Tên Tử Tội

marcel aymé

dịch giả: lê vy

nguyên tác “dermuche”

Marcel Aymé, nhà văn Pháp, sinh ngày 29 - 3-1902 tại Joigny (Yonne). Trước khi viết văn, ông đã trải qua nhiều nghề: viên chức ngân hàng, nhân viên bảo hiểm, phóng viên... Đến 1925, sau một cơn bệnh nặng, ông chuyển qua viết văn, viết kịch. Với giọng văn lúc thục, lúc hư, lúc châm biếm, ông đã tạo cho mình một phong cách rất riêng. Ông mất tại Paris ngày 14-10-1967. Một số tác phẩm tiêu biểu: Aller - Retour, La Jument verte, La Table aux crevés, La Vouivre, Le Boeuf clandestin, La Tête des autres,...

.

Để lấy được cái máy hát mà hắn thèm muốn tử bấy lâu nay, hắn đang tay giết cả một gia đình ba người. Biện lý cuộc (1) chẳng cần phải đanh thép buộc tội, lời bào chữa hùng hồn của luật sư cũng chẳng tác dụng; Hội đồng xét xử nhanh chóng đi đến thống nhất kêu án tử hình, và công chúng trong cũng như ngoài phòng xử, tất cả đều đồng tình với bản án, chẳng một ai dị nghị điều gì. Đôi vai kềnh càng, cổ to như cổ bò mộng, tên tử tội có khuôn mặt bè bè, cái cằm bạnh, cái trán chợt, đôi mắt him híp khờ đặc. Trước cái tướng mạo thô lỗ đó giá như có còn một nghi vấn nào đó về tội trạng của hắn, bồi thẩm đoàn thấy cũng chẳng cần phải động tâm cân nhắc. Suốt phiên xử hắn đứng bất động, dửng dưng, dường như chẳng cần biết tòa đang xét xử cái gì, xét xử ai...

- Bị cáo Dermuche - ông chánh án hỏi, - bị cáo có thấy hối hận về những gì mà bị cáo đã làm hay không?

- Dạ... có, ờ mà... không, thưa ông- Detmuche đáp. - Tôi vậy... mà đâu phải vậy, thưa ông!

- Bị cáo hãy nói cho rõ ràng: Bị cáo có thấy lương tâm cắn rứt hay không?

- Ông nói cái gì cắn rứt vậy, thưa ông?

- Bị cáo không hiểu lương tâm là cái gì à? Nghĩa là... khi nghĩ tới các nạn nhân, bị cáo có cảm thấy cắn rứt trong lòng hay không?

- Dạ... cám ơn ông hỏi thăm; tôi đâu thấy cái gì cắn đâu...

Duy nhất chỉ một lần trong suốt phiên xử, can phạm đã tỏ ra xúc động, đó là khi ông Biện lý kêu đem tang vật ra. Nhoài mình ra trước vành móng ngựa, hắn nhìn chằm chặp vào đó và khi thư ký phiên tòa đứng lên quay máy, một điệu nhạc êm dịu vang lên, khuôn mặt bè bè đần độn của hắn giãn ra và hắn nhoẻn miệng cười.

Trong xà lim tử tội, hắn thản nhiên đợi ngày ra pháp trường, chẳng lo lắng gì về điều sắp xảy đến, cũng chẳng nói gì với mấy người giám thị xà lim. Thật ra thì hắn cũng chẳng biết nói gì với họ, chỉ khi nào họ hỏi hắn mới trả lời. Về phần hắn, thảng hoặc lắm mới nghe hắn ấp úng mấy tiếng hỏi thăm về chiếc máy kỳ diệu, cái đã dẫn hắn tới chỗ giết người. Đầu óc hắn rất chậm lụt, và điều duy nhất làm hắn bực mình là hắn không biết làm cách nào để lấy lại cho được cái máy đã cuốn hút hắn tới ngôi biệt thự hiền hòa ở Noget - sur - Marne tối tháng chín đó. Trong biệt thự chỉ có ba người, hai cô cháu gái già cùng với một ông cậu già thường đính cuống Huân chương Bắc đẩu bội tinh trên ve áo, sống tách biệt với thế giới bên ngoài. Mỗi chủ nhật, sau bữa ăn trưa, cô chị vặn máy hát. Những lúc trời trong, họ thưởng để ngỏ cửa sổ phòng ăn, và từ suốt ba năm qua, cứ đến những trưa chủ nhật trong mùa hè là hắn lại mê man lần theo tiếng nhạc đến sát chân tường dưới khung cửa sổ ấy. Tuần này sang tuần khác, hắn cố nhớ hết những âm điệu đó mà không sao nhớ nổi. Sang thu, để ông cậu già khỏi bị lạnh, các cô cháu gái đóng kín cửa sổ, và tiếng nhạc chỉ còn dành cho những người sống cách biệt trong nhà. Đã ba năm liền, suốt nhiều tháng dai dẳng, hắn sống thiếu tiếng nhạc, thiếu cái cảm giác làm cho lòng hắn đê mê. Ngày qua ngày, từng chút, từng chút một, các giai điệu rời bỏ hắn, và đến cuối đông thì trong lòng hắn chẳng còn lại cái gì ngoài nỗi khát khao cháy bỏng. Đến đầu thu năm thứ tư, không còn chịu đựng nổi với cái cảm giác sẽ phải chờ đợi qua nhiều tháng ròng, hắn đã phá cửa để vào bên trong biệt thự. Sáng hôm sau, cảnh sát bắt gặp hắn ở đó, đang nghe nhạc cùng với ba xác chết.

Trong một tháng bị giam giữ, những âm điệu du dương đó vẫn vang vang trong lòng hắn, nhưng đến lúc tòa xử, hắn chẳng còn nhớ được gì. Giờ đây, nằm khoèo tròng xà lim, hắn cố nhớ lại những âm thanh ngắt quãng mà hắn nghe được tại phiên tòa, nhưng ngày qua ngày, những âm thanh đó lại tiếp tục rời bỏ hắn. Suốt từ sáng đến tối, tên tử tội cứ lẩm nhẩm: Tum, ti tum, ti tum...

Đến thăm Dermuche, cha tuyên úy giáo phận nhà tù nhận thấy hắn cũng lành tính. Phải chi đầu óc sáng sủa hơn một chút, hẳn hắn sẽ cảm nhận được những lời răn nhủ của cha và may ra, có thể nhờ đó mà cảm thấy khá hơn. Như một khúc cây, hắn lẳng lặng nghe, chẳng nói chẳng rằng, cũng chẳng tỏ ra vui gì hơn khi cha nói là linh hồn hắn sẽ được cứu rỗi; ngay cả chuyện hắn có linh hồn hay không, hắn cũng không hỏi tới. Tuy vậy, đến một ngày trong tháng mười hai, khi kể chuyện Đức Mẹ Đồng trinh, chuyện các thiên thần, cha tuyên úy thấy hình như trong đôi mắt tim híp, đần đần của hắn thoáng long lanh một tia sáng rất mơ hồ, mơ hồ đến nỗi cha cũng không dám chắc là mình có thật sự nhìn thấy hay không. Cuối buổi nói chuyện, thật bất ngờ, hắn mở miệng: “Vậy... Chúa Hài đồng... còn sống chớ?” Cha tuyên úy đắn đo một chút rồi giải thích là hồi xưa, Chúa Hài đồng từng sống, sống cho đến khi bị đóng đinh câu rút trên thập tự giá lúc Chúa ba mươi ba tuổi. Nói với hắn, cha thấy không thể nào nói theo lối kể chuyện thông thường; Dermuche đần độn đến mức thật khó mà nói cho hắn hiểu ra được thế nào là chuyện thực, thế nào là chuyện đời xưa. May ra thì chuyện về Chúa Hài đồng vừa với tầm cảm nhận của hắn, và nhờ đó mà có thể rọi sáng cho tâm linh hắn được chút nào chăng? Cha kể cho hắn nghe chuyện Đức Chúa Con chọn giáng sinh trong chuồng chiên như thế nào, nằm trong máng cỏ đặt giữa một con bò và một con lừa ra sao...

“Dermuche - Cha tuyên úy nói, - con thấy đó, Chúa rất yêu người nghèo và đã đến để cứu giúp họ. Chúa cũng có thể chọn sinh ra trong nhà tù, giữa những con người bất hạnh nhất...”

“Vâng, thưa cha, con biết rồi - Hắn nói; - nói gọn lại là Chúa có thể chọn sinh ra trong xà lim đang nhốt con chớ không muốn được sinh ra trong ngôi biệt thự”.

Cha gật đầu tỏ ý hài lòng; Dermuche coi vậy mà lập luận nghe cũng được, có điều là hắn chỉ nghĩ đến trường hợp riêng của hắn và nhận thức đó cũng chưa đủ để dẫn dắt hắn tới chỗ ăn năn sám hối; do vậy, cũng với lối kể chuyện lửng lơ hư mà thực, thực mà hư, nửa xưa nửa nay đó, cha tiếp tục kể những chuyện về các pháp sư, về chuyện giết chóc những người vô tội, về chuyện trốn chạy, và cuối cùng là chuyện Chúa Hài đồng, lúc ấy đã có râu, bị đóng đinh trên thập giá, giữa hai tên trộm, chịu hy sinh để mở cửa Thiên đàng cho loài người.

“Đâu, con nghĩ xem, Dermuche! Linh hồn của tên ăn trộm đã hối cải có phải là linh hồn đầu tiên được nhận vào cửa Thiên đàng hay không, và đó có phải là do nó là kẻ càn quấy hay là do Chúa muốn chỉ cho chúng ta thấy là Người sẵn lòng tha thứ mọi tội lỗi? Đối với Người, ngay cả những tội nặng nhất cũng không hơn gì những chuyện quấy nhỏ nhặt trong đời...”

Cha càng kể, Dermuche càng tỏ ra ù ù cạc cạc; đối với hắn, chuyện tên trộm cải hối cũng mù mờ không khác gì chuyện phép lạ làm cho bánh mì, làm cho cá hiện ra. Hắn hỏi: “Vậy rồi Chúa Hài đồng có về lại máng cỏ không?”

Hắn chỉ nhớ có mỗi Chúa Hài đồng. Cha tuyên úy rời xà lim, thầm nghĩ: hiểu biết của tên sát nhân này không hơn một đứa trẻ. Cha còn tự hỏi, không biết Dermuche có phải gánh chịu trách nhiệm về hành vi tội ác của hắn hay không; cha còn cầu nguyện Chúa gia ơn cho hắn: trong cái thân xác ô dề cục mịch ấy là cả một tâm hồn trẻ thơ... Hắn giết ba con người già lão ấy không phải vì ác tâm, chẳng qua cũng giống như đứa con nít vặn tay, tháo chân hay cắt con búp bê ra thành từng khúc. Một đứa trẻ không ý thức được sức mạnh của nó, một đứa trẻ bất hạnh không hơn không kém, bằng chứng là nó chỉ tin có mỗi Chúa Hài đồng...

Vài ngày sau, đến thăm Dermuche, lúc kêu người giám thị mở cửa xà lim, cha tuyên úy hỏi: “Hắn hát cái gì vậy?”

Giọng vịt đực của Dermuche ồ ề nghe như tiếng chuông rè, lặp đi lặp lại không ngừng: Tum, ti tum, ti tum...

Người giám thị xà lim nói: “Chẳng biết cái gì mà cứ tum, tum, tum tối ngày; dở cũng không đến nỗi dở, mà êm tai thì cũng chẳng êm tai chút nào”.

Lòng vẫn thản nhiên, vô tư, điều ấy cho thấy kẻ phạm tội chưa biết kính sợ Chúa; cha tuyên úy càng bối rối hơn khi nhận thấy Dermuche tươi tỉnh hơn bình thưởng, bộ mặt khờ khạo của hắn trông sáng sủa hẳn ra, và dưới đôi mí mắt tim híp, ánh lên nét tươi tắn; đã vậy, hắn còn tỏ ra háo chuyện.

- Thưa cha - hắn hỏi, - bữa nay ở bên ngoài trời ra sao vậy cha?

- Bên ngoài tuyết đang rơi, con à!

- Cũng không sao; nó cóc có sợ tuyết, tuyết không cản được nó đâu...

Một lần nữa, cha tuyên úy lại nói về lòng nhân từ của Chúa và giảng giải cho hắn về lòng ăn năn sám hối, nhưng kẻ tử tội đã ngắt lời cha để hỏi về Đức Chúa Hài đồng, làm cho mọi cố gắng của cha tuyên úy đều trở thành công cốc:

- Chúa Hài đồng có biết hết mọi người không vậy cha? Chúa Hài đồng là chủ Thiên đường phải không cha? Có phải cha nói là Chúa Hài đồng cũng thích nhạc phải không cha?

Rốt cục cha tuyên úy cũng không sao nói thêm được gì. Khi cha quay trở ra, Dermuche nhét vào tay cha một mảnh giấy gấp làm tư; hắn mỉm cười nói:

- Đây là thư con gởi Chúa Hài đồng.

Cha tuyên úy cầm tờ giấy; mấy phút sau, cha mở ra xem.

Thư viết:

“Chúa Hài đồng thân mến, xin Chúa làm ơn. Tôi là Dermuche, theo đạo Chúa từ hồi nhỏ. Tôi biết là Chúa không để ý chuyện tôi làm với mấy người già cả ở Nogent. Chắc Chúa cũng không muốn chọn sinh trong nhà những người đó. Tôi không hỏi xin cái gì ở trên đời đâu, tôi sắp phải chết rồi. Cái tôi muốn hỏi là khi lên Thiên đường, tôi có được đem cái máy hát theo không? Cám ơn trước. Chúc Chúa may mắn. Dermuche”.

Cha tuyên úy hết sức bực bội, không biết làm cách nào cho cái tên tử tội ấy ăn năn sám hối cho được.

Cha thầm nghĩ: Thì ra con người ngây thơ khờ khạo đó hiểu biết không quá một đứa trẻ sơ sinh. Lòng tin vào Chúa Hài đồng đủ chứng tỏ đầu óc hắn non nớt như đầu óc một đứa trẻ, nhưng đến Ngày Phán xét, nếu như hắn vẫn còn mang trong lòng ba người bị hắn giết mà không hề có dấu vết gì của sự ăn năn thì ngay đến Chúa cũng không làm gì được, cho dù cái linh hồn bé nhỏ ấy có trong trắng như nước nguồn đi chăng nữa thì cũng vậy!

Tối đó khi đến nhà nguyện dành cho tù nhân, sau khi cầu nguyện cho Dermuche, cha tuyên úy đặt bức thư của hắn vào hình tượng chiếc máng cỏ của Chúa Hài đồng.

Ngày hai mươi bốn tháng mười hai, đúng vào ngày lễ Đức Mẹ vô nhiễm nguyên tội, ngay từ lúc trời còn chưa rạng, một đoàn người ăn mặc chỉnh tề cùng với các giám thị đi đến xà lim tử tội. Mắt vẫn còn đói ngủ, bụng lưng lửng, nao nao, miệng cứ chực há ra ngáp, đến cách chiếc giường vài bước, họ dừng cả lại, và trong cảnh tranh tối tranh sáng, họ căng mắt nhìn vào cái dáng người còn quấn kín trong chắn. Tấm chăn dày khẽ lay động, từ trong đó vọng ra tiếng khóc yếu ớt.

Ông Chánh biện lý cảm thấy lạnh dọc sống lưng, ông Quản đốc nhà giam nắn lại nút thắt chiếc cà vạt đen và bước tới trước, vuốt lại ống tay áo rồi chọn tư thế thích hợp: đầu nghiêng tới trước, vai xuôi xuống, hai bàn tay bắt chéo vào nhau thả trước bụng; cố tạo giọng diễn cảm, ông nói:

- Dermuche, anh phải thật can đảm lên mới được! Tôi cũng rất đau lòng khi phải nói với anh là đơn xin ân xá của anh đã bị bác rồi...

Đáp lời ông vẫn là tiếng khóc dai dẳng, to hơn lúc nãy nhưng cứ như người chết rồi mà chưa chôn, Dermuche vẫn không động đậy; tấm chăn dày vẫn lay dộng nhưng không có dấu hiệu gì cho thấy hắn sắp nhổm dậy.

- Bình tĩnh nào, Dermuche, đừng bắt chúng tôi phải đợi chứ - ông Quản đốc nói. Thông cảm với chúng tôi một chút đi, một lần này thôi mà!

Một viên giám thị bước tới cúi nhìn xuống giường, nhưng rồi anh ta bật thẳng người lên, giương ánh mắt sửng sốt ngó ông Quản đốc.

- Sao, cái gì vậy?

- Thưa... tôi cũng không biết nữa. Chăn động đậy, mà sao...

Từ dưới tấm chăn, một tràng tiếng khóc ré lên. Viên giám thị bất giác kéo tấm chăn ra khỏi giường rồi kêu rú lên. Mấy viên giám thị khác vừa bước trờ tới cũng ớ lên thảng thốt. Trên giường, thay vào chỗ của Dermuche là một đứa bé mới vài tháng tuổi; có lẽ mừng vì thấy có ánh sáng, nó toét miệng ra cười, giương ánh mắt long lanh nhìn mọi người.

- Thế này là thế nào? - Xoay sang viên giám thị trưởng, ông Quản đốc giằn từng tiếng một: - Các anh để tên tù trốn thoát rồi phải không?

- Không thể vậy được, thưa ông. Tôi vừa đi tuần cách đây mới bốn mươi lăm phút; lúc đó tôi thấy Dermuche vẫn còn nằm trên giường...

Giận tái mặt, không thèm nghe những lời phân trần của thuộc cấp, ông Quản đốc đe sẽ trừng trị họ thích đáng, trong khi đó thì cha tuyên uý đã quỳ xuống tạ ơn Chúa, tạ ơn Đức Mẹ, tạ ơn cả Trời, Đất, Thánh, Thần, cả Đức Chúa Con... mà chẳng ai để ý gì.

Cúi nhìn đứa bé, ông Quản đốc vò đầu bứt tai:

- Trời hỡi trời, xuống mà coi đây nè... ơ, mà sao trên ngực thằng bé lại có vết chàm y hệt vết chàm trên ngực Dermuche thế này?!

Mấy người kia xúm lại coi. Hai bên ngực đứa bé có hai vết chàm, vết bên này giống hình đầu một người đàn bà, vết bên kia giống hình đầu chó. Các giám thị đều đồng thanh khẳng định, trên ngực Dermuche cũng có hai vết chàm y hệt như vậy, cả kích cỡ cũng tương đương. Mọi người nín lặng. Mất một lúc, ông Chánh biện lý Leboeut đưa mắt nhìn ông luật sư Bridon rồi dè dặt lên tiếng:

- Không biết tôi có lầm không chứ theo tôi, nếu có thể đem so một đứa bé ở lứa tuổi đó với một người ba mươi tuổi thì phải nói là thằng bé này giống hệt Dermuche. Xem này, cái đầu to, khuôn mặt trèn trẹt, trán thấp, đôi mắt nhỏ hum húp và cả cái sống mũi gãy nữa... Các ông đồng ý với tôi chứ?

Ông Bridon đắn đo:

- Quả là giống thật.

- Dermuche có một cái bớt màu nâu ở phía sau đùi. -Viên giám thị trưởng rụt rè lên tiếng.

Mọi người giở đùi đứa bé lên và nhìn thấy vết bớt màu nâu.

Ông Quản đốc ra lệnh:

- Lấy mẫu vân tay của phạm nhân đem lại đây cho tôi!

Viên giám thị trưởng chạy vội đi, và trong khi chờ ông ta quay lại thì những người còn lại, hầu như chẳng còn nghi ngờ gì nữa, xôn xao bàn tán cố tìm hiểu xem tại sao Dermuche lại biến hình ra như vậy. Chỉ có ông Quản đốc nhà giam là tức tối; ông im lặng bước tới bước lui trong xà lim. Lúc đứa bé khóc ré lên vì nghe nhiều giọng nói lạ, ông bước lại cạnh giường, nói, giọng đe dọa:

- Chờ đấy, thằng nhóc! Lát nữa thôi, tha hồ mà khóc.

Ngồi xuống bên cạnh đứa bé, ông Leboeut soi mói nhìn nó rồi hỏi, giọng thăm dò:

- Ông có thật sự tin rằng đây đúng là kẻ giết người không đó?

- May ra... Dù sao thì lát nữa đây chúng ta cũng sẽ biết ngay thôi. - ông Quản đốc đáp.

Lòng vẫn còn bàng hoàng trước cái phép lạ kỳ diệu đó, cha tuyên úy lại tiếp tục quỳ xuống khấn tạ ơn Chúa Trời; cha đưa ánh mắt chan chứa yêu thương nhìn đứa bé thánh thiện đang nằm giữa ông Leboeut vả ông Quản đốc nhà giam, tuy nhiên cha cũng có đôi chút băn khoăn, không biết sự việc sẽ tiếp diễn ra sao; với đức tin, cha thầm nhủ: rồi Chúa Hài đồng sẽ sắp đặt mọi chuyện.

Việc so sánh các dấu vân tay xác nhận sự biến hình dị thường đó. Ông Quản đốc xoa tay nhẹ nhõm:

- Thiệt là mất thời giờ vô ích; bây giờ thì chúng ta tiếp tục được rồi. Nào, đứng dậy di, Dermuche, đứng dậy đi, mau lên!

Trong xà lim có tiếng xầm xì. Giọng phẫn nộ, ông luật sư Bridon kêu lên:

- Đem hành hình một đứa trẻ con còn ẵm ngửa như thế này à? Ông cho là ông được phép làm cái chuyên quái gở, ghê tởm đó à? Cho dù tội trạng của Dermuche đã được xác định, cho dù hắn đã bị kết án tử hình, thì đối với một đứa bé sơ sinh, liệu chúng ta có cần phải biện hộ cho sự vô tội của nó hay không?...

- Tôi không thể đi sâu vào các tình tiết đó được - ông Quản đốc lạnh lùng đáp. - Người này là Dermuche hay không phải là Dermuche? Hắn có giết ba người ở Nogent - sur -Mame không? Có phải đúng là hắn đã bị kết án tử hình rồi hay không? Trước luật pháp mọi người đều như nhau, mà tôi thì tôi không muốn có sự xáo trộn. Đoạn đầu đài đã dựng, máy chém lắp đặt sẵn cả tiếng đồng hồ rồi. Đến lúc này mà còn ở đây tranh cãi với nhau về chuyện một đứa bé sơ sinh là có tội hay là vô tội, đúng là vẽ chuyện! Cứ cái đà này thì ai cũng có thể sổng lưới pháp luật, chỉ cần biến thành đứa con nít là xong; sao dễ qua vậy?!

Ông luật sư âu yếm nhẹ tay kéo chăn đắp trở lại lên mình thân chủ của mình. Thấy ấm trở lại, thằng bé nhoẻn cười, nói u ơ. Ánh mắt giễu cợt, ông Quản đốc nhà giam đứng nhìn, trề môi: diễn kịch không phải chỗ!

- Rởm! - ông ta nói: - ông không thấy là từ đầu chí cuối nó cứ trơ trơ ra như vậy hay sao?

- Thưa ông Quản đốc - cha tuyên úy đỡ lời, - hẳn ông cũng thấy là Chúa đã để tay vào việc này?

- Cũng có thể, nhưng với tôi thì điều đó có ý nghĩa gì chứ? Công ăn việc làm, phải đâu do Chúa tạo ra cho tôi... Ai mới là người nâng đỡ cất nhắc tôi nào? Tôi đã được đào tạo, và tôi không muốn từ bỏ công việc của mình. - Quay sang ông Chánh biện lý, ông Quản đốc nói tiếp: - ông thấy tôi nói vậy có phải không?

Nghĩ ngợi hồi lâu ông Leboeut mới trả lời:

- Tất nhiên, việc ông, ông làm, đúng thôi. Để chọ một tên sát nhân được phép làm lại cuộc đời thay vì phải trả giá cho hành vi của hắn, điều đó thật hết sức phi lý. Tuy nhiên, hành hình một đứa con nít cũng là điều rất tế nhị... Theo tôi, hay hơn cả là ông nên hỏi ý kiến cấp trên...

Ông Quản đốc nóng nảy:

- Tôi biết họ quá đi chứ... Đặt họ vào tình thế khó xử, tránh sao cho khỏi rầy rà... Mà thôi, để tôi điện thoại xin ý kiến họ thử xem sao...

Các quan chức cao cấp có thẩm quyền giờ này chưa đến văn phòng, ông Quản đốc phải quay số điện thoại đến nhà họ. Chưa bảnh mắt đã bị quấy rầy, họ tỏ ra bực bội. Đối với họ, chuyện Dermuche biến hình nghe như chuyện xảo trá, như thể người ta muốn lừa bịp ngay đến cả họ, bởi vậy họ tỏ ra vô cùng giận dữ. Mặc dù vậy, có thể nào phủ nhận sự kiện tử tội lúc này đã là một đứa con nít đang còn ẵm ngửa?! Hoạn lộ thì dài mà đời thì cứ như bóng câu qua cửa sổ; rủi bị nghi là non yếu thì bước đường thăng tiến của họ sẽ ra sao?! Họ trao đổi với nhau, thống nhất nhận định: “... Rất có thể là dưới sức nặng của lòng ăn năn, tên sát nhân đã rúm người lại; mặc dầu vậy, dù cho có bất cứ chuyện gì xảy ra đi chăng nữa thì cũng không được phép làm lệch cán Công lý”.

Thế là tử tội được đưa ra làm vệ sinh, cạo sạch sẽ phần mềm sau gáy rồi được bọc lại trong tấm vải trải giường; tiếp đó cha tuyên úy tiến hành nghi thức rửa tội cho nó, xong, cha bồng nó đến bên chiếc máy chém dựng trong sân nhà tù.

Lúc mọi người quay về, cha tuyên úy nói với ông luật sư về đức tin của Dermuche qua bức thư hắn gởi cho Chúa Hài đồng:

“Chúa không thể để cho một kẻ sát nhân không có lòng ăn năn hối cải được vào cửa Thiên đường; tuy vậy Dermuche đã đặt hy vọng vào Người, đã tin yêu Đức Chúa Hài đồng, do vậy Chúa đã xóa cuộc sống tội nghiệt của hắn và đưa hắn trở lại tuổi ngây thơ vô tội”.

“Nhưng - ánh mắt ông luật sư tỏ ra đăm chiêu, - nếu như cuộc sống tội nghiệt đã được xóa, tức là Dermuche không phạm tội... Nếu quả thật như vậy thì những con người sống lặng lẽ trong ngôi biệt thự ở Nogent - sur - Marne hẳn là chưa bị giết?”.

Để biết rõ thực hư, ông luật sư lập tức đến Nogent - sur - Marne, hỏi thăm đường đến ngôi biệt thự nơi xảy ra án mạng nhưng không một ai nghe nói đến án mạng gì. Tuy vậy, chẳng mấy khó khăn, ông đã tìm ra được ngôi nhà nơi Quý cô Bridaine đang sống cùng ông cậu yếu chịu lạnh. Mới đầu, ba con người già cả đó còn tỏ ra nghi kỵ, nhưng khi đã được giải thích rõ ràng, họ liền kêu ca với ông luật sư là hồi khuya, không biết kẻ nào đã lẻn vào lấy trộm mất chiếc máy hát họ đặt trên bàn ăn.

(Theo Edward and Elizabeth Huberman: “Fifty Great European Short Stories”, Bantam Books, 1971)

Chú thích:

(1) Cơ quan giữ quyền công tố, như Viện kiểm sát của ta

Đánh máy: hoi_ls
Nguồn: hoi_ls - Vietnamthuquan.eu - Thư viện Online
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 28 tháng 12 năm 2023