1
Tôi chỉ là người đàn bà!
Lúc nào tôi cũng có thể phác ngay trong trí những nét chính cuộc đời tôi cho đến nay, nhưng tôi không thể nhất thiết kể theo thứ tự thời gian như thế được, cả tâm hồn tôi, giờ đây luôn luôn muốn biến thành cái lò nổ, chỗ nào yếu nổ trước; cả tâm hồn tôi mang muôn ngàn vết thương, tôi muốn nhắm mắt nặn nhọt hoặc thoa thuốc vào chỗ nào nhức nhối nhất. Tuy nhiên tôi cũng cố gắng cho câu chuyện một trật tự tối thiểu. Tôi chỉ là một người đàn bà! Phải thổ lộ nỗi lòng, nếu không tôi phát điên lên mất.
Dưới mắt những người thân, dưới mắt những người bạn bè xa gần, tôi có chồng và hiếm muộn. Ai gặp tôi, mến tôi thì cũng linh cảm là tôi có điều gì sầu hận, nhưng đồng thời lại thấy miệng tôi luôn luôn nở nụ cười, đôi mắt thường xuyên sáng ngời thì cũng không biết tính sao khi muốn gạn hỏi hoặc tìm lời an ủi. Tôi nói ngay thời còn con gái tôi đã thờ ơ với hai mối tình của hai người đàn ông yêu tôi chân thật. Giờ đây nữa, một trong hai người còn theo đuổi. Tôi là nạn nhân của chính tôi – phải, của chính tôi – thì còn kêu oan vào đâu?
Tôi có đôi vợ chồng bạn, anh chị Minh, mà tôi quý nhất. Chị Minh người hiền hậu, tiểu gia đình chị có một sự phân công gương mẫu: anh đi làm kiếm tiền, chị quán xuyến việc nội trợ. Chị có bốn đứa con, đứa nào cũng khôi ngô đĩnh ngộ, mỗi đứa một vẻ. Cặp vợ chồng này hòa thuận quá, gặp giờ họp mặt đông đủ, anh pha trò trêu chị, chị pha trò trêu lại anh. Mỗi lần tôi đến chơi, thái độ của cả gia đình niềm nở, tôi nói cả gia đình vì kể cả lũ nhỏ ùa lại ríu rít hỏi quà bác, hai đứa lớn gặp khi đương học hay đương làm bài thì cũng đứng dậy khoanh tay chào “Bác ạ” rồi mới thùy mị ngồi xuống tiếp tục công việc học. Đừng tưởng người chồng quá chân chỉ hạt bột, anh cũng vui anh vui em, khi tiệm nhảy, khi phòng trà, nhưng chị tha thứ, coi đó là nếp sống bừa bãi cần thiết của người đàn ông. Đôi khi chợt đến chơi vào buổi tối, tôi thấy anh ôm trên tay một lúc hai đứa nhỏ, nhảy theo điệu nhạc radio, trông bước đi đủ rõ anh nhảy vào hạng khá. Anh có quát mắng và đánh lũ trẻ khi chúng hư, nhưng chúng yêu bố cũng bằng yêu mẹ. Tôi vẫn hằng tự nhủ nếu có ngày nào phải nói thật chuyện tôi, tôi sẽ nói với chị bạn này (với anh thì nhất định không rồi).
Tôi thiếu tình yêu chỉ có thể tâm sự với người đầy đủ hạnh phúc, không thể tâm sự với kẻ cũng thiếu như tôi, không thể tâm sự với anh Hoan chẳng hạn. Anh Hoan lấy chị Hoan cũng chỉ vì cha mẹ bắt buộc phải lấy cho môn đăng hộ đối, nhưng anh nghệ sĩ phóng khoáng, chị thì quá chi li, quá thực tế, luôn luôn mè nheo anh về vấn đề tiền. Chị Hoan nội trợ đảm đang, trông nom con cái đến nơi đến chốn, anh Hoan biết vậy lắm, nhưng vẫn bất mãn vì tính tình đôi bên quá trái ngược, thành thử đôi bên – chị Hoan cũng như chính anh Hoan – luôn luôn thèm chuyện. Hễ gặp tôi là chị than phiền anh, còn anh, vào giờ nghỉ, ngày nghỉ, anh cũng lang thang hết nhà bạn này đến nhà bạn khác cũng chỉ để tâm sự cho vơi nỗi lòng. Có đôi lần chị về thì anh tới, tôi phải lẳng lặng nghe và an ủi cả hai. Nhưng anh chị Hoan tâm sự với tôi thì được, chứ chuyện tôi thì làm sao tâm sự với một trong hai người đó? Nguy lắm! Tôi chỉ có thể ngỏ thực chuyện tôi với chị Minh. Tôi đã nhất quyết thế, nhưng đến chơi chị, đã mấy lần sắp nói thì hoặc sực nhớ việc gì chị phải chạy vào trong nhà, vào bếp; hoặc con khóc, con cãi nhau, chị phải chạy lại dỗ, mắng… Lúc đó tôi mới thấy rằng cái người duy nhất để thổ lộ tâm sự ấy không bao giờ có đủ số thì giờ cần thiết để nghe câu chuyện tâm sự chừng ba bốn tiếng đồng hồ liền của tôi. Câu chuyện của tôi mà kể nhát gừng thì còn kể làm sao, và nó ra cái gì?! Tôi thiếu tình vợ chồng, điều mà không ai ngờ nổi kể cả người thân ruột thịt là anh tôi, lỗi ấy không ở chồng tôi – nếu có thể gọi thế được – mà là chính ở tôi. Tôi cần phải nói liên miên, phải kể liền một lúc câu chuyện u uất của tôi, kể không theo một thứ tự gì cả, gặp đâu kể đấy. Sự thực câu chuyện của tôi cũng chẳng cần phải theo thứ tự cho lắm bởi tiểu tiết nào cũng có cái phồn thịnh đặc biệt của nó, tiểu tiết nào vũng có cái vẻ nắm giữ vai trò quyết định để du tôi vào con đường độc đạo hun hút mà rồi tôi phải dần bước, lùi lũi dấn bước suốt đời! Nỗi đau khổ của tôi có đấy mà lại như vô hình vô sắc, sự thiếu thốn của tôi không phải bất cứ người nào, bất cứ lúc nào, mang lại bù đắp là tôi được thỏa mãn. Giả sử Phiên tuyên bố phá giới không tu Bồ tát giới nữa để cùng tôi có sự liên lạc thể xác vợ chồng, tôi sẽ xin ly dị ngay, hoặc tôi sẽ phát điên lên mà tự tử bằng bất cứ cách gì. Tôi gớm làm việc đó với Phiên. Tôi chỉ có thể coi Phiên như người anh, người anh ruột mà tôi mến kính. Có một đêm tôi nằm mơ thấy như xưa kia, tôi còn một người anh ruột nữa, khi mẹ chết, người anh ruột thất lạc. Chao ôi, nếu quả sự thật mà được như vậy thì tôi dám quả quyết người anh mất tích từ ngày thơ ấu kia chính là Phiên bây giờ và tôi đã tái diễn một phần nào định mệnh của nàng Tô Thị. Một lần khác tôi mơ thấy đi trên bãi biển với một người đàn ông, người đó có thể là Huân, có thể là Thiện (hai mối tình hắt hủi), có thể là kết tinh của cả hai. Người đó dắt tôi đi rảo bước trên cát mịn, tiếng sóng từ ngoài xa tuần tự xô vào, khi thì rầm rộ như trận bão lớn, khi thì rì rầm như tiếng thông reo. Bãi biển rất vắng, tuy nhiên chúng tôi có gặp đôi ba người đi ngược chiều lại thì phải, hoặc đôi ba người đứng im hoặc ngồi im đây đó. Hai chúng tôi đi vào một chiếc thành đá, tựa như một con đê thiên nhiên bằng đá, rồi chúng tôi đi vào một khoảng bãi biển vắng, quây tròn xung quanh là những tảng đá cao thấp khác nhau kết lại thành một bức thành khác nhỏ hơn nhưng huyền diệu, hoàn toàn ngăn bước lũ phàm phu tục tử. Chỉ có hai chúng tôi, sáng trăng mờ mờ, chúng tôi không nhìn thấy những khuôn mặt nhau, hình như đôi mắt lúc đó không phải là dùng để nhìn nhau, mà là để kết hợp với đôi tai nghe rõ tiếng sóng biển dạt dào… dạt dào và để ngắm xa xôi vừng trăng mọc cao trên khoảng núi rừng đối diện với biển. Có đám mây lướt tới… và môi người đàn ông cũng vừa lướt tới hôn tôi, hôn lên má… rồi dừng lại trên đôi môi. Trăng, núi, rừng, biển chợt nhòa đi biến vào hư ảo, người đàn ông dìu tôi nằm xuống bãi cát, tôi hưởng một niềm hoan lạc vô cùng quý giá vì nó vẫn rất tinh khiết mà vẫn làm cho tôi tê dại tan hòa vào cái mênh mang không bờ không bến của vũ trụ. Khi tỉnh dậy, tôi chỉ còn thấy chiếc chăn gấp bốn đặt ngang bụng mà tôi chưa kịp tung ra đã chợp ngủ. Tôi chắc chắn rằng đời tôi không bao giờ còn được gặp lại giấc mộng đẹp mênh mông ấy nữa, hoặc giả nếu có tái sinh thì cũng phải đợi nhiều, rất nhiều kiếp nữa. Với mộng thì thế, còn với người, với hoàn cảnh, làm sao tôi gặp được người đàn ông lý tưởng kết tinh vẻ đẹp tình yêu chung thủy của cả Huân lẫn Thiện? Giả sử có được thì làm sao hắn biết cách rủ tôi ra bãi biển một đêm trăng, làm sao hắn biết hôn tôi vào đúng lúc mây lướt tới hôn trăng? Ôi, còn những người xung quanh, những lo lắng của bản thân, những lo lắng của kiếp người. Nói tóm lại trong thực tế, tôi đừng hòng được hưởng một cuộc ái ân tinh khiết tuyệt vời như tôi được hưởng trong giấc mộng ngàn đời một thuở kia. Tôi phải ôn lại tuổi thơ với hình ảnh mẹ tôi, với những đức tính của mẹ tôi để trấn tĩnh lấy tinh thần. Khốn khổ cho thân tôi chưa, tôi đã mất cái gì? Tôi mất tôi chăng?
2
Mẹ mất năm tôi chớm mười ba tuổi, “Nữ thập tam, nam thập lục”, vào tuổi này người con gái đang đứng ở ngưỡng cửa nghĩ ngợi dò hỏi… Tôi không có dịp dò hỏi “Đông đào Tây liễu biết ai bạn cùng”, phải chăng vì mẹ chết vào lúc đó, phải chăng vì trên tôi, dưới tôi, không có chị em gái nào để mà gợi chuyện lứa đôi?
Cha tôi sinh vào năm chấm dứt giai đoạn Văn Thân Cần Vương, nghĩa là năm 1895, năm cụ Phan Đình Phùng chết vì bệnh kiết lỵ trong núi. Cha tôi cũng thuộc dòng họ Phan; người có thể đã là một trong những người được cử đi Nhật Bản nếu phong trào Đông Du không sớm bị tàn lụi vào năm 1912. Theo như sự suy xét sau này của tôi thì sự chuyển hướng của người phải kể từ ngày đó: người không trực tiếp hoạt động chính trị nữa, người chuyển sang hoạt động văn chương, người làm những bài thơ cảnh tỉnh quốc dân, những bài ca trù, những bài hát xẩm ái quốc tiêu cực, giọng điệu lâm ly thấm thía khiến người dân Việt thời đó nếu không thể vùng lên được vì thời cơ chưa thuận tiện thì cũng không thể quên được cái nhục vong quốc. Những bài thơ đó cha ký hẳn tên thực. Danh sĩ bốn phương tấp nập tới thăm. Những viên chức cai trị người Pháp cũng tới làm thân vừa để tỏ thái độ mua chuộc cầu hiền, vừa để dò la canh chừng. Tân Việt Cách Mạng Đảng thành lập (1925) đúng vào thời danh tiếng cha tôi vang dậy như cồn. Các sĩ phu lãnh đạo Tân Việt Đảng (đã chuyển sang Tây học và đã từ bị đầy đi Côn Đảo) thường liên lạc với cha tôi. Tới năm Việt Nam Quốc Dân Đảng ra đời (1927), cha tôi nhiều lần bí mật họp bàn với các cấp lãnh đạo đảng, rồi một mặt người tiếp tục trước tác thơ ái quốc, mặt khác người dịch thuật để phổ biến những bài báo, những trang nói về cuộc cách mạng Tân Hợi Trung Hoa, về Tôn Trung Sơn, về Tam Dân Chủ Nghĩa… (Tuổi thơ của hai anh em tôi lớn lên trong bầu không khí cách mạng và tìm hiểu cách mạng như vậy, chẳng khác gì trà được ủ, được ướp hương hoa.) Những hoạt động đó của cha tôi không thoát khỏi con mắt phòng Nhì thực dân, nhưng chúng biết cha tôi hoạt động thuần văn học nên chỉ canh chừng và vẫn làm ngơ. Sau này khi đã trưởng thành và thực sự đi vào con đường cách mạng, mỗi khi phê bình điều này, anh tôi thường lắc đầu mà rằng: “Cách cai trị của thực dân Pháp thật là cáo già!”
Một lần anh tôi cất lời hỏi thêm:
- Cô có nhận thấy tới dạo thầy đã nghiện a phiến thật sự rồi, thì không còn bóng một tên quan cai trị người Pháp nào tới thăm lấy lòng nữa?
- Vâng, em nhớ. - Tôi đáp.
- Cô có hiểu lý do vì sao không?
- Có thể thực dân cho rằng như vậy là một nguồn hiểm họa của chúng hết hiệu lực!
- Đúng, cô nói đúng. Chúng thật cáo già! Dòng dõi nhà quan, cha tôi là sở hữu chủ khoảng trăm mẫu tư điền hạng thượng đẳng ở quê nhà, một làng thuộc phủ Hoài Đức tỉnh Hà Đông. Làng tôi nằm giữa bốn bề phương vật; phía Đông có húng Láng, thứ húng thơm quý mà trồng khỏi làng Láng thì thành… bạc hà, phía Tây có cốm vòng, thứ cốm xanh màu ngọc thạch, đẹp mịn và dẻo thơm như kết tụ được phẩm chất cao quý của lúa thời con gái, phía Nam là cánh đồng Thanh Trì có thứ gạo gié cánh vẫn thường được xay bột, tráng bánh cuốn, thứ bánh trắng mỏng như nõn chuối, thoạt trông ngỡ là trong suốt, khi miếng bánh được đặt vào miệng thì tưởng như bột đó tự ý tan ra mà thấm vào thớ lưỡi, tan hòa vào mạch máu, ôm ấp lấy vị giác, tỏa thành hương đồng Bắc Việt.
Cha tôi ít về thăm quê, việc thu hoa lợi đã có gia nhân, người chỉ từ ấp Thái Hà về quê vào những dịp có đám giỗ lớn, hoặc Tết nhất, hoặc làng vào đám. Sự có mặt của người tại ấp Thái Hà là một điều cần thiết, vì nơi đây đã trở thành một trong những trung tâm liên lạc cách mạng. Không ngày nào là trại nhà không có thực khách. Anh tôi vẫn thường nhắc lại cho tôi nghe một vụ mật thám Pháp bất chợt ập tới khám nhà. Chúng dò biết có một yếu nhân vừa tới. May thay vị lãnh tụ cách mạng thoát nạn vì cha tôi đã lanh ý trao cho bộ đồ của người vú; lãnh tụ hóa trang, bận váy, mặc áo cánh nâu, đeo yếm cổ thìa, chít khăn mỏ quạ, ôm tôi (ngày đó mới vừa đầy năm) và đưa võng kĩu kịt trong buồng tối, ngoài cửa buồng là chiếc nồi đất đầy tro ấm có đốm chút than hồng, dấu hiệu trong buồng có trẻ đang lên đậu mùa.
Lần đó ví chẳng may phòng nhì Pháp bắt được lãnh tụ, cha tôi hẳn mang gánh trách nhiệm và trở thành một thứ thiên thần gẫy cánh. Đàng này hoàn toàn vô tang chứng, hôm sau lập tức viên chức cai trị người Pháp tới thăm, làm bộ băn khoăn bứt rứt, hết sức xin lỗi cha tôi về thái độ đường đột của lũ bộ hạ mật thám trực thuộc hắn.
Kể từ ngày ấy cha chịu khó ngụy trang cho các cuộc tiếp tân hơn, người cho gọi cô đào đến hát, hát những bài ca trù chính người sáng tác; người cho mua bàn đèn, và quây quần quanh bàn đèn, các khách cách mạng của người bàn luận… soạn thảo… tổ chức những người trong nước, chuẩn bị những người ra đi… Các đồng chí đến rồi đi, nhưng cha tôi thì nằm đấy, thường xuyên nằm đấy, ôm lấy cái bàn đèn, cố định trong vai chủ tiếp khách. Cái bàn đèn mãi mãi là chiếc bình phong cho các bạn làm cách mạng, nhưng riêng với cha tôi, chiếc bàn đèn đó sau này đã làm chủ người.
Cha tôi nghiện thật sự nhưng nhờ lợi tức một trăm mẫu thượng đẳng điền ở quê nhà, thêm tài quán xuyến của mẹ, nên tuy nghiện mà phong thái của người vẫn như xưa, nhà vẫn đông khách; khách tới, lũ chúng tôi vẫn có buồng học riêng, sân chơi riêng để không làm nhộn các vị. Khuôn đúc trong nền giáo dục nghiêm khắc của cha nhưng kèm theo những khuyên răn dịu hiền của mẹ, nên chúng tôi thảnh thơi trong nề nếp con nhà như cá thảnh thơi với nước. Tôi có ý thức về nếp sống này phải kể từ năm lên bảy lên tám trở đi, bao nhiêu chuyện xảy ra hồi nhỏ trước tuổi này, chính anh Quát, người anh duy nhất hơn tôi ba tuổi, kể lại cho nghe về sau.
Hai anh em tôi thường hợp với lũ trẻ hàng xóm chơi trò “đánh Tây cướp thành Hà Nội”.
Trò này cũng là do một đồng chí trẻ tuổi của cha tôi bày ra. Chúng tôi chia làm hai toán, một toán làm Tây giữ thành Hà Nội, một toán làm quân cách mạng muốn lập mưu đánh úp để cướp thành. Bao giờ hai anh em tôi cũng cầm đầu toán quân cách mạng. Lần đầu tiên chuẩn bị trò chơi này, tôi trèo lên lũy tre trại nhà, nhận thấy nơi đây chỉ có một lối xuống độc nhất, còn vòng quanh lũy tre cao, chỗ thì dựng đứng như tường, chỗ thì chằng chịt những duối gai, xương rồng, hoặc hào nước ô rô, ngoài nữa, bao quanh lũy tre là ruộng chìm ngậm nước. Tối hôm đó, tôi thảo luận với anh về kế hoạch “lãnh đạo quân cách mạng”. Hôm sau anh em tôi nhử cho toán “Tây giữ thành Hà Nội” đuổi “quân cách mạng” qua khỏi độc đạo đó. Nhưng khi vừa xuống lũy, chúng bị toán “quân cách mạng” mai phục ùa ra đánh, đường độc đạo đã bị ngăn chặn bằng cách giăng ngang dây thừng và ném gạch đá dữ dội. Lũ “Tây” chạy re theo lũy tìm lối lên, nhưng lối lên không có, cực chẳng đã chúng đành chạy ùa xuống ruộng chiêm nước ngập tới bụng. Sau khi chúng chịu thua “trả lại thành Hà Nội”, “quân cách mạng” cho chúng lên, thì đã có mấy đứa bị đỉa cắn máu chảy ròng ròng ở bụng hoặc ở bẹn.
Tôi còn sáng kiến muốn bày trò chơi “Ký Con ám sát mật thám tay sai Pháp”, nhưng ai cũng muốn làm Ký Con mà chẳng ai chịu làm mật thám để tất nhiên bị ám sát (không thể khác được) nên trò này đành bỏ.
Tuổi thơ của tôi chấm dứt kể từ ngày mẹ chết, tôi thừa hưởng ở người thái độ nhẫn nại “dù no dù đói cho tươi”. Đúng thế, mẹ tôi thuở sinh thời kính cẩn thưa gửi người trên, dịu dàng sai bảo kẻ dưới, tuyệt nhiên tôi không thấy người cùng một lúc cau mày và dằn lời bao giờ. Còn nhớ, mỗi lần có điều gì phật ý hoặc bị cha đánh mắng, tôi có nhăn mặt khóc mếu thì mẹ thoáng nhìn vào thẳng đôi mắt tôi, nghiêm nghị mà vẫn dịu dàng, giọng trầm và mạnh, người nói gọn mà vẫn có âm vang êm đềm: “Tươi.i.i…” Tiếng “Tươi” kéo dài như vậy mà tuyệt nhiên không có một chút gì là đay nghiến, lập tức tôi bị thôi miên bởi đôi mắt gợn tia sáng hiền từ, tiếng ra lệnh gọn dịu âm vang đó và tươi ngay.
Từ sau ngày mẹ chết, tôi thường bị cha đánh đòn. Không phải vì tôi quá hư hỏng nghịch ngợm gì, nhưng phần vì cách giáo dục của cha tôi vẫn luôn luôn nghiêm khắc như vậy, phần vì từ sau ngày mẹ chết, cha tôi trở nên gắt gỏng và khắc nghiệt hơn nhiều, còn sự vụng dại của tuổi mười ba thì có gì là đáng ngạc nhiên. Những trận đòn bất ngờ tê dại da thịt, tôi còn nhớ. Tuy nhiên tôi không hề oán cha, trái lại luôn luôn thâm cảm rằng người vẫn thương yêu các con rất mực, chắc chắn là người còn thương yêu chúng tôi hơn cả khi mẹ còn sống. Nhưng chim phượng hoàng đó càng bay bổng ở miền thơ văn, càng bất lực ở thực tại gà trống nuôi con, do đó đâm ra giận mình rồi bẳn tính và trút cả những bực dọc đó trong tiếng quát tháo, trong những trận đòn bất ngờ. Rồi người mê một danh ca ở Khâm Thiên, có ý định lấy cô ta làm kế. Tôi lên mặt “bà cụ non” khuyên can cha. Người nổi trận lôi đình và tôi lại cắn răng chịu đòn. Nhưng chịu dứt trận đòn, tôi giữ được khuôn mặt tươi liền, thứ tươi bình thản của kẻ đã thắng, qua sự tươi sớm trở lại đó, gương mặt tôi vẫn giữ nguyên niềm kính mến với cha.
Lạy mẹ, con đã thừa hưởng trọn đời con thứ gia tài vô vàn quý giá của mẹ là biết chịu đựng mọi thử thách, mọi ngang trái của đời với một thái độ bình tĩnh kỳ diệu, nó làm cho những ngang trái đó mất hết hiệu lực bén nhọn của tàn phá giày vò và ngược chiều trở thành thứ lửa hữu ích nung nấu cho hồn mình thành kim cương.
3
Năm mười lăm tuổi, mặc dầu còn bị đòn cha đánh, tôi đã biết làm thơ, thơ Đường luật thất ngôn bát cú. Bài đầu tiên tôi làm để ca ngợi Hai Bà Trưng, bài thứ hai ca ngợi Bà Triệu, bài thứ ba ca ngợi Phù Đổng Thiên Vương… Tôi ham đọc sử. Ý thơ còn vụng dại, nhưng lời thơ đã khá chỉnh. Bậc cha chú trong nhà thấy vậy thì khen là “con bố”, nhưng thực ra tôi yêu văn thơ, thích làm thơ là do thường xuyên sống với hình ảnh mẹ tôi, hiện thân của nghiêm kính và thương yêu với sức lôi cuốn mãnh liệt mà dịu dàng. Anh em tôi thừa hưởng của cha cái gì? – Cái hăng say cách mạng! Từ lúc đã lớn, không còn chơi trò “đánh Tây cướp thành Hà Nội” nữa, anh em tôi toàn bàn những chuyện to lớn, những chuyện mà sau này tôi mệnh danh là “những chuyện trên giời dưới biển”. Lẽ ra, nếu nhà có chị em gái thì năm mười lăm, mười sáu tôi đã biết cách làm dáng làm đỏm, biết e thẹn trước đàn ông, chết nỗi trên tôi chỉ có một anh trai, nên toàn bàn chuyện mai hậu sẽ tổ chức cai quản trăm mẫu tư điền của cha tôi ở nhà quê ra sao để có thể kiến thiến được một nhà bảo sanh thật rộng, một trường học thật đẹp, một nhà thương thật có tổ chức… Ấy đó, đại loại những điều tôi loay hoay nghĩ đều là những “việc lớn” có tính cách xã hội cách mạng như vậy, lúc nào đã thấy mệt về những toan tính tương lai đó, tôi làm thơ, thơ vịnh sử, hay thơ tình cảm cao khiết; tôi khinh vô cùng những chuyện tình, chuyện lợi, tôi không quan niệm nổi con người Việt Nam, nhất là thanh niên Việt Nam, lại có thể nói những chuyện tầm thường đó trong hoàn cảnh đất nước còn chìm đắm trong nô lệ ngoại bang như kia được. Hồi đó khách khứa của cha tôi vẫn đông như xưa, nhưng khách cách mạng ít đi, phần đông là trong giới làm báo, những chủ báo tiếng Việt đến bàn chuyện cách mạng trên lý thuyết, rồi xin những bài thơ ái quốc của cha tôi; vài ông chủ báo tiếng Pháp thì vì ngưỡng mộ mà tới, rồi dần dà vì tới luôn mà nên thân. Có khi họ họp ở nhà tôi rồi kéo cha tôi đi, đi đến tòa báo, đi ăn uống, đi đến nhà Đốc Sao (chốn du hí sang trọng vào bậc nhất Hà Nội thời thực dân đô hộ) ở Khâm Thiên, một hai ngày mới về. Nhiều khi nửa đêm lại thêm khách ùa đến bộn nhà, không khí chợt bừng lên rộn rã làm chúng tôi thức giấc ở buồng trong. Một lần, tôi nghe tiếng một ông bạn của cha tôi phát biểu ý kiến cho gọi cô đầu Khâm Thiên về hát khúc Tỳ Bà vào lúc đêm khuya thanh vắng đó. Cha tôi ưng liền, lấy danh thiếp viết, rồi sai người nhà phóng xe ra đi liền. Danh sĩ với danh ca! Tất nhiên danh ca luôn luôn thấy rằng đó là một bổn phận phải tức khắc đáp lời tri kỷ. Nàng, trên đường đi tới thì vội vã lật đật, nhưng khi đã tới thì giữ cho dáng người khoan thai, rồi tiếng phách reo giòn như tiếng reo vui, giao thoa giữa những tâm hồn tri kỷ. Rồi tiếng hát tỉ tê, nao nao êm ả đan lẫn vào tiếng đàn ngọt ngào, tôi ngủ thiếp khoảng nửa chừng khúc Tỳ Bà Hành, khúc hát vừa buồn vừa rạo rực, đê mê xao xuyến một cách cổ kính. Nàng danh ca đó có đôi lần đến thăm cha tôi vào ban ngày, thường ở lại lâu, nếu vào dịp nhà không có khách, tôi cảm thấy chướng mắt. Rồi có tin đồn cha tôi dự định lấy người đó làm vợ kế. Tôi đánh bạo hỏi, người quắc mắt nhìn tôi giây lâu, rồi quay đi không thèm trả lời. Tin đồn cơ hồ sắp thành sự thật, lần này tôi lên tiếng cản ngăn; người nổi cơn lôi đình thịnh nộ gọi tôi là “bà cụ non”, người ném cả chiếc gối mây về phía tôi, may tôi tránh kịp, chiếc gối veo tới tường gạch, văng chéo sang bên, dội mạnh vào chiếc đèn tọa, thông phong vỡ tan tành, dầu đổ tung tóe loang thành một khoảng lớn trên nền gạch. Tôi còn nhớ cảm giác nhói buốt khi nghe tiếng thủy tinh rơi vỡ ngày ấy, nhưng tôi vẫn giữ nguyên vẻ bình tĩnh, khẽ cúi đầu thầm lặng, ý cầu xin cha nguôi giận, rồi xuống nhà. Tôi còn lên tiếng can ngăn người mấy lần nữa, lần nào cũng bị người đánh, tát, kèm theo những lời quát mắng “bà cụ non”, “trứng khôn hơn vịt”… Nhưng lần sau cùng, cha tôi chỉ lừ mắt trầm ngâm, dường như có thở dài. Rồi nữ danh ca được chính thức đón về làm vỡ kế. Hai anh em tôi gọi nàng là “Dương Quý Phi” – nàng chả họ Dương. Dương Quý Phi đối với tôi thân thiện và nhã nhặn lắm, luôn luôn tỏ vẻ ân cần săn sóc, dù tôi biết chỉ hời hợt bề ngoài; và nếp sống của người nghệ sĩ đó làm sao có thể so sánh được với nếp sống thuần khiết đạo đức của mẹ tôi xưa. Đến lúc đó tôi mới có dịp ôn lại nếp sống của mẹ để so sánh. Kể từ năm lên tám, lên chín trở đi là năm tôi đã khởi sự có ý thức “lờ mờ” về mình, về người thân xung quanh, nhớ lại quả thực tôi chưa hề thấy mẹ cãi nhau với ai. Ngoài những khách cách mạng, văn nghệ của chồng, mẹ tôi còn luôn luôn niềm nở tiếp đón anh em bà con nhà chồng từ trong quê ra, năm mười người là thường. Gạo, muối, mắm, trứng, lạp xưởng, củi lửa… những thứ đó, không bao giờ trong nhà thiếu, bởi vậy dù khách tới bất ngờ đến đâu, số lượng dù tới chục người, mẹ tôi vẫn lẳng lặng điều khiển người nhà làm cơm tức khắc. Phải, có một lần cha tôi lật đật từ nhà trên xuống nhà dưới, nói với mẹ tôi:
- Bà làm ngay cho cái gì nhắm để giữ bác ấy ở lại, không có bác ấy đi mất.
Lập tức mẹ tôi đặt soong nước lên bếp, cắt tiết, chặt ngay đôi đùi, lấy nước sôi trữ sẵn làm lông, thả vào soong nước đã bắt đầu sôi, tính ra chỉ vừa mười lăm phút sau, người đã bưng mâm đồ nhấm thịt gà lá chanh, trứng luộc lên, kế đó các thức nhắm khác tiếp tục mang lên cho đến lúc tiệc tàn.
Không bao giờ tôi nghe mẹ to tiếng quát tháo người làm. Thảo nào hàng năm cứ đến ngày giỗ người, là u già, anh bếp, anh xe từ nhà quê lên làm lễ kính cẩn và ôn lại cho tôi nghe những năm được làm lụng dưới sự sai khiến của người.
Bên nội thì thế, đến bên ngoại thì sự quý trọng còn gấp bội vì xa xôi cách trở (quê ngoại tôi ở tận Sơn Tây). Sinh thời mỗi lần về thăm quê ngoại, chắc chắn là mẹ tôi lại có dịp can gián trên, hòa giải dưới, bậc trên thì nể và mến, bề dưới thì sợ và yêu. Thôi thì các anh chị em ruột, các chị dâu, em dâu, ai có chuyện gì lục đục chỉ chờ đến ngày đó mà phân trần với cô Phan, với chị Phan, với dì Phan… Vì vậy mẹ tôi thường có ý về trước ngày giỗ chính mấy ngày. Ông ngoại nhất nhất cái gì cũng hỏi ý kiến “cô Phan” trước đã, rồi mới quyết định.
“Ối chao, - lời một bà dì tôi cho tới nay vẫn thường nhắc – tới ngày giỗ, con cháu ngồi chật nhà trên nhà dưới, mấy chục mâm, mẹ cháu pha trò cười mấy mâm. Mẹ cháu vui mà nghiêm, các dì sợ “chị Phan” hơn mẹ.”
PHẦN I
Tiến >>
Nguồn: SÁNG TẠO xuất bản 1972 - https://www.doanquocsy.com
Được bạn: Thanh Vân đưa lên
vào ngày: 15 tháng 3 năm 2023