- Phần 1: Một thời trong địa ngục
Mở đầu: Khói và kim cương - 1. Mũi tên của Valentine
- 2. Quán Hunter’s Moon
- 3. Điều Tra Viên
- 4. Chim cúc cu trong tổ
- 5. Tội lỗi của các cha
- 6. Thành phố tro tàn
- 7. Thanh Kiếm Thánh
- Phần II - Cổng địa ngục
8. Triều đình Seelie - 8. Triều đình Seelie (tt)
- 8. Triều đình Seelie (tt)
- 9. Và cái chết sẽ không mãi vĩnh hằng
- 9. Và cái chết sẽ không mãi vĩnh hằng (tt)
- 10. Một nơi yên ổn riêng tư
- 11. Khói và sắt
- 12. Ác mộng bủa vây
- 13. Kẻ chiêu đãi những thiên thần nổi loạn
- 14. Can trường
- 14. Can trường (tt)
- 15. Nanh rắn
- 15. Nanh rắn (tt)
- 16. Trái tim sắt đá
- 16. Trái tim sắt đá (tt)
- 17. Phía đông vườn địa đàng
- 17. Phía đông vườn địa đàng (tt)
- 18. Bóng tối bủa vây
- 18. Bóng tối bủa vây (tt)
- 18. Bóng tối bủa vây (tt)
- 19. Ngày phán xét
- 19. Ngày phán xét (tt)
- 19. Ngày phán xét (tt)
- Phần kết
- Phần kết (tt)
- Phần kết (tt)
Vũ Khí Bóng Đêm 2
Thành Phố Tro Tàn
dịch giả: hà ly
Phần 1: Một thời trong địa ngục
Mở đầu: Khói và kim cương
Ta tin mình đang nơi Địa ngục, nhờ thế ta mới tồn tại.
- Authur Rimbaud
Mở đầu: Khói và kim cương
Công trình làm từ kính và thép tuyệt đẹp đứng sừng sững trên phố Front như một mũi kim lấp lánh đâm toạc bầu trời. Đó chính là tòa tháp Metropole cao năm mươi bảy tầng, tòa tháp căn hộ ở khu đô thị mới xa xỉ nhất của Manhattan. Trên tầng cao nhất, tầng năm mươi bảy, chỉ có duy nhất một căn hộ thuộc loại sang nhất trong số những phòng hạng sang: căn tầng mái của tòa nhà Metropole, một công trình thiết kế xứng tầm kiệt tác với hai tông màu chủ đạo đen và trắng. Căn hộ còn rất mới chưa kịp dính lấy chút bụi, nền nhà đá hoa cương sáng loáng phản chiếu trời sao trông rõ qua những khung cửa sổ to lớn chạy từ trần xuống sàn. Kính cửa sổ trong văn vắt, tạo ra một ảo tưởng rất thật rằng chẳng có gì chắn giữa người đứng ngắm và quang cảnh ngoài kia vốn đã luôn được cho là tác nhân gây ra chứng xây xẩm thậm chí là cho những kẻ không hề sợ độ cao.
Xa xa bên dưới, dòng sông Đông uốn lượn như một sợi ruy-băng bạc, có đôi cây cầu lấp lánh vắt ngang, lốm đốm những tàu thuyền nhỏ xíu như mắt muỗi, dòng sông ngăn đôi hai bờ ánh sáng rực rỡ hoa lệ, một bên là Manhattan và bên kia là Brooklyn. Vào những đêm quang đãng, người ta mới có thể nhìn thấy thấp thoáng Tượng Nữ Thần Tự Do xa xa ở mạn nam - nhưng đêm nay lại mù sương, Đảo Tự Do hoàn toàn biến mất sau màn sương mù trắng xóa.
Dù khung cảnh có lộng lẫy đến mấy, người đàn ông đang đứng trước cửa sổ kia dường như không mảy may ấn tượng. Gương mặt gầy, khắc khổ của hắn cau có khi hắn quay người rời khỏi ô cửa sổ và sải bước đi, tiếng gót giày vang đều đều trên nền đá hoa cương. “Ngươi vẫn chưa xong à?” hắn hỏi, lùa tay qua mái tóc muối tiêu. “Chúng ta ở đây gần một tiếng rồi.”
Cậu bé đang quỳ trên sàn nhà ngước mắt nhìn, vừa lo lắng vừa cáu kỉnh. “Nền nhà bằng đá hoa cương. Nó cứng hơn tôi tưởng. Vẽ ngôi sao năm cánh trên này khó lắm.”
“Vậy đừng vẽ nữa.” Nhìn cận cảnh, người ta rất dễ dàng nhận ra rằng, dù tóc đã bạc, nhưng người đàn ông này chưa già. Khuôn mặt đăm đăm của hắn có khắc khổ nhưng không có lấy một nếp nhăn, đôi mắt vẫn còn tinh anh và quyết đoán.
Cậu bé nuốt khan và đôi cánh màng đen nhô ra từ xương bả vai (cậu đã phải rạch phần sau áo khoác jean để chừa chỗ cho đôi cánh này) bồn chồn vỗ vỗ. “Ngôi sao năm cánh là một phần thiết yếu cho bất cứ nghi thức triệu hồi quỷ nào. Ngài biết điều đó mà. Không có nó...”
“Chúng ta sẽ không được bảo vệ. Ta biết, Elias nhỏ bé ạ. Nhưng cậu phải quen với việc đó thôi. Ta biết được có những pháp sư có thể triệu hồi quỷ dữ, nói chuyện con cà con kê với nó rồi tống khứ nó về địa ngục chỉ bằng thời gian cậu vẽ nửa ngôi sao năm cánh thôi.”
Cậu bé không nói gì, chỉ cắm cúi chọc mặt đá hoa cương, nhưng giờ nhanh nhẹn hơn. Mô hôi nhỏ giọt như mưa từ trán và cậu ta dùng bàn tay với những ngón tay dính vào nhau bằng lớp màng mỏng như mạng nhện vuốt tóc lên. “Xong,” cuối cùng cậu ta nói sau khi ngồi thẳng dậy và thở hổn hển. “Xong rồi.”
“Tốt.” Người đàn ông có vẻ hài lòng. “Chúng ta bắt đầu thôi.”
“Tiền của tôi...”
“Ta đã nói rồi. Cậu sẽ nhận được tiền sau khi ta nói chuyện với Agramon, chứ không phải trước lúc đó.”
Elias đứng dậy và cởi áo khoác ra. Dù đã cắt lỗ, nhưng chiếc áo khoác vẫn bó chặt lấy đôi cánh đến khó chịu; vừa thoát khỏi kìm kẹp, đôi cánh liền sải rộng, khẽ rung rung tạo nên cơn gió nhè nhẹ thổi trong căn phòng vốn đang ngột ngạt. Đôi cánh mang màu dầu loang: một màu đen đan xen với vạt màu bảy sắc cầu vồng hoa cả mắt. Người đàn ông nhìn đi chỗ khác, như thể đôi cánh khiến hắn không thoải mái, nhưng Elias dường như không để ý. Cậu ta bắt đầu đi quanh ngôi sao năm cánh vừa vẽ xong, theo hướng ngược chiều kim đồng hồ và lẩm nhẩm quỷ ngữ nghe như tiếng lửa cháy lách tách.
Với âm thanh xèo xèo như tiếng lốp bị xì hơi, phần viền ngoài ngôi sao năm cánh đột nhiên bùng cháy. Mười hai cửa sổ lớn phản chiếu hình ảnh mười hai ngôi sao lửa
Có gì đó di chuyển trong ngôi sao năm cánh, cái gì đó đen đúa không hình không dạng. Elias lầm rầm nhanh hơn, giơ bàn tay có màng lên, những ngón tay dường như đang phác họa các đường nét rõ ràng trong không khí. Những ngón tay đi tới đâu, ngọn lửa xanh bừng cháy tới đó. Người đàn ông không thể nói lưu loát tiếng Chthonia, ngôn ngữ pháp sư, nhưng hắn biết đủ để hiểu câu thần chú Elias đang nhắc đi nhắc lại: Agramon, ta triệu hồi ngươi. Rời khỏi không gian giữa các thế giới, ta triệu hồi ngươi.
Người đàn ông đút tay vào túi. Một vật kim loại cứng, lành lạnh chạm vào ngón tay hắn. Hắn mỉm cười.
Elias đã ngừng chuyển động. Giờ cậu ta đứng trước ngôi sao năm cánh, giọng lên bổng xuống trầm theo câu thần chú, ngọn lửa xanh nổ lách tách xung quanh như sét. Đột nhiên một cuộn khói đen bốc lên từ trong ngôi sao năm cánh; nó cuộn vòng bay lên, trải rộng và và đông đặc lại dần. Hai con mắt lửng lơ trong đám khói trông như hai viên đá quý dính trên mạng nhện.
“Kẻ nào đã gọi ta xuyên qua các thế giới tới nơi đây?” Agramon gằn giọng hỏi, giọng hắn ta nghe lanh canh như tiếng kính vỡ. “Kẻ nào đã triệu hồi ta?”
Elias đã ngừng đọc thần chú. Cậu ta đứng chết lặng trước ngôi sao năm cánh - chết trân, trừ đôi cánh vẫn chầm chậm vỗ nhẹ trong không khí. Không khí nồng nặc mùi a xít và mùi cháy khen khét.
“Agramon,” pháp sư nói. “Ta là pháp sư Elias. Ta là người đã triệu hồi ngươi.”
Trong giây phút, tất cả chìm trong im lặng. Sau đó con quỷ bật cười, nếu như khói có thể được cho là cười. Bản thân tiếng cười nghe cay độc như a xít vậy. “Tên pháp sư ngu ngốc,” Agramon khò khè. “Thằng nhỏ ngu ngốc.”
“Chính ngươi mới ngu ngốc, nếu như ngươi nghĩ ngươi có thể đe dọa ta,” Elias nói, nhưng giọng lại run run như đôi cánh. “Ngươi là tù nhân trong ngôi sao năm cánh này, Agramon, cho tới khi ta phóng thích ngươi.”
“Thật sao?” Đám khói nhoài lên phía trưóc, biến hóa khôn lường. Một tua khói biến thành hình bàn tay người và vuốt vuốt vào mép sao năm cánh cháy sáng đang bao tủa lấy nó. Rồi, bằng một lực ùa tới, toàn bộ cuộn khói sủi bọt xuyên qua mép ngôi sao, tràn ra ngoài như sóng tràn qua đê. Ngọn lửa lập lòe rồi tắt lịm trong khi Elias gào thét và loạng choạng lùi lại. Giờ cậu ta đang lầm rầm, liến thoắng bằng tiếng Chthonia, những những lời chú nhằm ngăn chặn và trục xuất con quỷ. Không tác dụng; cuộn khói đen ào ạt lao tới, và giờ nó bắt đầu biến thành một thứ có hình dạng - một thứ hình thù khổng lồ, xấu xí, dị hợm, đôi mắt sáng to dần, tròn như cái đĩa con, tỏa ra ánh sáng lòe lòe đáng sợ.
Người đàn ông dửng dưng quan sát khi Elias lại gào lên và quay người định chạy. Nhưng cậu chẳng bao giờ đến được cánh cửa. Agramon tràn tới, trùm lấy cậu nhóc pháp sư bằng luồng khói như hắc ín nóng chảy. Elias yếu ớt chống cự một hồi - rồi sau đó bất động.
Bóng đen rút lui, để lại cậu nhóc pháp sư nằm co quắp trên nền đá hoa cương.
“Ta mong là,” người đàn ông lên tiếng, giờ đã rút vật kim loại ra khỏi túi và lơ đãng nghịch nghịch nó trên tay, “ngươi đã không làm gì khiến hắn biến thành phế vật với ta. Ta cần máu của hắn, ngươi biết đấy.”
Agramon quay lại, trông như một cây cột khói đen sì với đôi mắt hình kim cương chết chóc. Chúng nhìn chăm chăm vào người đàn ông trong bộ com lê đắt tiền, vào khuôn mặt dửng dưng, gầy guộc, vào những Ấn Ký màu đen phủ đầy da hắn, và vào vật phát sáng trên tay hắn. “Ngươi trả tiền để một thằng nhãi pháp sư triệu hồi ta? Và ngươi không nói cho hắn biết ta có thể làm gì?”
“Đoán chuẩn đấy,” người đàn ông đáp.
Agramon nói với sự ngưỡng mộ pha lẫn bực tức. “Quả là thông minh.”
Người đàn ông tiến thêm một bước về phía con quỷ. “Ta vốn thông minh. Và giờ ta là chủ nhân của ngươi. Ta giữ Cốc Thiên Thần. Ngươi phải nghe lời ta, hoặc không thì phải đối mặt với hậu quả.”
Con quỷ im lặng một lúc. Sau đó nó phục xuống sàn nhà - với vẻ phục tùng giễu cợt - là cách giống người nhất mà một sinh vật không thực sự có thân mình có thể quỳ. “Tôi sẽ phục vụ ngươi, thưa Chủ nhân...?”
Câu nói kết thúc một cách lịch sự, lên giọng như một câu hỏi.
Người đàn ông mỉm cười. “Ngươi có thể gọi ta là Valentine.”
1. Mũi tên của Valentine
“CẬU CÒN TỨC À?”
Alec, tựa lưng vào thang máy, trừng mắt qua khoảng không nhỏ hẹp nhìn vào Jace. “Tớ không tức.”
“Ồ có đấy.” Jace nhún vui ra vẻ kết tội ông anh nuôi, rồi sau đó rên rẩm vì cơn đau chạy dọc cánh tay. Cả người anh ê ẩm suốt từ chiều hôm đó khi rơi qua ba tầng lầu, xuyên qua lớp gỗ mục và hạ cánh trên đống kim loại phế thải. Tới ngón tay của anh còn bị bầm tím nữa là. Alec, người vừa mới bỏ nạng chống mà anh đã phải dùng từ sau trận chiến với quỷ Abbadon, trông cũng không khá khẩm gì hơn cảm giác của Jace. Quần áo anh ta dính đầy bùn đất còn tóc thì rũ xuống thành từng lọn bê bết mồ hôi. Một vết cắt dài chạy dọc bên má.
“Tớ đã nói là không mà,” Alec rít qua kẽ răng. “Chỉ vì cậu nói lũ quỷ rồng tuyệt chủng hết rồi…”
“Tớ chỉ nói tuyệt chủng gần hết thôi.”
Alec xỉa ngón tay về phía Jace. “Tuyệt chủng gần hết,” anh ta lên tiếng, giọng giận run, “nghĩa là CHƯA TUYỆT CHỦNG HOÀN TOÀN.”
“Tớ hiểu,” Jace nói. “Thôi thì tớ sẽ nhờ người ta sửa mục quỷ học trong sách giáo khoa từ ‘tuyệt chủng gần hết’ thành ‘chưa tuyệt chủng hoàn toàn’ đối với Alec. Anh ấy thích những con quái vật phải thực sự, thực sự tuyệt chủng kia.’ Như thế làm cậu vui chứ?”
“Ôi đám con trai mấy ông,” Isabelle nãy giờ đang ngắm nghía mặt mình trong vách thang máy ốp gương. “Đừng gây lộn nữa.” Cô nàng quay sang cười rạng rỡ. “Thôi nào, chuyện có đòi hỏi hành động nhiều hơn chúng ta đã tiên liệu đôi chút, nhưng em thấy cũng vui đấy chứ.”
Alec lắc đầu nhìn cô em. “Em làm sao mà chẳng bao giờ dính bùn lên người thế?”
Isabelle thản nhiên nhún vai. “Tâm em trong sáng. Vì thế nên bụi bẩn nào dám bám vào em.”
Jace khịt mũi ầm ĩ khiến cô nàng nhăn mặt quay lại. Anh ngo ngoe những ngón tay dính dãy bùn về phía cô. Móng tay anh là những hình vành khuyên đen sì. “Bẩn từ trong tới ngoài.”
Isabelle đang định đáp lại thì thang máy dừng lại kèm theo những tiếng kêu rin rít ầm ĩ. “Tới lúc phải sửa cái thứ này rồi,” cô nói và kéo cửa mở toang. Jace nối đuôi theo sau, trong thâm tâm đã nghĩ tới việc được cởi bỏ áo giáp và vũ khí rồi tắm mình dưới làn nước nóng. Anh đã thuyết phục được hai người anh em nuôi đi săn cùng mình dù thực lòng cả hai người đó đều không muốn đi ra ngoài khi lúc này đây không có bác Hodge chỉ dẫn. Nhưng Jace lại muốn sự lãng quên trong đánh đấm, nỗi tiêu khiển ác nghiệt trong giết chóc, và cái sao lãng của dính thương. Và vì biết anh cần những điều đó, họ đã cùng đi, cùng bò vào những đường hầm tàu điện ngầm bỏ hoang bẩn thỉu cho tới khi tìm thấy và giết chết con quỷ Draconidae. Ba người bọn họ phối hợp hoàn hảo như thường lệ. Như một gia đình.
Anh cởi áo khoác và quẳng lên một cái móc treo tường. Alec đang ngồi trên băng ghế gỗ thấp bên cạnh, xoay xở tháo đôi ủng dính đầy bùn đất. Anh ta khe khẽ ngâm nga chẳng ra giai điệu nào, để cho Jace biết anh ta không khó chịu đến thế. Isabelle rút những cây kẹp ra khỏi mái tóc đen dài, để cho tóc bung xõa trên lưng. “Giờ em đói quá,” cô nói. “Giá mà mẹ ở đây nấu cho chúng ta chút gì ăn nhỉ.”
“May mà mẹ không có ở đây thì có,” Jace nói và tháo đai đeo vũ khí. “Nếu không bà đã gào thét lên vì những tấm thảm này rồi.”
“Con nói đúng đấy,” một giọng lạnh lùng cất lên, Jace quay ngoắt lại, tay vẫn để trên đai lưng, trông thấy bà Maryse Lightwood đang đứng khoanh tay tại ngưỡng cửa. Bà mặc bộ vest đen đơn giản được hồ cứng loại đi đường, và mái tóc, cũng đen nhánh như tóc Isabelle, được tết lại thành một bím tóc dày thả tới nửa lưng. Đôi mắt bà, màu xanh lạnh lẽo, quét qua ba người họ như đèn pha truy quét.
“Mẹ!” Isabelle, lấy lại được bình tĩnh, lao tới ôm mẹ. Alec lục tục tới bên, cố che giấu việc mình vẫn còn khập khiễng.
Jace đứng tại chỗ. Có cái gì đó trong đôi mắt của bà Maryse khi bà nhìn qua anh khiến anh chết lặng. Chắc chắn những gì anh vừa nói đâu có quá đáng đến vậy đâu. Mấy người bọn họ nói đùa về nỗi ám ảnh của mẹ với những tấm thảm cổ luôn ấy mà...
“Bố đâu ạ?” Isabelle lùi lại hỏi. “Và Max nữa?”
Một sự ngừng bặt chừng như không thể nhận thấy được thoáng qua. Đoạn bà Maryse bảo, “Max ở trong phòng nó. Còn bố con, không hay là vẫn còn ở Alicante. Có một số việc cần bố lo liệu.”
Alec, vốn nhạy cảm hơn cô em, dường như có chút lo lắng. “Có chuyện gì không hay hả mẹ?”
“Mẹ nên hỏi con câu đó mói đúng.” Giọng bà khô khốc. “Con đang đi cà nhắc đấy à?”
“Con…”
Alec nói dối dở tệ. Isabelle đỡ lời hộ anh, trơn tru, “Chúng con đụng độ với quỷ Draconidae trong đường hầm tàu điện. Nhưng chẳng có gì đâu ạ.”
“Vậy chắc vụ đụng độ với Đại Quỷ tuần trước cũng chẳng là gì đúng không?”
Cả Isabelle nghe thấy thế cũng cứng họng. Cô nhìn sang Jace, trong khi anh chỉ ước là con bé đừng có nhìn.
“Chuyện đó bọn con không định trước.” Jace cố lắm mới tập trung được. Bà Maryse vẫn chưa hỏi han gì anh, chưa nói đến cả một tiếng chào, và bà vẫn đang nhìn anh bằng đôi xanh sắc lẹm như lưỡi dao. Một cảm giác trống rỗng trong bụng anh đang bắt đầu lan ra. Trước đây bà chưa từng nhìn anh như vậy, dù cho anh có làm gì đi chăng nữa. “Đó là một sai lầm...”
“Anh Jace!” Max, cậu út nhà Lightwood, lách qua người bà Maryse và chạy lao vào phòng, tránh xa tầm với của mẹ mình. “Anh trở về rồi! Cả mấy anh chị đều về rồi!” Cậu bé quay vòng vòng, cười toe chiến thắng với Alec và Isabelle. “Em đã nghĩ mình đã nghe thấy tiếng thang máy.”
“Và mẹ cứ nghĩ mẹ đã bảo con ở trong phòng cơ mà.”
“Con không nhớ ạ,” Max nói nghiêm túc tới mức Alce phải phì cười. Max khá nhỏ con so với tuổi - trông cậu bé chỉ tầm lên bảy - nhưng với vẻ điềm tĩnh, đĩnh đạc, cộng thêm cặp kính quá khổ, khiến cậu bé trông như ông cụ non vậy. Alec vươn tay xoa đầu cậu em, nhưng Max vẫn nhìn Jace, mắt sáng rỡ. Jace thấy nắm tay lạnh lẽo đang bóp chặt dạ dày mình đã hơi chút nới lỏng ra. Max luôn tôn sùng Jace theo một kiểu mà cậu bé chẳng bao giờ dùng cho anh ruột, chắc hẳn vì Jace chịu được sự có mặt của cậu bé giỏi hơn nhiều. “Em nghe nói anh đã chiến đấu với Đại Quỷ,” Max nói. “Có tuyệt không anh?”
“Cũng... khác lắm,” Jace đánh trống lảng. “Alicante thế nào?”
Phần 1: Một thời trong địa ngục
Mở đầu: Khói và kim cương
Tiến >>
Nguồn: Nhà Xuất Bản Thời Đại
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 25 tháng 10 năm 2020