Allen Tipton sợ. Thực vậy, anh ta luôn luôn sợ máy bay, nhưng giờ đây không phải chỉ vì độ cao mà anh ta ngồi chết cóng xuống ghế. Bề ngoài anh ta ra vẻ dửng dưng, nhưng bên trong ruột gan anh ta đã mềm nhũn ra như sứa.
Anh ta liếc trộm ông chủ đang ngồi mé bên kia buồng lái. Trên ghế phi công của chiếc phi cơ riêng loại nhỏ, Robert W.Welling ngồi tự tin, thoải mái, bay rất vững tay. Hẳn Welling phải cảm nhận được tia nhìn của Allen nên ông quay lại mỉm cười.
“Sắp đến rồi” - ông tuyên bố - “Năm, mười phút nữa thôi là chúng ta đã trông thấy túp lều rồi”. Allen thầm cảm ơn trời. Ít nhất nếu chuyện đó xảy ra thì chân anh ta cũng đã được đứng trên đất.
“Tôi cứ mong cho chóng đến nơi”, Allen đã nói dối. Nếu có điều gì anh ta dứt khoát mong cho đừng đến thì đó chính là điều này. Suốt 5 năm qua, kể từ ngày Allen Tipton đến làm việc cho công ty United Electronics, Robert W. Welling, chủ tịch công ty, đã tỉnh bơ coi như không biết đến anh ta. Thế mà bỗng dưng, không một lời báo trước, không một chút lý do, ông ta lại đích thân gửi giấy mời anh ta cùng đi săn với ông. Vậy là Welling đã biết, hoặc đã ngờ vực rồi. Đối với Allen lời mời của Welling chắc chắn phải là một cái lệnh.
“Nó kìa”, Welling nói, chỉ tay xuống dưới.
Allen miễn cưỡng nhìn sang bên cạnh. Trong phạm vi tầm mắt anh có thể thấy, vùng đất bên dưới trắng xóa một màu hoang sơ, chỉ thỉnh thoảng được điểm xuyết bằng mấy rặng thông cằn cỗi rồi bị vạch dài phũ phàng bởi con sông băng giá. Ngay phía dưới, thấp thoáng sau lùm thông anh ta đã trông thấy được túp lều.
“Nó dư chỗ cho năm, sáu người ở thoải mái, nhưng chuyến này không hiểu sao tôi không khoái đám đông”, Welling giải thích, “nên tôi nghĩ hay nhất là loại hết mấy người kia ra”.
Allen nghĩ mình hiểu được lý do tại sao, và lý do dó không phải như ông chủ vừa nói.
“Đi đông thì chỉ tổ mất thời gian vào mấy chuyện đánh bài, nhậu nhẹt, thức khuya....Tôi thì chỉ muốn được nghỉ ngơi cho giãn gân giãn cốt một chút thôi. Khi ta lên tới địa vị cao nhất thì mọi việc đâm ra căng thẳng. Thiên hạ luôn theo sát ta bén gót, những mong kéo ta xuống”.
“Tôi hiểu”, Allen đáp, dù anh ta chẳng thể hiểu gì hết. Anh ta chưa bao giờ phải đương đầu với một tình huống như thế này.
“Giữ chặt mũ nào”, Welling nhắc nhở với một nụ cười như biện bạch, “ta đáp xuống đây”.
Allen cố che giấu nỗi sợ, thế nhưng khi Welling bớt tốc độ và tiếng động cơ đang ù ù ngon trớn bỗng lịm dần thành thứ âm thanh khằng khặc rên rỉ, anh ta cuống cuồng bám chặt lấy hai bên thành ghế. Cũng may, Welling mải bận với thao tác hạ cánh nên không để ý thấy, hoặc giả nếu có để ý, ông ta cũng không biểu lộ chút gì ra bên ngoài.
Allen cố nhắm mắt để khỏi trông thấy cảnh mặt đất đang lao dần tới thật nhanh những nỗi mê đắm cuốn hút muôn thuở của con người đối với cái chết, đặc biệt là cái chết của chính mình, đã bắt mắt anh ta phải mở to và bắt sự chú ý của anh ta phải dán chặt lấy vùng chao mờ bạc trắng đang lướt qua dưới cánh máy bay. Càng trượt tuyết của máy bay đã tiếp đất, làm bắn tung bụi tuyết mù mịt cả hai bên. Allen thở ra thật sâu, sức ghì vào ghế đã lơi lỏng, và anh ta mỉm cười. Welling cho máy bay trượt đến gần túp lều rồi tắt máy.
“Tôi sẽ lo buộc máy bay còn anh hãy tháo hành lý xuống đi”, ông ta bảo lúc mở tung cánh cửa ra. Ông ra phải gập đôi người lại mới chui được ra khỏi cửa phòng lái. Cao lớn, to xương và nặng nề, nhưng ông vẫn di chuyển với một uy lực và nét ung dung mà Allen không thể không ngưỡng mộ.
Allen bò toài người xuống vùng đất ngập tuyết một cách vụng về. Cái lạnh buốt cóng khiến toàn thân anh ta thoắt rùng mình. Anh ta đập hai tay vào hai cạnh sườn rồi đi bọc qua ngăn chứa hành lý.
Đang hí húi làm việc thì chợt anh ta có cảm giác bị theo dõi. Anh ta ngước lên thì trông thấy Welling đang đứng cạnh máy bay nhìn anh chăm chăm. Anh ta há hốc mồm.
“Xin lỗi đã làm anh giật mình”, Welling nói.
“Tại tôi bị bất ngờ”, Allen giải thích yếu ớt. “Tôi sê đi lấy bình ga butane và lo nối vào bếp nấu và lò sưởi”, Welling nói, “Chẳng lý do gì chúng ta lại không tận hưởng một bữa ăn nóng sốt ngon lành và một căn lều ấm áp đêm nay. Anh mang mấy túi hành lý vào lều đi”. “Vâng, thưa ông Welling”, anh ta đáp. “Bỏ cái tiếng thưa ông Welling đó đi. Là bạn săn bắn với nhau, chỉ cần gọi tôi là Bob được rồi”.
“Vâng, thưa ông, Bob. Tôi hiểu”.
“Dẹp luôn cái tiếng thưa ông nữa đi”. “Được rồi, Bob”, Allen vâng lời.
Đêm đó, sau bữa ăn nóng sốt ngon lành do Welling nấu nướng một cách xuất sắc, hai người nói chuyện về công ty United Electronics, Allen cố tỏ ra sáng suốt khôn ngoan, nhưng anh ta không sao tỏ ra tập trung được.
“Nhưng ta đâu có lên đến tận đây để bàn chuyện làm ăn”, rốt cuộc Welling nói. “Anh cứ tự nhiên dùng rượu bourbon đi, còn tôi đi ngủ đây”, ông ta đứng dậy, vươn vai, rồi băng ngang phòng đi đến chỗ giá súng, ông lấy cây súng trường xuống.
“Chắc phải chùi dầu thằng bé này, biết đâu mai chẳng có dịp phải dùng đến nó”, ông vừa nói vừa đi về phòng ngủ của mình rồi đóng cửa lại.
Allen rót cho mình một ngụm bourbon. Từ bên kia căn phòng, Alice Welling đang cười với anh ta từ bức ảnh chụp khổ 20 x 25 đặt trên mặt lò sưởi khổng lồ bằng đá granit. Allen bước tới và nâng ly.
“Nào, hỡi cô Alice bé nhỏ ở xứ thần tiên, xin uống mừng câu chuyện của chúng ta”, anh ta nói khẽ rồi nốc cạn ly whisky. Alice vẫn cứ cười. Cô ta có thừa khả năng để cười mà. Chồng cô, chủ tịch công ty United Electronics, rất trung thành tận tụy với người vợ trẻ mỹ miều của mình. Ông ta cũng rất ư hào phóng. Mới hôm qua đây, ông vừa tiễn cô ta sang Âu châu để nghỉ mát dài ngày. Cũng chính hôm đó ông ta lại gợi ý rằng Allen Tipton có muốn đi nghỉ cuối tuần tại căn lều săn bắn của ông không.
Allen rót thêm một ngụm rượu nữa và chế vào rượu một chút nước. Đôi tay anh ta run rẩy lúc nâng ly rượu lên, thế rồi một tiếng động lạ chận anh ta lại giữa trớn uống. Anh ta thận trọng ngoái lại nhìn. Phải ngót một phút rồi anh ta mới nhận được tiếng động đó là gì. Welling đang ngáy như sấm ở phòng kế bên.
Allen bỏ ly rượu xuống. Anh ta cần ngủ, chứ không phải cần rượu. Welling đã lập tâm giết anh và dàn dựng việc đó giống như một tai nạn. Nếu anh muốn tiếp tục sống, anh cần phải hết sức tỉnh táo. Con người đang nằm ở phòng kế bên là một tay săn bắn tuyệt luân, đây là vùng sinh sát của ông ta, và Allen phải để ông ta đi bước trước. Dù sao đi nữa, rất có thể là anh ta lầm.
Allen rút cây súng trường của mình ra khỏi giá và lắp đạn vào. Anh bước về phòng mình. Cửa phòng không có khóa nhưng có một then cài lớn. Anh cài chặt then lại. Căn phòng ngột ngạt nên anh ra phía cửa sổ để mở hé cửa. Anh thất vọng khi khám phá ra cửa sổ đã được niêm chặt vĩnh viễn, một khung kính dầy gấp đôi với một lỗ không khí để cách nhiệt. Anh vặn thấp lò sưởi ga xuống, không còn cách nào khác để có được nguồn không khí tươi mát.
Anh cởi nhanh quần áo rồi chui vào mền. Vừa nằm trong bóng tối anh ta vừa suy nghĩ. Anh ta không phải là đồ hèn, nhưng mà anh ta sợ. Anh không muốn chết, dù sao thì cũng chưa. Cuộc đời còn đẹp quá. Anh ăn lương cao trong chức vụ kế toán trưởng của công ty United, anh có một căn hộ sang trọng, một xe hơi thể thao... và nhiều người đàn bà. Không nhiều lắm, nhưng cũng đủ. Anh đã lỡ lầm một lần, với vợ của Welling.
Allen có cảm giác mình vừa thiu thiu ngủ thì Welling đã gõ cửa đánh thức anh ta dậy.
“Dậy đi”, Welling gọi, “tôi đã rán sẵn thịt giăm-bông trong chảo rồi đó”.
Allen lầu bầu ngồi dậy, cố rút mắt ra khỏi cơn buồn ngủ. Mùi thịt rán thơm nồng xộc vào mũi anh. Thu hết can đảm để chống lại cái lạnh, anh thòng chân xuống sàn lều, chạy nhanh ra lò sưởi và vặn lửa lên. Trong bóng tối nhá nhem, anh mặc vội quần áo rồi đi ra cửa. Anh cố kéo then cửa cho thật khẽ khàng, nhưng mấy ngón tay tê cóng đã phản bội anh. Then cửa mở đánh sầm một tiếng. Lúc anh bước ra khỏi phòng thì Welling đang nhướng mày nhìn anh.
“Đây, uống cái này đi, nó sẽ giúp anh tỉnh táo”, ông ta bảo sau đó một lúc, vừa rót cà phê nóng bốc khói vào một chiếc tách.
Allen uống chất nước đắng và đầu óc anh ta bắt đầu tỉnh táo ra. “Trời vẫn còn tối. Mấy giờ rồi?” anh ta hỏi.
“Cần phải vào rừng sớm, Allen ạ”, Welling giải thích, “Cần phải đến được vị trí vào lúc bình minh thì cuộc săn mới có kết quả tốt nhất”.
“Vâng, tôi cũng nghĩ như vậy”, Allen đáp.
“Bỏ mấy quả trứng này vào bụng, anh sẽ cảm thấy dễ chịu hơn”, Welling gợi ý.
Sau bữa điểm tâm, họ xuất phát, chủ nhân dẫn đường băng qua vùng tối. Allen phải theo sát để khỏi bị lạc. Anh nhìn tấm lưng to như cái phản phía trước mặt. Nỗi cám dỗ hãy bắn ông ta thật quá mạnh mẽ, nhưng giết người chỉ là hạ sách, chỉ là biện pháp cuối chẳng đặng đừng mà thôi. Giả thử anh ta lầm thì sao? Giả thử Welling không biết chút gì về chuyện anh và Alice thì sao?
Bình minh vừa ló dạng ở phía dông thì Welling ra lệnh ngừng. “Tôi sẽ để anh ở lại đây”, ông ta nói, “Anh cứ đi tiếp con đường mòn này, khi nào tìm được chỗ nấp tốt thì chiếm lấy ngay. Nếu như đến khoảng, cứ cho là mười giờ đi, mà chúng ta chẳng săn được gì thì chúng ta trở lạỉ lều, rũ bớt cái lạnh, rồi chiều nay lại tiếp tục”. Welling bỏ đi vào vùng tối nhập nhoạng. Hai mươi thước xa, ông ta chỉ còn là một bóng mờ, ở khoảng cách năm mươi thước, ông ta mất hút vào bóng tối.
Allen run lẩy bẩy. Cuộc săn bắt đầu. Anh lơ mơ nhớ lại đã từng đọc câu chuyện về một người lấy chuyện săn đuổi những người khác làm thú tiêu khiển. Anh tất tả đi giữa cảnh vật buổi rạng đông. Những rặng cây, đầy vẻ ma quái dưới áo tuyết trắng, lơ lửng trên đầu anh. Anh thấy được hơi thở mình như những cụm khói lãng đãng trước mũi, lạnh giá. Anh dừng bước, bẻ ngoặt sang góc phải vào một lối mòn rồi cắm đầu chạy. Anh liếc vội ra sau và nhận tra rằng anh đang lưu lại dấu vết mà một kẻ tài tử cũng dư sức theo dõi. Welling thì rõ ràng đâu có phải là một tay mơ.
Bên trên anh, về phía trái, xuất hiện một rặng đá. Anh trèo lên. Khi lên đến chỗ đá nhô ra, anh thận trọng đi bọc theo, đặt chân trên những chỗ trơ trụi nơi gió đã thổi bạt tuyết đi. Năm phút sau anh thấy cái anh đang cần, một thân cây ngã. Từ rặng đá anh nhẩy lên cây, rồi chạy ngược thân cây lên đến tận cành. Anh ngồi xổm nơi cành cây mọc um tùm nhất rồi nghỉ ngơi chờ đợi. Từ vị trí đó, anh quan sát được rất rõ địa thế chung quanh.
Anh căng mắt quan sát thật kỹ mọi hướng. Giờ đây anh ngừng di chuyển, cái lạnh buốt cóng lại len lách dưới y phục, tấn công vào cơ thể anh. Khi mặt trời đã lên cao, Allen trông thấy con mồi đầu tiên. Con vật to lớn đi hiên ngang ra giữa trảng trống cách anh không đầy một trăm thước, và trước khi anh kịp nhận ra mình đang làm gì, anh đã kê súng lên vai chuẩn bị bóp cò.
Anh thong thả hạ súng xuổng. Anh đang định làm gì vậy? Muốn tiếp tay cho người ta giết anh sao? Chỉ cần một phát súng cũng đủ cho Welling biết đích xác anh đang ở đâu.
Con nai đường hoàng, bệ vệ đi xuống triền khe núi, rồi băng qua thềm thung lũng. Ba mươi phút sau đó, Allen mới nghe tiếng súng của Welling. Anh nhìn đồng hồ. Bảy giờ. Anh trở lại tư thế chờ, bắp thịt căng thẳng, các giác quan cảnh giác.
Buổi sáng trôi qua chậm chạp. Thêm ba con mồi nữa đi ngang tầm bắn của Allen, nhưng anh chẳng buồn chú ý. Đôi bàn chân anh đau nhức vì lạnh. Anh hà hơi vào đôi tay để giữ hơi ấm cho chúng. Cứ vài phút anh lại nhìn đồng hồ. Đúng chín giờ bốn mươi lăm phút thì tiếng nói của Welling đã cất lên ngay đằng sau anh.
“Chỗ nấp của anh thật là tuyệt”, ông ta nói, còn Allen quay lại như một cơn lốc, thất kinh hồn vía. Welling đang ngồi trên thân cây, súng của ông hầu như chĩa thẳng mũi về phía anh. “Chắc chắn anh phải là một nhà săn bắn giỏi hơn chỗ tôi tưởng”.
“Trông nó giống một vị trí nấp tốt”, Aller nói. Làm sao Welling đến gần sát được như vậy mà anh không hề nghe thấy chút gì?
“Anh có trông thấy gì không?” Welling hỏi.
“Không, nhưng tôi có nghe thấy một phát súng”, Allen trả lời.
“À, chính tôi bắn đó. Tôi bắn một con mồi đang chạy, nhưng hụt trong gang tấc. Có lẽ ta nên về lều kiếm chút gì bỏ bụng đã”.
Allen trườn ra khỏi chỗ nấp và Welling đứng lên. Trên đường về, Welling tìm cách luôn đi sát sau anh ta một, hai bước. Cảm giác về ngày tận số đã đến cứ ám lấy Allen khiến anh không rút ra được. Người đàn ông này đang chơi trò mèo vờn chuột với anh đây. Welling muốn thấy anh sụp đổ, ngã gục, đau khổ.
Đến giờ đi săn buổi chiều, Allen lấy cớ đau đầu để không đi. Anh cần thời gian suy nghĩ. Một cách miễn cưỡng nhưng vẫn lịch sự, Welling chấp nhận sự thoái thác của anh, rồi ông vui vẻ ra đi săn đuổi “con mồi” của ông.
Từ cửa sổ trước nhà, Allen nhìn thấy Welling khuất dạng sau rặng thông. Ngay khi ông ta khuất dạng, anh ta vội lục soát khắp căn lều. Anh không thể nào vào rừng lại được, buổi sáng nay đã chứng tỏ điều ấy. Chắc anh phải đến giết Welling trong đêm mới xong, vẩn đề là bằng cách nào? Anh trở lại phòng khách, không tìm ra giải pháp giúp anh giải quyết vấn đề.
Có thể đơn giản mở tung cửa rồi bắn chết ông ta đang khi ông ta ngủ không? Căn phòng tối quá, nhỡ bắn hụt thì sao? Ông ta ngủ ngáy như kéo gỗ, hẳn là một người ngủ ngon giấc. Cố thể lén đến sát ông trong bóng tối rồi dùng dao đâm chết ông ta không? Nội nghĩ đến điều đó anh ta đã sởn cả gai ốc.
Allen lấy súng xuống khỏi giá, đá một chiếc ghế đến cạnh lò sưởi, rồi ngồi xuống đợi, lưng đấu vào mặt lò sưởi bằng đá granit. Lần này anh không được để bị tấn công bất ngờ nữa. Anh đợi suốt buổi chiều. Mãi tối mịt Welling mới bước qua ngưỡng cửa bếp, vào lều.
“Chả thấy con gì cả”, Welling tuyên bố. Ông đứng phía trong cửa, khẩu súng cắp trên tay. “Cơn nhức đau của anh ra sao rồi?”
“Đỡ nhiều rồi”, Allenđáp.
“Tốt, vậy thì tôi mong là anh không phiền chuyện nấu ăn tối nay chứ? Tôi mệt phờ râu rồi”.
“Tôi làm được mà”, Allen đáp, thận trọng đặt khẩu súng xuống.
Anh rán khoai tây, nướng thịt bò, rồi mở một hộp đậu. Welling ăn ngấu nghiến. Allen chỉ ăn qua quýt mấy cọng đậu, vừa nói chuyện này chuyện nọ cho phải phép. Welling trả lời nhã nhặn, nhưng nói ít.
“Thịt nướng ngon lắm”, Welling khen sau đó. “Thôi, bây giờ tôi phải đi viết gấp cho Alice một lá thư rồi đi ngủ đây. Tôi muốn sáng mai ta khởi hành vào rừng sớm rồi sau đó bay về thành phố. Tôi vẫn mong kiếm cho anh được một con mồi đầu tiên”.
“Có lẽ ngày mai chúng ta gặp may hơn”, Allen trả lời.
“Mong là như vậy”, Welling đáp lúc ông đứng dậy khỏi bàn ăn. Ông nhặt cây súng lên rồi bước về phòng ngủ. Ông ngừng ở cửa và ném về phía Allen một cái nhìn khó hiểu. “Chúc ngủ ngon, Allen”, ông ta bước vào phòng và Allen nghe thấy tiếng chốt cửa cài chặt lại.
Anh ta thấy chai bourbon xuống và rót cho mình một ly đúp. Anh thong thả nhấm nháp từng ngụm, suốt lúc đó không ngừng nhìn kẽ sáng nhỏ hắt ra từ phòng của Welling. Sau vài phút, khoảng thời gian vừa đủ để viết một lá thư, ánh đèn tắt phụt. Hai mươi phút sau đó, tiếng thở đều đều phát ra qua khung cửa.
Allen cố suy nghĩ. Mỗi ý nghĩ đều chạy vòng tròn quanh óc anh, rồi rốt cuộc lại trở về chỗ khung cửa đã cài then. Anh không tìm ra được cách nào vượt qua cánh cửa ấy. Anh có làm gì đi nữa thì dứt khoát điều đó cũng phải trông giống như một tai nạn mới được. Nếu anh phóng hỏa túp lều, Welling có thể trốn thoát. Hơn nữa, làm thế không chừng anh đã bị chết cóng vì lạnh trước khi được tiếp cứu. Chắc chắn là anh không thể lái máy bay thoát ra. Không, chắc chắn phải tìm cách khác. Anh rùng mình, ớn lạnh. Anh bước lại phía lò sưởi và cúi xuống vặn ngọn lửa lên.
Anh lưỡng lự, mê man nhìn ngọn lửa. Thay vì vặn ga lên, anh lại tắt đi. Anh trở về phòng mình và tắt lò sưởi trong phòng. Anh bước khẽ đến cửa bếp rồi lách ra ngoài trời đêm.
Ánh trăng thượng huyền giúp anh tìm thấy bồn chứa ga nằm dưới đất, bên cạnh cửa sau. Anh cúi xuống ngắt ga trong vòng hai giây, vừa đủ thời gian cho ngọn lửa tắt nơi lò sưởi trong phòng Welling. Tiếng ngáy hòa điệu với một âm thanh khác, đó là tiếng hơi ga thoát ra khỏi các vòi phun mở ngỏ. Allen mang theo chai rượu bourbon vào giường với mình. Rượu sẽ cung cấp sức nóng cho anh qua đêm nay.
Anh nằm trên giường uống rượu. Anh nghe được tiếng ngáy yếu mỏng cùng tiếng ga thoát ra qua bức vách. Nếu mùi ga butane không đánh thức được Welling thì coi như anh đã thực hiện được một tội ác hoàn hảo. Sáng mai, anh sẽ phát hiện ra ông chủ anh nằm chết trên giường do tai nạn lò sưởi bị nghẹt. Anh sẽ ngồi yên ở đó cho đến khi được tiếp cứu, cứ như thế mà làm.
Anh uống thêm ngụm rượu nữa. Anh vẫn còn nghe tiếng ngáy đều đều từ phòng bên vọng ra. Anh cố không để ý tới những âm thanh đó, nhưng có vẻ như chúng trở nên lớn hơn. Anh chụp chiếc gối lên đầu, âm thanh đó lại xuyên thấu vào óc anh. Anh ngồi dậy. Có gì mà anh phải quan tâm đến Welling chứ? Há không phải ông ta đã âm mưu đưa anh ra đây để giết anh hay sao? Mặc xác ông ta chứ! Thế nhưng rốt cuộc, Allen không còn chịu nổi nữa. Anh nhảy xuống giường, chạy vào bếp chụp lấy một cái rìu, chạy lại phía cửa phòng của Welling rồi thẳng cánh, ở nhát rìu thứ tư, cánh cửa bật mở và mùi khí butane bủa chụp lấy anh.
Anh thối lui vào phòng khách, để cho hơi ga thoát ra. Anh lấy khăn tay che mặt rồi mới bước vào phòng ông chủ. Welling nằm yên trên giường. Trông ông như đang ngủ say, chỉ có điều không có tiếng ngáy. Allen kéo tấm ra đắp mặt người chết lại.
Anh chớm bước ra khỏi phòng thì chợt nhìn thấy bức thư nằm trên bàn giấy của Welling:
“Alice thân yêu nhất,
Em nói có lý, cưng à. Gã Tipton đúng là người thích hợp cho chức phó chủ tịch công ty. Theo đề nghị của em, bọn anh đã bay lên tận túp lều săn bắn này và anh đã được dịp quan sát anh ta trực tiếp. Allen sợ máy bay đến chết khiếp và săn bắn thì cũng chẳng giỏi giang gì, nhưng chắc chắn anh ta có đủ nghị lực để làm bất cứ việc gì. Có lẽ suốt đời anh ta sẽ không bao giờ đi săn bắn nữa, nhưng khi cần phải có những quyết định sống còn, anh dám mang cả sự nghiệp của anh ra mà đánh cá rằng anh ta có đủ khả năng đảm đương được.
Anh nhớ em lắm, và ước mong...”
Nhưng phần thư còn lại chẳng có gì quan trọng nữa.
PHẠM XUÂN THẢO dịch (Từ tác phẩm “The Time of his life” của Gene Pollock)
Đánh máy: hoi_ls
Nguồn: Hoi_ls - Tạp chí Kiến thức Ngày nay
VNthuquan.net - Thư viện Online
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 27 tháng 4 năm 2022