẫn tiếp tục chiến đấu du kích cho tới 1910. Ngoài ra chỉ còn những vụ âm mưu lẻ tẻ đánh phá các đồn trại, đầu độc hoặc mưu sát quân lính và nhà chức trách Pháp.

2. Về phương diện canh tân

Thời bấy giờ phong trào Canh tân đã sôi nổi lắm ở Trung Hoa và những sách mới của Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu được phiên dịch sang tiếng Việt. Lúc đó, Tăng Bạt Hổ, một chiến tướng Cần Vương tại Bình Định, sau khi thất bại bỏ đi chu du các nước Tàu, Nhật, lúc trở về cổ động các nhân sĩ xuất dương hoạt động cứu quốc. Phan Sào Nam liền cùng Tăng Bạt Hổ đi khắp Nam Bắc để liên lạc với các đồng chí và tuyên truyền việc xuất dương du học. Tại Quảng Nam, hai cụ họp các đồng chí để thành lập Việt Nam Quang Phục Hội (1904) tôn Kỳ ngoại hầu Cường Để làm hội trưởng xuất bản cuốn Lưu Cầu Huyết Lệ Tâm Thư để cổ võ tinh thần cách mạng du học. Sau đó Phan Sào Nam và Tăng Bạt Hổ liền sang Nhật giao thiệp với các yếu nhân trong chính giới Nhật để sửa soạn đưa Kỳ ngoại hầu Cường Để sang Đông Kinh.

Cuộc cổ võ Đông Du này được hưởng ứng nhiệt liệt và các vị như Phan Chu Trinh, Lương Ngọc Quyến, Nguyễn Thượng Hiền, Trần Quý Cáp, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Lương Ngọc Can... đều tham gia xuất dương hoạt động.

Cuộc Đông Du này có hai mục đích cốt yếu: một là đào luyện nhân tài cách mạng, hai là mua khí giới gởi về giúp phe kháng Pháp trong nước.

Năm 1906, Phan Chu Trinh ở Nhật về, gởi một bức thư công khai cho chính phủ Pháp ngày 15-9-1906 yêu cầu phải thành thực cải cách cho Việt Nam. Kế đó các nhà Nho Duy tân ở Bắc Hà: Lương Ngọc Can, Nguyễn Quyền, Đào Nguyên Phổ, Phan Tuấn Phong, Lê Đại, Dương Bá Trạc, Đặng Kinh Luân, Phan Huy Thịnh v.v.. thành lập trường Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội, ngay từ ngày đầu đã có ngay trên 1.000 học sinh.Tất cả cấp giấy bút, miễn học phí và học kiêm ba thứ chữ: Việt, Hán, Pháp. Đó là lần đầu tiên môn chữ Việt viết theo lối La mã được giảng dạy tại nhà trường, điểm này sẽ ảnh hưởng rất nhiều tới việc giáo dục dân chúng. Một điểm mới lạ thứ hai nữa trong chương trình Đông Kinh Nghĩa Thục là học trò con gái có thể theo học cùng với con trai được, điểm này làm mầm cho sự cải tiến nữ giới.

Tóm lại một mặt Đông Kinh Nghĩa Thục theo đuổi mục đích canh tân những tập tục sinh hoạt của quốc dân, một mặt khác muốn bí mật đào luyện những phần tử ái quốc và tìm cách cho họ xuất dương hoạt động.

Vì có sự hưởng ứng nhiệt liệt của các giới, nên các nhà chức trách Pháp thấy lo ngại và trường Đông Kinh Nghĩa Thục chưa hoạt động đầy một năm đã bị đóng cửa. Các vị chủ trương đều bị đưa ra tòa và kết án tử hình, song vì có sự can thiệp của hội Nhân Quyền nên chuyển sang án đầy Côn Đảo.

C. Giai đoạn quá độ (1912 - 1920)

Gọi là giai đoạn quá độ vì với giai đoạn này chúng ta chấm dứt một tình trạng xã hội cũ để bước sang một tình trạng mới, với những nhà lãnh đạo mới, nêu lên những tư tưởng mới.

Tới đây người Pháp đã nắm vững được tình thế trong quốc nội cũng như ngoài quốc tế. Người Pháp đã điều đình ký hiệp ước Nhật để chính phủ Nhật trục xuất các nhà ái quốc của ta ra khỏi nước họ, khiến các vị này đành trở về Hương Cảng Thượng Hải. Tại nước nhà, âm mưu khởi nghĩa của Duy Tân tại Huế (1916), của Đội Cấn tại Thái Nguyên (1917) đều bị bại lộ. Tuy phong trào khởi nghĩa trong giai đoạn này ít sôi nổi nhưng ta có thể nhận định những biến chuyển quan hệ sau đây:

1. Trên phương diện kinh tế xã hội

Giai đoạn này (khoảng từ 1912 đến 1920) đã thúc đẩy mạnh mẽ xã hội Việt Nam bước sang một chế độ kinh tế và một thể thức phân hóa xã hội khác hẳn trước kia. Có điều cần phải nhấn mạnh rằng tại các xã hội Âu Tây những biến chuyển kinh tế xã hội đều do đà tiến nội tại của nó mà phá vỡ những cơ cấu cũ và thiết lập những tương quan mới, trong khi những biến chuyển tại xã hội Việt Nam lại được thúc đẩy do một nguyên nhân bên ngoài tức là sự đột nhập của lực lượng cơ giới tư bản đế quốc Pháp. Tại những miền rừng núi và đồn điền người Pháp cho khai khẩn các hầm mỏ và trồng các cây kỹ nghệ để lấy nguyên liệu chuyển về Pháp. Tại những thành thị, họ thiết lập nhiều cơ sở thương mại, vận tải và nhiều xí nghiệp kỹ nghệ để lợi dụng nhân công giá hạ.

Sự phát triển của nền thương mại và công kỹ nghệ này khiến xã hội Việt Nam phân hóa thành những tầng lớp như sau:

- Lớp tư sản mại bản (làm trung gian cho tư bản đế quốc).

- Lớp tiểu thương, tiểu công kỹ nghệ (phần lớn lớp này từ thôn quê ra thành thị lập nghiệp).

- Lớp thợ thuyền vô sản (tại những xí nghiệp hầm mỏ)

2. Trên phương diện tư tưởng và chính trị

Lý tưởng trung quân mờ nhạt, lý tưởng dân chủ và dân tộc giải phóng đột nhập mạnh mẽ vào tâm hồn người dân Việt vì những biến cố bên ngoài (cuộc cách mạng Tân Hợi (1911) do Tôn Dật Tiên lãnh đạo, cuộc cách mạng vô sản (1917) tại Nga). Thêm nữa ngay tại trong nước, Toàn quyền Albert Sarraut hứa hẹn cởi mở chế độ (Thái độ ve vuốt đó để nắm vững dân chúng, mộ thêm binh sĩ sang Pháp cho cuộc chiến tranh 1914-1918, đồng thời mở quốc trái với khẩu hiệu: Rồng Nam phun bạc, đánh đổ Đức tặc).

Vì lý tưởng trung quân mờ nhạt, vai trò sĩ phu tới đây gần như chấm dứt hẳn, nhường sân khấu chính trị cho lớp người mới chịu ảnh hưởng văn hóa Tây phương, họ nêu cờ khởi nghĩa với lý tưởng quốc gia dân tộc hoặc tự do dân chủ.

D. Giai đoạn toàn thịnh của quan niệm quốc gia thuần túy (1920-1930)

Gọi vậy vì trong giai đoạn này chỉ có những phong trào quốc gia mới gây nổi những vang dội mạnh mẽ trong quần chúng Việt Nam. Ta có thể kể sự thành lập của những đảng phái chính trị sau đây:

1. Phong trào Lập Hiến

Năm 1923, phong trào Lập Hiến được đề xướng trong Nam do các ông Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long, cơ quan ngôn luận là tờ Tribune Indocinoise. Lập trường của phong trào công nhận sự hợp tác Pháp-Việt với những sự cởi mở cần thiết về chính trị và kinh tế khiến cho nước Việt Nam dần dần có thể theo kịp ngoại quốc.

Phong trào này đã gây được ảnh hưởng khá mạnh vào những năm 1924-1926: trong vụ tranh cử vào Hội đồng thuộc địa năm 1925, toàn thể những ứng cử viên lập hiến đều được trúng cử.

Phong trào cũng có tổ chức những cuộc phát động quần chúng như vào dịp tang cụ Phan Chu Trinh (tháng 3 năm 1926). Nhưng phong trào mất dần tín nhiệm vì sau này chỉ tranh đấu lấy quyền lợi thiết cận cho tầng lớp mà họ tiêu biểu như:

- Đòi tự do gia nhập luật sư đoàn.

- Đòi mở rộng luật lệ về việc gia nhập Pháp tịch (!)

- Đòi tự do kinh doanh (để mở rộng nền công kỹ nghệ, thương mại mới phôi thai mà họ là những người nắm giữ).

2. Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội

Năm 1925, một chi bộ Việt Nam của Hội Á Tế Á Nhược Tiểu Dân Tộc được thành lập tại Quảng Châu do Nguyễn Ái Quốc, Lâm Đức Thụ, Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Phong chỉ huy dưới quyền lãnh đạo tối cao của Borodine. Chính tổ chức đó sau này đổi tên là Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Minh Hội, dùng tờ tuần báo Thanh Niên làm cơ quan tuyên truyền bí mật. Cuối 1925 họ phái đảng viên về hoạt động trong nước, bí mật tổ chức tiểu tổ và trà trộn vào các phong trào quốc gia như Tân Việt Cách Mạng Đảng để lũng đoạn nội bộ. Tháng tư 1927, ban chỉ huy của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng phải dời sang Hồng Kông vì Tưởng Giới Thạch tấn công khủng bố các lực lượng Cộng sản tại Hoa Nam và Quảng Châu. Tại cuộc đại hội đầu tiên ở Hồng Kông của Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội có sự bất đồng ý kiến giữa các đại biểu, phải đợi đến tháng 3 năm 1930 Nguyễn Ái Quốc mới thống được các ý kiến để đổi Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội thành Đông Dương Cộng Sản Đảng. Tháng tư năm sau (1931) đảng này được Đệ tam Quốc Tế thừa nhận. Trụ sở Ban chấp hành trung ương được thiên về Sài Gòn.

3. Tân Việt Cách Mạng Đảng

Cũng năm 1925 một đảng cách mạng có khuynh hướng quốc gia được thành lập tại miền bắc Trung Bộ thoạt lấy tên là Phục Việt sau đổi tên là Tân Việt Cách Mạng Đảng, lãnh đạo bởi các sĩ phu đã chuyển sang tân học và đã từng bị đày đi Côn Đảo. (Các cụ Lê Văn Huân, Nguyễn Đình Kiên...) Đảng Tân Việt không chịu đi với đảng Nguyễn An Ninh trong Nam và cũng không chịu thống nhất lực lượng với Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. Ảnh hưởng của đảng khá mạnh vào những năm 1925-1926 trong những cuộc bãi khóa của học sinh, những cuộc biểu tình của dân chúng - như vào dịp tang cụ Phan Chu Trinh - để phản đối chính quyền bảo hộ.

4. Việt Nam Quốc Dân Đảng

Năm 1927, một nhóm thanh niên ái quốc (Phạm Tuấn Tài, Nhượng Tống) thành lập tại Hà Nội “Nam Đồng Thư Xã”, chủ trương xuất bản những sách nói về cuộc Cách mạng Tân Hợi Trung Hoa, về Tôn Dật Tiên và Tam Dân chủ nghĩa, v.v...

Dần dần, những sách đó gây được ảnh hưởng trong quần chúng nên đã bị nhà cầm quyền tịch thâu và đóng cửa thư xã.

Từ đó nhóm Nam Đồng Thư Xã dưới ảnh hưởng của Nguyễn Thái Học đã chuyển thành một tổ chức bí mật và đến tháng 11-1927 Việt Nam Quốc Dân Đảng ra đời dưới quyền lãnh đạo của Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu. Đảng này được tổ chức theo kiểu Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tôn Dật Tiên, cũng đề xướng Tam dân chủ nghĩa để nhằm mục đích đuổi Pháp và thiết lập được chế độ Cộng hòa dân quốc. Tới đầu năm 1929 Đảng đã kết nạp được hàng ngàn đảng viên (học sinh, binh sĩ, phụ nữ). Tờ nội san bí mật của Đảng lấy tên là Hồn Cách Mạng. Chủ trương của Đảng là dùng võ lực và gây một phong trào khủng bố rộng lớn để trừng trị những kẻ có tội với quốc gia dân tộc. Ngược lại Đảng cũng bị sở mật thám Pháp theo dõi và đàn áp mạnh mẽ. Nhiều chỗ chứa bom cùng vũ khí khác của Đảng bị khám phá. Tình hình ngày một căng thẳng, ban chỉ huy của đảng biết trước thất bại cũng đành quyết định khởi nghĩa để “nếu không thành thân thì thành nhân” như lời Nguyễn Thái Học tuyên bố. Đêm 10-2-0930 cuộc khởi nghĩa bùng nổ tại Yên Bái, Lâm Thao và một vài tỉnh khác.

Kết cục khởi nghĩa đã thất bại: Nguyễn Khắc Nhu tuẫn tiết trại mặt trận Lâm Thao, Nguyễn Thái Học lẩn trốn. Sau cùng Nguyễn Thái Học cũng bị bắt để cùng với 12 đồng chí nữa lên đoạn đầu đài.

5. Đảng Nguyên An Ninh

Tại Nam Bộ vào năm 1927 Nguyễn An Ninh thành lập đảng của ông tại Hốc Môn nhưng chỉ hoạt động được hơn một năm trời thì bị Pháp khủng bố tan rã. Nguyễn An Ninh bị đày ra Côn Đảo.

6. Việt Nam Toàn Quốc Cách Mạng Đảng

Cùng vào năm 1927 cụ Nguyễn Hải Thần có thành lập tại Quảng Đông một đoàn thể lấy tên là Việt Nam Toàn Quốc Cách Mạng Đảng, kết tập một số phần tử xuất dương tản mát trên đất Trung Hoa nhưng sự hoạt động không thâu hoạch được kết quả gì đáng kể.

Trong khoảng thời gian này (1920-1923), tuy nước nhà đã có đủ màu sắc chính trị (quốc gia, quốc tế) nhưng chỉ những phong trào quốc gia là gây được ảnh hưởng đáng kể nên mệnh danh giai đoạn này là giai đoạn toàn thịnh của phong trào quốc gia tưởng cũng là đích đáng lắm.

E. Giai đoạn tranh chấp giữa khuynh hướng Quốc gia và khuynh hướng Quốc tế vô sản (1930-1945)

Sau đợt bị đế quốc khủng bố đẫm máu 1930, phong trào quốc gia phải tạm ngừng hoạt động. Thời kỳ này lại đương bị kinh tế khủng hoảng, trí thức thất nghiệp, thợ thuyền, nông dân bị xô đẩy vào cảnh đói rét lầm than. Đó là những điều kiện khách quan rất thuận lợi cho phe vô sản hoạt động mạnh mẽ. Năm 1932, có nhiều vụ đình công, biểu tình nông dân nổi loạn tại Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi... Hàng ngàn người bị bắt hoặc bị đày ra Côn Đảo, nhưng đế quốc càng khủng bố thế lực đảng vô sản càng được bành trướng.

Cùng năm 1932 hàng ngũ vô sản mọc thêm một phái nữa: Đệ tứ quốc tế lãnh tụ là Tạ Thu Thâu. Đầu năm 1933, Đệ tam và Đệ tứ cùng liên kết để chủ trương tờ La lutte tại Sài Gòn, trong đó những người như Tạ Thu Thâu, Trần Văn Thạch, Phan Văn Hùm (Đệ tứ), Nguyễn Văn Tạo, Dương Bạch Mai (Đệ tam).

Khoảng 1936-1937 phong trào đấu tranh chống đế quốc bộc phát nhờ những biến chuyển của thời cuộc tại chính quốc Pháp. Nguyên vào thời này, trước hiểm họa chiến tranh có thể gây ra bởi Đức quốc xã, Đảng Cộng sản Pháp hợp tác với đảng Xã hội thành lập Mặt trận Bình Dân nắm chính quyền. (Ông Léon Blum, đại biểu của Đảng Xã Hội Pháp giữ chức Thủ Tướng, ông Marius Moutel, một trong những yếu nhân của đảng Xã Hội Pháp, nắm giữ Bộ thuộc địa). Vì thế mà tại nước nhà phe Đệ tam cũng muốn rập theo chiến lược ấy của Đảng Cộng sản Pháp.

Một cuộc khoáng đại hội nghị ở Quảng Châu (Trung Hoa), rồi ở Thái Hà Âp (Việt Nam) của những cán bộ xứ ủy và Trung ương đảng bộ đã quyết định thành lập một mặt trận chính trị gọi là Mặt Trận Phản Đế Cứu Quốc Giải phóng Đồng Minh Liên Hiệp, rập theo đúng lối tổ chức của Mặt Trận Bình Dân Pháp. Mặt Trận Phản Đế này ra đời vào tháng 5-1936 mà chính cương điều lệ chẳng khác gì Mặt Trận Việt Nam Độc Lập Đồng Minh Hội, tức Việt Minh năm 1940.

Chú thích:

(1) Viết theo tài liệu của Nghiêm Xuân Hồng - Lịch trình diễn tiến của Phong trào Quốc gia Việt Nam - Quan điểm 1958.

(2) Các cụ vận động mua khí giới của Nhật, ngoại giao với Nhật, Tàu, Xiêm để được sự ủng hộ của các nước đó. Riêng cụ Phan Chu Trinh không chấp nhận chủ trương này nhưng vẫn tích cực hoạt động chung.

(3) Nhất là vào thời kỳ thế giới đại chiến 1914-1918, kỹ nghệ thương mại tại chính quốc bị ngừng trên không thể xâm nhập vào thị trường Đông Dương, bởi vậy các ngành công kỹ nghệ của người Pháp cũng như của người Việt ở nơi đây mới gặp dịp thuận tiện mà phát triển mạnh.

(4) Cùng vào năm 1930 Sô Viết Nghệ An bị Đệ tam Quốc tế lên án là manh động bỏ rơi. Nguyên do: Sau cuộc thất bại của Quảng Châu công xã năm 1927, Mao Trạch Đông rút về Hồ Nam nghiên cứu lại lý thuyết nông dân. Ông Ngô Đức Trí (con cụ Ngô Đức Kế) người lãnh đạo phong trào Sô Viết Nghệ An trước đây đã từng theo học ở Nga. Khi Đệ tam có sự mâu thuẫn nội bộ giữa Staline và Trolsky thì ông bỏ Nga về Paris. Nhờ có bọn lính thủy ủng hộ dấu diếm ông về được nước để lãnh đạo Sô Viết Nghệ An đúng lúc Staline chủ trương nhượng bộ đế quốc để hoàn thành cách mạng vô sản ở Nga. Vì vậy Sô Viết Nghệ An bị Đệ tam lên án là manh động và bỏ rơi. Đế quốc được mặc sức khủng bố suốt từ Nghệ An, Hà Tĩnh, qua Bình Trị Thiên, vào đến tận Quy Nhơn. Riêng ở Nghệ An tên chánh mật thám Marty - con rể Albert Sarraut - đã ra lệnh bắn hàng rẫy người xâu tay vào với nhau.

(5) Nguyễn An Ninh du học tại Pháp, đỗ cử nhân luật về nước cho ra tờ báo La cloche félée - Tiếng Chuông Rè (1927), rồi lên Tây Ninh giúp cho sự phát triển của đạo Cao Đài. Khi bị đày ra Côn Đảo đã một lần được tha, sau đó ít lâu lại bị bắt. Thực dân đày ông vì ghép ông vào tội liên lạc với Phan Văn Hùm, Đệ tứ. Cũng vì lý do này, tới Côn Đảo, ông bị phe Đệ tam hành hạ đến phát điên mà chết. Mả ông bị phe Đệ tam san phẳng. Mùa xuân 1958 kẻ viết tập sách này có dịp theo một phái đoàn ra thăm Côn Đảo, nhân đó tới viếng mộ ông khi đó được Chính phủ Quốc gia cho sửa sang lại.

- I - BỐI CẢNH LỊCH SỬ

Tiến >>

Đánh máy: Mọt sách , Ct.Ly
Nguồn: Vietnamthuquan.eu - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 12 tháng 3 năm 2024