RẰM THÁNG BẢY

đức ban

Đầu tháng bảy dườn dượt những cơn mưa phùn và gió mùa đông bắc. Đất đai nẫu ra, ngai ngái mùi nấm rơm chín muộn. Khắp làng như thế. Riêng khu chùa Ngàn Hương, cách làng một con sông và một cánh đồng là khô ráo. Dường như mưa không rơi xuống đây, không thổi qua đây. Hoa đại rụng trắng mặt sân gạch rêu phong.

Chị Hoài chăm chăm nhìn tôi, cái nhìn thật lạ. Bỗng nhiên chị giật mình cúi xuống, sẽ sàng nhặt hoa đại bỏ vào cái sọt tre màu nâu sẫm. Chị nói: “Mỗi ngày một sọt đầy”. Tôi hỏi: “Cất làm gì?” Chị cười buồn: “Chẳng để làm gì cả. Nhưng cứ cất, biết đâu...” Chị không nói hết câu. Tôi không hỏi gì thêm. Tiếng cánh hoa chạm vào giỏ xe lạt xạt khiến bầu yên tĩnh bốn phía chung quanh thêm vẻ bí ẩn.

Tôi dón chân giữa những chấm trắng đi ra cổng. Chị nói với theo: “Rằm tháng bảy, em lên chùa nhé”. Tôi ngoảnh lại: Khuôn mặt chưa tàn phai hết vẻ đẹp một thời của chị nom mờ ảo, mong manh, “Thôi! Em đi về đi!”. Chị giục, rồi quay ngoắt đi vào chùa. Tôi nhìn cánh cửa nặng nề dửng dưng đóng lại sau lưng chị và chợt rùng mình.

Ngày chị lên chùa, tôi còn ở chiến trường. Bữa tôi về, mẹ tôi nói: “Nó đi rồi tao mới biết, dân làng mới biết, chẳng ai khuyên can được một lời. Bố mẹ chết vì bom Mỹ, anh Ninh (anh em sinh đôi với tôi) có giấy báo tử, nó lẻ loi quá mà”. Mẹ tôi lặng một lúc, rồi tiếp: “Đi đông, về tây bom đạn cũng chừa ra mà sao nó nông nổi thế, hả trời”. Phải đâu chị nông nổi! - Tôi nghĩ thế. Hôm ấy, thấy chị mặc bộ quần áo nhà chùa màu nâu, cứng và rộng lòng tôi nhói đâu. Tôi vét hết tâm trí lấy lời thuyết phục chị hoàn tục. Chị nhìn xuống hai bàn tay của mình đặt hờ trên cái mõ gỗ, nói: “Em đừng nói chi. Không gì thay đổi được nữa đâu”.

Lần này gặp chị, tôi không hề nhắc chuyện cũ. Biết chẳng ích gì. Tôi quay lại thập thững theo con đường đất mấp mô xuống bến đò. Người chèo đò là chị Ngọc, xấp xỉ tuổi năm mươi, đi thanh niên xung phong một đợt với chị Hoài. Nghe kể, chị Hoài lên chùa cùng ngày, cùng giờ, cùng tháng, cùng năm với chị Ngọc xuống sông. Một lần nào đó, chị Ngọc nói với tôi: “Người tin cõi Niết bàn đông lắm, nên nhiều lắm người phải lụy con Hoài. Còn tôi chèo đò, ối kẻ phải lụy tôi để sang sông”. Chị Ngọc to lớn, khuôn ngực nở nang và có đôi mắt nhìn hút hoẵm giống mắt chị Hoài.

Bến Đò Làng có ba bậc đá, rêu viền bốn phía chung quanh, ngọn rêu vật vờ trong nước xanh nom buồn thiu. Tôi đứng ở bậc đá thứ hai. Chị Ngọc ở bờ sông bên kia quay đò, chèo sang. Mũi đò cập bậc đá thứ ba, chị găm sào, đứng chạng chân trên sạp gỗ và kéo vạt áo để lộ một mảng da bụng lùm lùm trắng lốp. Xòe bàn tay trái xoa bụng, chị nói giọng vút lên như hát: “Chú biết không, tôi sắp có con. Tôi mơ thấy con trai hẳn hoi nhá”. - “Mừng cho chị nhiều” - Tôi nói và bước lên đò. Chị thả vạt áo xuống: “Mười bốn, mẹ con tôi sẽ lên chùa nhờ sư Hoài làm lễ”. Tôi nói: “Rằm mới lễ chùa cơ mà”. Chị vừa bát đò vừa nói: “Biết. Tôi lên trước, con Hoài còn rảnh để ngồi mà ôn xưa nhớ cũ”. Bất thần chị quét ánh mắt hút hoắm lên người tôi: “Chú mặc áo quần bộ đội, đính quân hàm quân hiệu như vậy vào gặp sư Hoài à?”. Tôi bối rối: “Nhà chùa ấy có qui định về trang phục đâu”. Chị Ngọc nhìn lên một chỗ nào đó giữa khoảng không, giọng trầm hẳn: “Đã đành là thế”.

Con đò ra đến giữa sông. Gió nhẹ không có sóng nhưng chẳng hiểu sao nó cứ chòng chành, chòng chành.

***

Tôi sắp xếp áo quần vào túi xách. Mẹ tôi ngồi têm trầu trên chõng tre, cất giọng hỏi: “Chị Hoài nhắn gửi gì không?”. Tôi nói: “Chị dặn rằm tháng bảy con về đi lễ chùa”. Mẹ tôi thở dài (lần nào nhắc tới chị Hoài, bà đều thế), rồi nói: “Xưa gia đình chị ấy gặp đận khó khăn, mẹ đón nó về nuôi. Chúng mày như chị em ruột”. Bà buông ngọn trầu không nhìn đăm lên bức ảnh anh Ninh trên bàn thờ. Tôi lén lau nước mắt.

***

Mồng mười thì trời hửng nắng. Thời tiết thuận, lại được mùa lúa, dân làng tôi náo nức chuẩn bị lễ chùa Ngàn Hương. Mờ sáng rằm tháng bảy, tôi đã về đến bến đò. Bên kia sông, làng tôi xanh ngời và vô vàn âm thanh cứ rạo rực lên. Không thấy đò chị Ngọc đâu, tôi ngồi xuống bãi cỏ đẫm sương châm thuốc hút. Sau tôi, chếch về phía phải, chùa Ngàn Hương chẳng hiểu sao đến giờ này vẫn còn câm lặng. Không tiếng chuông bình bong! Không tiếng mõ lóc cóc!

Bất thần khắp nơi, khắp chốn, kể cả làng tôi chìm vào bầu không khí im lặng. Một cái gì đó câm nín, mềm nhũn ra, lan tỏa. Một nỗi lo sợ mơ hồ ám ảnh tôi. Tôi bấu năm ngón tay vào ngọn cỏ và nghe đâu đó, như trong gió, trong nắng, trong sương, trong cỏ... cái tin sư Hoài đã biến mất.

Dân làng tôi đổ ra bờ sông. Họ chen chân trên ba bậc đá, những cái bậc đá có rêu viền, ngọn rêu vật vờ. Ai đó ném xuống dòng sông một mâm hương hoa. Sông vẫn chảy thao thiết. Mãi một lúc sau, lúc tôi đã đứng thẳng dậy, mới thấy con đò của chị Ngọc hiện ra nơi khúc ngoặt của dòng sông. Chị vén vạt áo khoe cái bụng chửa của mình và cười: Chẳng ai cần tiếng cười của chị. Dân làng đang nóng lòng sang sông để lên chùa. Chị chậm chạp cho mũi thuyền hướng về phía tôi, mặc cho tiếng la ó nổi cồn lên ở bờ sông bên kia.

Chị nhìn tôi, cất giọng như hát: “Chú đưa khuôn mặt anh Ninh về một lần như vậy là đủ, mặc quân phục một lần như vậy là đủ”. Tôi ngơ ngác. Chị chìa ngón tay trỏ khuơ một vòng trước mặt tôi rồi chỉ vào bụng mình.

Đò đã sang bờ bên kia, đầu tôi vẫn cứ quay tròn theo cái vòng vô hình ngón tay trỏ của chị Ngọc vừa vẽ vào không khí. *

HẾT

Nguồn: Tạp chí Kiến thức Ngày nay
Đánh máy: hoi_ls
Nguồn: Diễn Đàn Vnthuquan.net
Được bạn: Mọt Sách đưa lên
vào ngày: 15 tháng 8 năm 2022