- - I -
- - II -
- - III -
- - IV -
- - V -
- - VI -
- - VII -
- - VIII -
- - IX -
- - X -
- - XI -
- - XII -
- - XIII -
- - XIV -
- - XV -
- - XV - (2)
- - XVI -
- - XVII -
- - XVIII -
- - XIX -
- - XX -
- - XXI -
- - XXII -
- - XXIII -
- - XXIV -
- - XXV -
- - XXVI -
- - XXVII -
- - XXVIII -
- - XXIX -
- - XXX -
- - XXXI -
- - XXXII -
- - XXXIII -
- - XXXIV -
- - XXXV -
KÍNH TẶNG CÁC TỬ SĨ NĂM 1871
Tôi tặng cuốn sách này cho TẤT CẢ NHỮNG AI là nạn nhân của bất công xã hội đã cầm vũ khí chống lại một xã hội tổ chức hỏng và đã họp dưới là cờ của Công xã thành khối đại liên minh những đau khổ.
JUYN VALEX (Jules Vallé) [1]
*
Có lẽ tôi là một thằng hèn thật, nhưng bọn mũ đỏ và bọn gót đen đã nói dưới mái rạp Ôđêông (Odéon)!
Thế là đã bao nhiêu tuần rồi mà tôi làm giám thị[2] mà tôi cũng chẳng cảm thấy buồn rầu hay đau xót gì; tôi chẳng thấy bực bội và cũng chẳng thấy xấu hổ.
Tôi đã từng chửi món đậu ở trường trung học; hình như đậu ở địa phương này ngon hơn vì tôi ngốn hàng đĩa đậu và liếm đi liếm lại chiếc đĩa.
Hôm nọ, giữa buồng ăn im lặng, tôi đã thét lên như hồi xưa ở quán Ritsơfơ”
- Bồi, cho thêm một xuất!
Mọi người quay lại, và người ta cười.
Tôi cũng cười – tôi đang tiêm nhiễm cái vô tư lự của kẻ khổ sai, cái trơ tráo của tù nhân, tôi đang thích nghi với nhà ngục của mình, đang dìm con tim mình trong bình rượu sung túc – tôi đâm yêu cái máng ăn của tôi.
Tôi đã đói quá lâu rồi!
Tôi đã từng bao phen thắt chặt cạnh sườn để bóp nghẹt cơn đói nó gầm gừ và cắn xé ruột gan tôi. Tôi đã từng bao lần vuốt bụng mà không làm ánh lên tia hy vong được một bữa ăn, đến nỗi bây giờ, như con gấu nằm dưới một dàn nho, tôi cảm thấy khoái trá khi được tẩm nước xốt nóng vào ruột khô của mình.
Cái đó cũng gần như niềm thích thú khi xoa vào một vết thương đã lành.
Dù sao tôi cũng không còn nước da xanh xao, con mắt sâu hoắm như trước nữa; bây giờ thường có trứng dính ở bộ râu của tôi.
Bộ râu này, xưa kia tôi không chải nó; ngón tay tôi giày vò và hành hạ nó khi tôi nghĩ tới nỗi bất lực và cảnh bần cùng của mình.
Bây giờ thì tôi trau chuốt và xén đều nó… Cả mái tóc cũng thế, và hôm chủ nhật nọ, trước gương, sau khi trút bỏ mảnh vải che thân cuối cũng, tôi bất chợt, với đôi chút kiêu hãnh, thấy mình có tí chút bụng phệ.
Thầy tôi còn can đảm hơn, và tôi nhớ lại là đã thấy ánh lên mối căn thù trong con mắt thầy tôi, hồi thầy tôi làm giám học, tuy thầy tôi không đóng vai người cách mạng, không sống trong thời kỳ bạo động, chưa bao giờ hô hào cầm vũ khí, không qua trường học khởi nghĩa và đấu gươm.
Giờ-đây tôi đâm ra thế này – và tôi đã tìm thấy ở trường trung học này sự yên ổn của nơi trú viện, miếng bánh mì của nhà cứu tế, khẩu phần ăn của nhà thương.
Lúc chặp tối, một cựu chiến bính ở Farâyron(Farreyrolles) đã từng chứng kiến trận Oaleclô (Waterloo) kể với chúng tôi rằng buổi chiều trận đánh ấy, trước khi nó kết thúc, ông ta đi ngang qua một quán ăn cách hàng quân vài bước, ông ta ngã gục xuống một chiếc bàn gỗ, quăng súng và không chịu đi xa nữa.
Viên đại tá mắng ông ta là hèn nhát.
- Hèn nhát cũng được! Không còn có Chúa, có Hoàng Đế… Tôi đang đói khát đây!
Và ông ta tìm cái sống trong tủ ăn của quán hàng, giữa những xác chết; và, ông ta nói ông ta chưa bao giờ được ăn bữa nào ngon hơn, thịt thì tuyệt ngon và rượu thì mát lịm. Rồi ông ta nằm dài, đầu gối lên túi dết, ông ta ngáy theo nhịp tiếng gầm của đại bác.
Đầu óc tôi bây giờ ngủ yên xa cuộc chiến đấu và xa tiếng ồn ào; kỷ niệm của quá khứ chỉ còn rung lên trong tim tôi, như còn có thể rung bên tai một tên lính đào ngũ, tiếng trống trận xa dần và tắt lịm.
Là con mồi của phòng trọ, trong bao nhiêu năm bắt buộc phải nhận bất cứ cái ổ chuột nào làm nhà ở, và chỉ quay về cái ổ đó vào những giờ tối mịt, vì sợ nỗi mất ngủ, hoặc vì sợ bà chủ trọ; là kẻ trốn khỏi nông thôn cần nhiều khí trời hơn người khác, nhưng chỉ được hít thở những xú khí ở những quán trọ đầy nước rác; là kẻ đói khát chưa bao giờ ăn trả tiền ngay, mà vốn lại háu đói và phàm ăn - ấy chính cái anh chàng đó, một buổi sang kia, bỗng thấy được đảm bảo về ăn và ngủ, đảm bảo chiếc khăn bàn không ngập ngụa, giấc ngủ không rệp đốt, và tỉnh dậy không chủ nợ réo đòi.
Và anh chàng Vanhtrax hung tợn không còn mối căn giận trong lòng, mà là cái mũi chúi vào đĩa thức ăn với chiếc khăn ăn mang khoanh tròn, và một bộ thìa đĩa đẹp bằng may-so.
Mà anh ta cũng đọc kinh trước bữa ăn như kẻ khác, với vẻ nghiêm trang khá đầy đủ, và nó không làm nhà cầm quyền phật lòng.
Bữa ăn xong, anh tạ ơn Chúa (vẫn bằng tiếng la-tinh), luồn tau ra đàng trước lưng áo gilê để nới vòng khóa cởi một chiếc cúc ở đàng trước, rồi khép áo rơđanhgốt lại chiếc áo lấy trong tủ của người quá cố và sửa chữa lại cho vừa người anh ta, theo kiểu của bố. Rồi ruột căng, môi nhờn, cùng đoàn học sinh do anh chỉ huy, anh đi về phía sân của học sinh lớn, chiếc sàn cao át cả một vùng, chẳng khác gì sân thượng của một lâu đài phong kiến.
Ở trên từng cao ấy, đôi lúc, tôi thấy nên trời như một chiếc áo lụa nõn và làn gió hiu hiu mơn trớn cổ tôi như cánh chim va nhẹ.
Chưa bao giờ tôi thấy trước mặt tôi bao nhiêu êm đềm và yên tĩnh như thế.
Buổi tối.
Căn buồng nhỏ ở đầu nhà ngủ, nơi các thầy giám học có thể tới để làm việc hoặc mơ màng vào những giờ rảnh, căn buồng ấy trông ra một vùng thôn quê xum xuê cây cối và ngang dọc có những con sông.
Trong hơi gió, hương vị biển cả, mằn mặn ở môi, làm mát rượi con mắt và xoa dịu tim tôi. Trái tim ấy, nó đập quá ít theo tiếng gọi của tư tưởng, như tấm màn che sát cửa sổ trước một làn gió mạnh hơn.
Tôi quên mất cái nghề mà tôi đang làm, tôi quên mất lũ trẻ tôi phải canh giữ… tôi cũng quên cả đau khổ và nổi loạn.
Tôi không quay đầu về phía Paris đang gầm thét, tôi không tim, ở chân trời, nơi bốc khói, chắc là phải đấu trường – tôi đã phát hiện ở phía cuối,nơi xa tít kia, một vườn miễn-liễu và một vườn cây ăn quả đang ra hoa, mà tôi đăm đăm nhìn với đôi mắt ướt và tôi cảm thấy dịu dàng hơn trước.
Phải, bọn ở Ôđêông (Odéon) đã nói đúng: đồ hèn mạt!
Khi ra khỏi trường, tôi bước vào những phố xá êm ả và yên ngủ, tôi chỉ đi một trăm bước là tới một con suối, tôi men theo, đầu óc không suy nghĩ gì, con mắt mơ màng nhìn theo một cành cây hoặc một búi cỏ bị dòng nước cuốn và nó cũng có chuyện bất kỳ ở dọc đường.
Cuối đường là một quán rượu nhỏ, với một xâu táo làm biển hàng, tôi uống vài xu, rượu táo màu vàng óng, nó làm cho mũi tôi cay cay.
Chà, đúng! Đồ hèn mạt!
Nhưng tôi lại vẫn không gặp may…
Do một sự tình cờ kỳ lạ, trường trung học này lại tràn trề không khí và ánh sáng; đấy là một nhà tu cổ, có vườn lớn và có cửa sổ lớn; trong nhà ngủ, khi cửa sổ mở, vọng vào tiếng ồn ào của lá cây và tiếng run rẩy của thiên nhiên ngà màu hoen rỉ lúc sang thu, với sắc ấm của đồng hun và đồng thau.
Bọn học sinh không có án cảm với tôi, chúng vẫn quen bị cai quản bởi những gã tập sự vừa rời khỏi ghế nhà trường, hoặc bởi những lão giám học già đeo lon, còn ngu xuẩn hơn cả những tên đội đầu buồng.
Bọn học sinh coi tôi là có phần như một sĩ quan không chính quy thất thế, mà cái chết của người cha – một sĩ quan chính quy đeo lon – ngẫu nhiên bị gọi về; hơn nữa tôi có vòng hào quang của dân Pari. Thế là đủ để tôi không bị cái đám tù trẻ tuổi này căm ghét.
Các bạn đồng sự cũng thấy tôi dễ ưa, mặc dù quá đạm bạc, họ thì đóng khoanh những giờ rảnh của họ vào một tiệm cà-phê ẩm ướt và tối tăm, ở đó họ tự làm mụ người bằng uống bia, nhấm nháp cà-phê pha rượu và nhồi tẩu thuốc.
Tôi không uống mà cũng không hút.
Thì giờ riêng của tôi, tôi qua bên cạnh lò sưởi, trong phòng học trống rỗng, một quyển sách trong tay, hoặc ở lớp triết học, một quyển vở đặt trên đầu gối.
Giáo sư triết là con rể của chính ông giám hiệu đại học, ông ta cảm thấy hãnh diện khi thấy anh chàng dân Pari ấy, với vẻ ngổ ngáo, bộ râu đen, ngồi trên ghế như một cậu học trò, và lắng nghe nói về các đặc tính của linh hồn. Những điểm này đã chơi tôi một vố hồi thi tú tài, không thể để chúng lại cho tôi vào tròng ở kỳ thi cử nhân. Tôi vẫn biết xem ở tỉnh Canvađốx người ta cho linh hồn có nhiều đặc tính: sáu, bảy, tám… ít hơn hay nhiều hơn!
Và tôi theo học chăm chỉ, để được tinh thông về môn triết học tỉnh này.
15 tháng 10.
Hôm nay là ngày khai giảng Đại học khoa Văn; diễn văn khai giảng sẽ do giao sư sử học đọc.
Nhưng giáo sư này, tôi đã có lần gặp ông ta rồi!
Chính ông đã tới trường trung học Bônapactơ (Bonaparte), với tư cách là học sinh năm thứ ba trường sư phạm để dạy chúng tôi môn tu-từ-học, hồi tôi theo lớp ấy. Hồi đó vào năm 1849 – quả thật ông ta ăn nói bạo dạn và cách mạng. Tôi nhớ ông còn tới cả tiệm cà-phê với Anatôly (Anatoly) mà ông quen người anh và ông ngẩng đầu lên khi nghe thấy tôi chửi bộ quần áo thầy tu của Bêrănggiê (Béranger) ở bàn bên cạnh, nơi đang có tranh luận.
Hồi ấy ông đã chú ý đến tôi, mà không nhớ tên tôi; nhưng bây giờ ông vẫn nhớ tới chuyện ấy, và lúc tan lớp, tôi tới gặp ông thì ông nhận ra tôi ngay.
- Thế bây giờ anh làm gì ở đây? Tôi nghe nói anh bị đi đầy hay chết vì đấu gươm rồi.
Tôi thú thật với ông là tôi tự cảm thấy đến mức nào bị đắm đuối, an phận, sung sướng trong khuôn phép, bằng lòng sống, với bàn tay nắm chiếc mở nút chai rượu táo hay chiếc thìa xúc đậu khô, mắt nhìn theo làn sóng trên sông.
- Quỷ thật, quỷ thật! Ông nói như một thầy thuốc khi nghe tin dữ. Vậy anh đến tôi chơi, nói chuyện. Tôi cũng thấy thú được thỉnh thoảng thoát khỏi cái khung cảnh bọn ngốc và khốn kiếp kia!
Ông khoát tay chỉ các nhà chức trách và cả đám đồng sự của ông.
Chính ông ta, giáo sư đại học đắc thế, nói như thế đấy!
Chà! Tôi đã gặp ông ta làm gì!
Tôi đã sống yên ổn, tôi khoan khoái nghỉ ngơi; ông ta nhóm lửa lại trong lòng tôi, và, hôm chủ nhật, khi tôi nới khóa thắt lưng ở bữa tráng miệng và tự kiềm chế khoái cảm, thì ông ta lay tôi:
- Ít nhất anh đừng trở thành tư sản và phát phì ra. Tôi vẫn còn ưng nghe anh chửi tôi vì cái huân chương tháng Sáu ấy.
Quả thật, hôm đầu tiên đến chơi nhà ông, tôi đã chửi ông về tấm huy chương của ông, rồi tôi quay ra cửa.
Ông giữ tôi lại.
- Hồi ấy tôi hai mươi tuổi… tôi đứng trong cả bầy trường Sư phạm… Vì không hiểu khởi nghĩa là thế nào, tôi đứng về phe Cavainhắc mà tôi ngỡ là người Cộng hòa, và tôi là kẻ đầu tiên xong vào điện Păngtêông, nơi thợ thuyền dựng chiến lũy. Người ta cử tôi tới báo tin cho Nghị viện, và họ lấy băng cài vào khuyết áo tôi. Nhưng, tôi thề với anh, tôi không để giết hại một người nào, mà tôi đã liều mạng để cứu sống nhiều chiếu sĩ. Thôi anh hãy ở lại đây! Anh thấy rõ rằng con người ta có thể thay đổi, bởi lẽ chính anh thú nhận là anh không giống như trước nữa…
Ông giơ tay ra, tôi nắm lấy và từ đó chúng tôi trở thành bạn.
Tôi cũng trở thành học trò yêu của người đồng sự tóc bạc của ông nữa, cụ Masar, cụ ấy bây giờ im hơi lặng tiếng ở tỉnh lẻ, sau khi đã có thời vinh quang tại Pari.
- Ai là Vanhtrax trong các anh? Ông cụ hỏi bọn giáo học tụ tập để dự kỳ giảng thứ hai của năm học.
Tôi bước ra khỏi đám.
- Anh ở đâu đến, trước anh học ở đâu?… Ở Pari xa kia phải không? Ít ra anh cũng đã kết thúc ở đấy, tôi tin chắc như thế!
Và cụ bảo tôi đọc to bài luận văn của tôi, bài làm của tôi.
- Anh là một nhà văn đấy, anh ạ!
Cụ ném câu đó vào mặt tôi mà chẳng báo trước, và tan lớp, cụ kéo tôi về tới tận cửa nhà cụ. Tôi đã kể chuyện tôi cho cụ nghe.
- Ờ, ờ! Cụ vừa nói vừa gật đầu, nếu chỉ ông bạn Lăngxanh với tôi thì anh sẽ đỗ cử nhân tháng tám này! Nhưng liệu anh còn ở lại tới ngày ấy không? Ông hiệu trưởng có giữa anh lại không? Trông anh có vẻ một con người, ông ta thì lại cần đến những con chó cụp đuôi…
- Tôi thu mình lại, tôi đã định làm một thằng hèn!
- Có lẽ, nhưng người ta thấy anh không phải thế, và bọn đê tiện đoán thấy anh khinh chúng.
Cụ nói rất đúng, người giáo sư già ấy! Dù tôi có tỏ vẻ yên ngủ, và để bụng phát phì, và đọc kinh trước bữa ăn, cũng chẳng có ích gì hết!
Bọn đạo đức giả trường đại học, viên hiệu trưởng và viên tư-tế trường trung học đã quyết định bẫy tôi. Bộ râu chổi sể của tôi, con mắt trong sáng của tôi, tiếng nện gót của tôi, dù bước chân tôi có êm mấy, tất cả đều chửi vào cái cằm nhẵn thín của chúng, con mắt lén lút của chúng, tiếng gót giày lê trên gạch lát của chúng.
Không thể trách tôi thiếu chín chắn hoặc hay rượu, bọn Jêduyt ấy, chúng nẩy ra một ý kiến kỳ diệu!
Chúng ám muội tổ chức một âm mưu làm hại tôi.
Nửa đêm.
Nhà ngủ, nơi tôi thắp nến học đêm, trở thành địa bàn phục kích của bọn âm mưu ấy.
Kiểu xây nhà tu của nó tiện cho viện nổi loạn. Hồi xưa mỗi thầy tu có một phòng lộ thiên, bây giờ mỗi học sinh có một phòng như vậy, thành thử, người ta không nhìn thấy ai trong từng ngăn một; viên giám học nghe thấy tiếng động mà không phân biệt được cử chỉ của ai.
Một buổi tối kia, đã xảy ra một cuộc khởi nghĩa giữa các bức tường bằng gỗ ấy: tiếng đập vào vách, tiếng huýt sáo, tiếng gầm gừ, tiếng la thét, và nghe thật ngộ đến nỗi tôi cũng muốn xen mình vào đấy.
Và chính tôi, tôi cũng nện, huýt còi, gầm gử, la thét, với những âm the thé giọng kim:
- Đả đảo giám học!
Đây là giờ phút sinh động đầu tiên của tôi, kể từ khi tôi vào làm ở đây.
Tôi đứng đó, áo sơmi trần, ngay giữa căn buồng, tôi lấy cái giá nến đập vào cái bô đi tiểu, bắt chước tiếng gà, tiếng lợn, la thét liên hồi: Đả đảo giám học!
Người ta ấy cửa vào….
Đích thân viên hiệu trưởng. Ông ta kinh ngạc khi thấy tôi phong phanh áo ngủ, chân không trên nền gạch, một tay cầm chiếc chiếu bò, tay kia cầm cái giá nến, và ông ta ngơ ngác lầm bầm:
- Thế ông… ông không nghe thấy à?
-???
- Cuộc nổi loạn ấy!… tiếng la thét ấy!
- Tiếng la thét?… Một cuộc nổi loạn?
Tôi dụi mắt, giả bộ sửng sốt và bối rối… Ồ! Ông ta đã hiểu rõ sự tình, và ông ta bỏ đi, mặt trắng bệch như men chiếc bô. Sẽ không có nổi loạn ở nhà ngủ nữa? Không có nguy cơ gì!
Tôi lại đi nằm, chán ngán về tiếng ồn ào đã chấm dứt.
Nhưng tôi thấy rõ là phen này tôi đi đứt. Tôi sẽ quấy mặt trước khi người ta đuổi tôi đi.
Cơ hội vừa tới.
Ông giáo sư tu-từ học bị ốm. Có lệ là viên giám học sẽ thay ông giáo chính, khi ông này bất thường bị bận việc hoặc vắng mặt.
Vậy thì chiều nay, chính tôi sẽ lên lớp, sẽ bước lên giảng đàn kia.
Đây, tôi ở trên giảng đàn.
Học sinh đang chờ đợi, với mối xúc động mà mọi sự kiện mới đều sinh ra. Tôi sẽ xoay xở ra sao đây, tôi, tay nói giỏi, con cưng của trường Đại học, dân Pari?
Tôi bắt đầu
“Thưa các bạn,
“Tình cờ mà tôi được thay ông Jăckô, giáo sư đáng kính của các bạn. Nhưng tôi xin mạn phép không tán thành ý kiến của ông về phương pháp giáo dục nên theo.
“Ý kiến riêng của tôi là không nên học gì cả, bất cứ cái gì mà ngành Giáo dục yêu cầu các bạn. (Tiếng ồn ào ở giữa lớp). Tôi nghĩ có ích cho tương lại các bạn hơn nên tôi khuyên các bạn nên chơi đôminô, chơi cờ đam, chơi ècáctê – những bạn ít tuổi nhất thì được phép chơi trò cắm giấy vào đít ruồi. (Chuyển động khắp các phía)
“Kìa, các ban hãy yên lặng! Ta chẳng cần phải suy nghĩ gì để đọc Đêmôxten hay Viêcgin, nhưng muốn ăn 90 hoặc 500 điểm, hay muốn chiếu trướng, hay muốn cắm giấy vào đít ruồi mà không làm nó đau, thì bình tĩnh là cần thiết cho tư duy, và trầm tư là yêu cầu đối với con bọ vô tội mà, thưa bạn, trí tò mò của các bạn sắp thăm dò, nếu tôi dám nói như vậy. (Xôn xao kéo dài)
“Cuối cùng tôi mong rằng thì giờ mà chúng ta sắp trải qua với nhau, sẽ không phải là mất toi.”
Lên bảng!
Ngay tôi hôm ấy, tôi nhận được lệnh nghỉ việc.
Chú thích:
[1] JUYN VALEX, tắt thở ngày 14-2-1885, không được hưởng niềm vui được thấy cuốn Người khởi nghĩa xuất bản. Bệnh tật không cho ông hoàn thành được tác phẩm, và nếu cuốn sách được Nhà Sacpăngchiê xuất bản năm 1886, ấy là do lòng tận tụy không mệt mỏi của cô Xêvơrin. Là một nữa cộng tác viên thông minh của nhà văn, cô đã sắp xếp lại bản thảo và là người truyền đạt trung thành ý kiến của tác giả, cô đã thực hiện được những sửa đổi theo ý muốn của nhà văn.
Trong tập III của bộ Jăc Vanhtrax này, được viết và xuất bản sau cuộc ân xá, người ta không ngạc nhiên thấy tên thật của những nhân vật đã xuất hiện dưới những tên tác giả trong hai tập đầu.
[2] Valex đã thật sự làm giám thị trong vài tháng tại trường trung học Caen từ tháng tháng 10 năm 1862 tới tháng 1hay tháng 2 năm 1863.
- I -
Tiến >>
Scan: conguyen Đánh máy: kzak27, Celesta, Fish, meobeohu, minhtrang, lemontree123, Bac Nguyen và conguyen
Nguồn: NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC - Hà Nội – 1975 - http://tve-4u.org
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 11 tháng 12 năm 2023