Cho đến đầu tháng 6-1965, ba Trung đoàn chủ lực Q761, Q762 và Q763 tập trung về khu A lâu nay, đã chỉnh huấn xong. Việc học tập sa bàn cũng đã thuần thục. Tất cả đang được lệnh kéo về địa điểm quãng mười cây số. Như vậy, hướng mở chiến dịch đã rõ ràng. Lâu nay, Bộ Chỉ huy Tiền Phương cũng như Ban Chỉ huy các cấp giữ bí mật tuyệt đối, không hề tiết lộ, dĩ hơi. Nhiều người đoán mò, lầm tưởng, ngỡ chiến dịch này chắc lại nhằm vào tấn công Phước Thành lần thứ hai. Vì nơi chúng tôi hiện đang hoạt động, chuẩn bị đây gần Phước Thành nhất chỉ vào khoảng mười cây số đường chim bay. Bây giờ dẫn quân về hướng Đồng Xoài, thì dù có giữ bí mật đến mấy đi nữa, tất cả các cán bộ, chiến sĩ đều đoán ra. Trận đánh sẽ tới, nhất định phải là Đồng Xoài. Chỉ có Đồng Xoài thôi.
Riêng về phía chúng tôi, dân công Tiểu đoàn I cánh A, được xem như đã hoàn thành đợt công tác chuyển hàng chiến lược từ sông Bé về các kho dự trữ, phân phối của Hậu Cần chiến dịch.
Chúng tôi lại nhận được lệnh mới là phân tán dân công ra làm nhiều bộ phận để làm nhiều công tác khác nhau.
Một số được chuyển vượt qua lộ ủi, đi về phía Đồng Xoài làm công tác mở đường cho xe cam nhông, có thể từ trung tâm khu A chạy đến khu Đồng Xoài để việc tiếp tế và vận chuyển trong chiến dịch được dễ dàng nhanh chóng.
Một số khác, được chia cho bốn đội giải phẫu dã chiến 110, 112, 114 và 116 để phục vụ công tác xây dựng các trạm tiếp nhận, đào hầm chứa thương binh, đào giao thông hào, cũng như săn sóc thương binh trong chiến dịch. Số còn lại, chia đi phục dịch ở Bộ Chỉ huy sở Tiền Phương, B Hậu Cần, B Hành chánh quản trị, B thông tin, B chính trị và các trạm Hậu Cần. Theo lệnh đó, đương nhiên trên danh nghĩa cũng như thực tế, Tiểu đoàn I Dân Công được giải tán.
Nhưng không ngờ, được tin đó dân công lại một lần nữa nhất loạt làm reo, không chịu đi và ùn ùn kéo nhau đào ngũ một cách công khai. Họ kéo thành từng nhóm mấy mươi người xuôi về sông Bé.
Vì chiến dịch đã gần kề, các đơn vị chiến đấu đã kéo đi hết về các địa điểm tập kết chỉ định để dưỡng quân. Ngay cả Trung đội Bảo vệ thuộc quyền sử dụng của chúng tôi cũng được Bộ Chỉ huy Tiền Phương ra lệnh rút về phục vụ Chỉ huy Bộ.
Tôi và Cường lúng túng, không biết giải quyết bằng cách nào vừa ổn, vừa nhanh. Giờ này mọi lời nói đều vô tác dụng. Cuối cùng hai đứa phân công nhau: Cường chạy về Hội đồng Cung Cấp Trung Ương, tôi chạy sang văn phòng Đảng uỷ Khu A gặp Ba Vinh cầu viện.
Ba Vinh liền ra lệnh cho Trung đội Bảo vệ khu A, phân công ngay một tiểu đội đến án ngữ ở bến đò sông Bé, kiểm soát gắt gao, ai không có giấy phép không được sang đò. Hội đồng Cung Cấp Trung Ương cũng gửi ngay 1 trung đội đi lùng và tập trung dân công, chận họ lại trên đường. Đồng thời Bộ Chỉ huy Tiền Phương chỉ thị J15 tức Tiểu đoàn Khinh binh của Trung đoàn Q761 tức tốc đến tăng cường.
Tất cả được lệnh, nếu ai lội qua sông Bé để về đồng bằng cứ nổ súng bắn hạ để bảo vệ bí mật chiến dịch. Tình huống lúc đó thực gay go. Dân công đào ngũ trở thành phong trào, gây nên một cuộc rối rắm vô tả. Bởi không phải chỉ có mỗi Tiểu đoàn 1 mà cả các Tiểu đoàn khác ở cánh B, cánh C cũng như số dân công phục vụ các cơ quan, bộ phận tĩnh tại. Họ cuốn gói, bỏ việc lẻn trốn, bất chấp tổ chức, không một mệnh lệnh chỉ huy nào có giá trị.
Nó trở thành một cơn dịch, lan nhanh đều khắp trong hàng ngũ dân công. Trên khắp các nẻo đường khu A, nơi nào người ta cũng bắt gặp từng đoàn từng tốp nhỏ xuôi ngược, nằm ngủ theo đường đi hay lang thang, đói khát. Thực là hỗn độn vô trật tự. Các kho gạo thực phẩm do dân công thiết lập trước đây, dọc theo đường từ lộ ủi về sông Bé đều được gài mìn, gài lựu đạn cho bộ đội tới bảo vệ. Dù vậy, mặc dù có một số dân công bị thương vong vì ăn cắp gạo, thực phẩm, cũng như vượt sông Bé bị nước cuốn chết chìm hay bị bắn, không sao làm nản lòng họ. Việc quy tụ, tập trung họ lại còn không làm được thì nói gì đến việc điều khiển họ phục vụ công tác như thường ngày.
Các kho gạo vẫn cứ bị lưng dần. Sông Bé vẫn có người đang đêm vạch rừng tìm đủ mọi cách để lội sang.
Anh Hai, tức Hai Chân, tức thiếu tướng Lê Văn Tưởng chính uỷ Bộ Chỉ huy Tiền Phương phải rời chỉ huy sở cấp tốc đến sông Bé nghiên cứu tình hình, lãnh đạo «chống dân công» tại chỗ.
Trong tình trạng hỗn độn đó, Ban Chỉ huy Tiền Phương quyết định tranh thủ rút ngắn ngày khai hoả chiến dịch sớm hơn dự định. Nếu không, bí mật sẽ bị bại lộ và «tai hoạ dân công» còn gây thêm biết bao nhiêu phiền hà, có thế phá huỷ cả công trình chuẩn bị chiến dịch như chơi. Súng chiến dịch nổ chừng đó khỏi phải ngăn chận, khỏi phải quan tâm đến họ, mặc họ, tuỳ họ tha hồ đi, chết chóc tai hoạ phi pháo họ ráng chịu lấy. Đỡ biết bao nhiêu.
Cùng lúc đó, tôi nhận được lệnh của Tư Thắng, Chủ Tịch Hội đồng Cung Cấp Trung Ương gọi về, trả lại cho Bộ Chỉ huy Tiền Phương.
Sáng ngày 5 tháng 6 năm 1965, Ba Vinh từ B1 khu A ngồi xe «díp» về chỉ huy sở mới của Bộ Chỉ huy Tiền Phương, ghé lại báo cho tôi biết lệnh trên và rước tôi cùng đi một thể.
Trước đây được đi xe cam nhông, giờ đi xe «díp» giữa rừng, quả là một hân hạnh cho tôi biết mấy! Trên xe chỉ có tôi và Ba Vinh. Bước lên ngồi vào tay lái, Ba Vinh cười hì hì, khoe với tôi:
– Anh xem, từ nhỏ tới lớn tôi có biết gì về xe cộ đâu! Vậy mà bây giờ tôi lái xe «xanh dờn một cây». Người ta học trường này trường nọ, còn tôi chả cần trường nào hết. Tôi học ở rừng. Hì hì.
Tiếng cười của Ba Vinh khoái trá, vang lên trong rừng sâu. Anh ta vừa mở máy, vừa nói tiếp
– Học lái xe trong chiến khu, có lẽ chỉ tôi là một. Nhờ anh Năm Thạch kéo theo đi nghiên cứu chiến trường mấy tháng liền nên mình đâm ra biết lái xe.
Tôi cũng cười:
– Lái xe đâu có cái gì là khó anh Ba. Có người chỉ sơ qua năm phút rồi tập vài tiếng đồng hồ là lái được chứ gì. Có điều cần những kinh nghiệm về sửa chữa, về một vài kỷ thuật cũng như luật đi đường.
Ba Vinh ngắt ngang lời tôi nói:
– Ối! Luật chó gì anh! Lái xe trong rừng mỗi một mình chạy thế nào chẳng được. Nào đã đụng ai đâu. Anh Năm Thạch ảnh lái xe giỏi hơn tôi, ảnh biết lái lâu rồi mà hôm trước chút nửa lật ở Suối Đôi. Tưởng đâu đè tôi gãy giò thêm lần nữa. Ảnh chê tôi lái dở, chớ chưa đến nỗi như ảnh.
Tôi sực nhớ câu chuyện về thiếu tướng Hoàng Cầm tức Năm Thạch mà Ba Vinh tiết lộ cho tôi biết trước đây. Như Hoàng Cầm là tác giả kế hoạch chiến dịch. Tôi tò mò hỏi:
– Đi nghiên cứu chiến trường chắc vui lắm phải không anh?
– Vui gì! Cực thấy mẹ! Mà nguy hiểm nữa chứ! Bộ anh tưởng an nhàn lắm sao? Như kỳ này, anh biết cứ điểm Đồng Xoài được ở trên quyết định chọn làm địa điểm mở chiến dịch đâu phải tự nhiên mà thành. Nếu kể công thì phải kể công của tôi đó.
– Anh đề nghị lên trên à?
– Chớ sao! Tôi đã từng dẫn mấy anh em 101 và 116 đi nghiên cứu cả tháng trời hồi năm ngoái. Rồi trước lần tôi bị thương gãy chân trái này nè, tôi còn dẫn mấy anh em B1 với Trung đội bảo vệ đi điều nghiên lần nữa. Thực ra mục đích điều nghiên của tôi không nhằm vào việc tấn công cứ điểm Đồng Xoài mà nhằm vào việc đưa ba C của Khu A mình càn ấp chiến lược Phú Riềng, kiếm một mớ chiến lợi phẩm. Chớ anh nghĩ xem, quân số mình có 3 đại đội làm sao đủ sức nhào vô thị trấn Đồng Xoài? Tụi nó ở đó cả tiểu đoàn, lại có xe tăng, có pháo nặng, hệ thống phòng thủ công sự cũng ác ôn lắm đâu phải chơi. Ba đại đội của mình đem vô khác gì muối bỏ biển. Tự vận là cái chắc.
– Còn ấp chiến lược Phú Riềng, chỉ có nhà nhân dân không, chiến lợi phẩm cái khỉ khô gì, anh Ba?
Một tay giữ lấy tay lái, một tay đưa lên, chìa ngón trỏ ra, Ba Vinh nhướng mắt tỏ vẻ bất bình:
– Í! Vậy là anh khơi quá rồi! Nhiều lắm chứ anh! …Ấp chiến lược đó có mấy chục dân vệ, thanh nhiên chiến đấu. Tụi nó cũng có trung liên, tiểu liên, cạc-bin đủ loại. Kiếm được ít chục súng đâu phải dễ anh. Nhưng chính yếu là mình giải quyết vấn đề chính sách, phá kế kềm kẹp gây tiếng vang, nhiều ảnh hưởng lắm chớ! Đó là chưa kể những thuốc men, dụng cụ thực phẩm tiền nong của tụi tư bản ở đồn điền cao su Phú Riềng. Tụi đó nó không chịu đóng thuế cho mình mà!
Ngưng một chút, Ba Vinh tiếp:
– Tôi đi điều nghiên Đồng Xoài nhắm vào mục đích đó. Nhưng khi báo cáo lên trên, ở trên chưa kịp trả lời thì tôi bị thương phải đến nằm điều trị ở G2. Được ít lâu, anh Năm Thạch từ bên Rờ qua với một nhóm cán bộ Tham Mưu trung cấp, gặp tôi tại G2 cho biết Bộ Chỉ huy chỉ thị điều nghiên lại cho kỹ lưỡng cứ điểm Đồng Xoài để mở chiến dịch lớn. Dẹp chuyện càn ấp chiến lược Phú Riềng đi. Anh Năm Thạch cho biết ảnh mới từ Bắc vào Nam, công tác này là công tác đầu tiên của ảnh đó. Lúc còn ở Bắc, ảnh là sư trưởng Sư đoàn 312. Lâu ngày không đánh đấm gì nó buồn quá! Thử làm một keo lớn xem sao!
– Rồi anh Năm Thạch kéo anh theo, bắt anh hướng dẫn?
– Đi gì nổi! Xương chân tôi lúc đó còn đóng đinh thép, băng bột chưa lành. Nên lúc đầu, ảnh đi điều nghiên với nhóm cán bộ tham mưu R. Hơn một tháng sau tôi mới được xuất viện. Ra viện ảnh bắt tôi đi theo liền.
Để giải thích cho tôi biết sơ qua về công tác điều nghiên chiến trường, Ba Vinh thao thao bất tuyệt kể lại cho tôi nghe việc điều nghiên là một công tác dai dẳng, tỉ mỉ, lâu ngày. Ngoài việc xem xét địa hình – chỉ là yếu tố phụ – chính yếu là nghiên cứu thực lực quân số, vũ khí, cách bố phòng, các quy luật thường ngày, tình hình chung cho đến đời sống tinh thần, những thói xấu, những ưu khuyết điểm mọi mặt, cả đến tên tuổi, tính tình, sở trường, sở đoản của cấp chỉ huy cho đến lính v.v..
Quả là một công trình vừa phức tạp, vừa khó khăn đòi hỏi một thời gian rất lâu. Chiến dịch Đồng Xoài hôm nay là kết của một cuộc chuẩn bị từ sáu, bảy tháng trở về trước.
Nhưng, theo lời Ba Vinh kể, Năm Thạch ở vòng ngoài, đôi lần đến gần vườn cao su leo lên cây cao «bỏ ống dòm» nhìn vào cứ điểm Đồng Xoài thôi. Còn tất cả các công tác điều nghiên cụ thể đều do các cán bộ tham mưu hay cán bộ đặc công xâm nhập vào thị trấn, vào ngay cả trong lòng cứ điểm Đồng Xoài nhìn bằng mắt, nghe bằng tai, sờ mó thật sự, trở về báo cáo lại.
2 giờ chiều. Xe tôi ngừng trước địa điểm làm chỉ huy sở của Bộ Chỉ huy Tiền Phương. Sát bên đường là khoảng rừng được dọn dẹp làm chỗ dừng chân. Những tấm nylon nóc màu xám đất, căng xúm xít vào nhau như những mái nhà con quanh mấy gốc dầu. Gần đấy, một gian nhà được dựng lên. Tôle sơn đen làm mái.
Chà! Tôi nghĩ thầm, nhà tôle giữa rừng sâu thế này, hách thật! Công trình đem được một tấm tôle từ đồng bằng về đây là cả một vấn đề nhiêu khê, vất vả với sức người.
Mấy anh em cảnh vệ đứng gác, giương mắt tò mò nhìn chúng tôi, Ba Vinh tắt máy xe nhảy xuống:
– Tới rồi anh. Nhà đó, trạm cảnh vệ. Mình phải ghé đó.
Bước vào nhà, tôi gặp ngay một lô hàng chục người ngồi bệt xuống đất, hay ngồi xổm với nhau, quây thành từng nhóm riêng. Nét mặt người nào cũng lộ vẻ sốt ruột đợi chờ.
Tất cả đều thuộc vào hàng ngũ cán bộ, súng ngắn «xắc-cốt» bên hông, nếu không là những tập giấy má dày cộm. Kẻ già, người trẻ, mập ốm, mặc bà ba, quân phục, không thiếu một hình thái nào. Trên một cái thùng to, rỗng bằng gỗ thông, một cán bộ đang ngồi ghế ở cạnh, tay cầm ống điện thoại áp vào tai, nghiêng đầu nhìn chếch lên mái nhà, không quan tâm đến ai. Anh ta đang nghe ai đó nói chuyện thì phải.
Tôi dừng lại ở bậc thềm, lớ ngớ, trong khi Ba Vinh vui vẻ chào mọi người, hết bắt tay người này đến người khác. Còn tôi chẳng biết ai là ai.
Chợt tôi nghe anh cán bộ nghe điện thoại «dạ, rõ!» rồi gác ống nói xuống giá. Anh khệnh khạng bước đến trước mặt tôi:
– Gì đó đồng chí? Đồng chí đến có việc gì?
Cái thằng cha này khó thương quá, nhưng tôi cũng mỉm cười, từ tốn:
– Thưa đồng chí, tôi lâu nay đi công tác, bây giờ trở về trình diện anh Ba!
Có lẽ anh ta là người sống gần Bộ Chỉ huy Tiền Phương, lâu nay những cán bộ nào phục vụ tại đây, anh ta đều quen, biết mặt, biết tên, còn tôi thì lạ quá. Nếu là cán bộ của văn phòng Bộ Chỉ huy anh ta lại càng quen biết hơn bao giờ hết. Anh ta nhíu mày cao giọng:
– Đồng chí ở đâu? Anh Ba nào?
– Anh Ba Đình!
– Ủa!…
Ba Vinh chen vào, giới thiệu tôi cho anh ta biết:
– Đây là anh Vũ Hùng đó! Lâu nay ảnh được anh Tư Thắng mượn đến công tác ở Tiểu đoàn 1 Dân Công. Trước, anh Vũ Hùng là cán bộ của khu A, mới đây được thuyên chuyển về Bộ Chỉ huy, chưa kịp nhận công tác thì bị anh Tư Thắng mượn. Tôi mới đưa ảnh đến đó!
Tôi thêm:
– Phiền đồng chí điện thoại báo với anh Ba dùm. Tôi vừa về đến đây và đang chờ lệnh anh Ba!
Anh ta dùng dằng, nhưng thái độ đã dịu xuống, thân mật hơn:
– Bộ Chỉ huy đang họp. Anh thấy không, các đồng chí này cũng đang sốt ruột ngồi chờ được gặp để thỉnh thị… Làm sao bây giờ? Làm sao tôi dám điện thoại? Có lẽ cuộc họp cũng sắp xong. Anh chịu khó ngồi chơi. Bộ Chỉ huy họp xong tôi sẽ đưa anh vào ngay.
Ừ chờ thì chờ, Bộ Chỉ huy đang họp thì cũng không ai có thì giờ đâu nhìn lấy mặt tôi. Chịu vậy!
Công việc càng gần đến ngày xuất phát chiến dịch càng bận rộn không thể tả. Suốt ngày, Bộ Chỉ huy cứ phải hội ý liên miên.
Điện ở các nơi đang về tới tấp. Cán bộ của các đơn vị phục vụ chiến dịch cũng đến dập dìu để báo cáo, xin chỉ thị về những khó khăn.
Vấn đề dân công phục vụ chiến dịch trở thành một trở ngại lớn lao, làm Bộ Chỉ huy điên đầu. Các đội phẫu thuật dã chiến thiếu dân công. Các đội tải thương thiếu dân công. Các cánh Hậu Cần thiếu dân công. Các đội tiếp vận chiến trường thiếu dân công v.v… Nơi nào cũng cử người đến báo cáo, xin chỉ thị, xin sự hỗ trợ của Bộ chỉ huy. Bộ Chỉ huy chỉ còn biết an ủi, động viên chính trị đề cao quyết tâm vượt khó, vượt khổ, hy sinh nhiều hơn nữa để hoàn thành nhiệm vụ.
Mọi yêu cầu, chỉ thị của Hội đồng Cung Cấp Trung Ương đối với các Tỉnh ủy vào giờ chót này đều trở thành vô nghĩa. Giữa lúc đó, các Trung đoàn, theo tập quán «truyền thống của Đảng» đã «hạ quyết tâm» gửi «quyết tâm thư» lên Đảng Uỷ Tiền Phương và xin lệnh «xuất kích».
Theo kế hoạch đã định, Trung đoàn Q762 là đơn vị chủ công vào cứ điểm Đồng Xoài, Trung đoàn Q761 «chận viện». Trung đoàn Q763 làm «thế đội dự bị» đồng thời cho một Tiểu đoàn phối hợp với Tiểu đoàn cơ động Phước Thành tấn công khu vực sân bay và khu vực ở phía Tây. Tiểu đoàn pháo nặng Z36 trực thuộc Trung đoàn trên, thực hiện đợt «cường tập» phủ đầu, mở đường cho đợt «đột phá khẩu», mở cửa chính diện và thiết lập các cụm pháo phòng không.
Như vậy, Trung đoàn Q762 lãnh nhiệm vụ đánh cứ điểm ở phía đông. Trung đoàn Q763 vừa lãnh nhiệm vụ dự bị, vừa tấn công ở mặt trận phía Tây. Trung đoàn Q761 án ngữ ở phía Bắc, vây chặt mấy trảng tranh, đào công sự sẵn chờ quân tiếp viện của Quốc Gia trực thăng vận, đổ quân xuống là ào ra «diệt viện». Để «nhử» cho Quốc Gia nhảy xuống đúng vào những trảng tranh «chờ sẵn», các cụm pháo phòng không có nhiệm vụ «bắn rát», «đuổi phi cơ» ở những nơi khác để địch «bị bắt buộc» phải đáp xuống đúng theo «ý đồ» của kế hoạch dự liệu.
Trong phiên họp Đảng ủy Mặt Trận sáng ngày 6-6-1965 Đảng ủy Q762 đã «giáng» quyết tâm thư của đơn vị lên là quyết tâm san bằng cứ điểm Đồng Xoài trong vòng hạn định: 1 giờ 30 phút, kể từ khi nổ súng. Đảng ủy Mặt trận tăng thêm cho 1 giờ tức 2 giờ 30 phút.
Ngày tấn công mở đầu chiến dịch, được quyết định sau cùng là ngày 10 tháng 6. Giờ G đúng vào 1 giờ sáng, giờ Đông Dương tức là 2 giờ sáng giờ Sài Gòn.
Đó là quyết định cuối cùng, không thay đổi. Buổi họp bế mạc. Tất cả các đảng ủy Trung đoàn hối hả rời Bộ Chỉ huy trở về đơn vị, tiến hành công tác chuẩn bị làm lễ xuất quân. Không khí chuẩn bị chiến đấu thật khẩn trương. Toàn thể đều hồi hộp, chờ đợi giờ nổ súng.
Từ giờ phút đó, Bộ Chỉ huy Tiền Phương được đổi tên là Bộ Chỉ huy Chiến dịch Đồng Xoài.
Riêng tôi, sau lúc về trình diện, tôi được Ba Đình giao cho công tác văn phòng, một thứ thơ ký biên chép, cho văn phòng Bộ Chỉ huy qua sự điều khiển trực tiếp của Ba Đình. Khi Đảng ủy Mặt trận hội họp tại văn phòng chỉ huy sở, dĩ nhiên tôi bị đuổi khéo ra trạm cảnh vệ, vừa làm công việc tiếp khách, vừa thảo một lô công điện, báo cáo theo lệnh của Ba Đình và Năm Thạch tường trình về Bộ Chỉ huy R và gửi đi các nơi liên hệ. Xong việc đó phải làm mấy bản thống kê và tóm tắt tình hình, đúc kết các kết quả thi đua của các đơn vị trong đợt chỉnh huấn tiền chiến dịch.
Hai giờ chiều, phiên họp chấm dứt. Nhưng công việc tổng kết, thống kê của tôi phải đến 11 giờ đêm mới xong.
Chương XIII
Tiến >>
Đánh máy: Lê Thy
Nguồn: baovecovang2012.wordpress.com
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 30 tháng 8 năm 2021