Người Về Đầu Non

võ hồng

Chương 1

MỖI LẦN HƯỚNG MẮT QUAY LUI NHÌN về quá khứ là tôi thấy bóng dáng của ông Bác tôi hiện lên, bao trùm cả một quãng đời thơ ấu của tôi như cây đa cổ thụ vẫn đứng bao trùm cả một vùng đất đá hoang vu, tỏa bóng mát hiền lành xuống một tòa cổ miếu, một mái chùa rêu phong hay những căn lều chợ xơ xác quê mùa. Bác là tượng trưng cho sự làm việc cần mẫn, sự tính toán dự phòng thường trực, sự khôn ngoan thực tế. Lúc nào tôi cần đến là đã có Bác hiện diện, như mái nhà luôn luôn hiện diện che nắng che mưa. Khi tôi bắt đầu có trí khôn, trí óc ghi nhận được sự hiện hữu của một vũ trụ nhỏ bé quen thuộc quanh mình thì khuôn mặt tôi ghi nhận đầu tiên là khuôn mặt Bác.

Bác không con. Bác gái có sinh một lần, nuôi không được rồi từ đó bặt luôn không sinh nở nữa. Vì thế khi tôi vừa đầy tuổi và mẹ tôi bắt đầu có mang lại thì Bác gái bắt tôi về nuôi, lấy cớ là sợ tôi bú sữa non. Rồi sau đó giữ nuôi luôn không trả lại. Tôi đã sống như thế nào trong những năm lên hai lên ba, tôi không hề biết. Không ai kể lại cho tôi nghe những ngày quá khứ đó. Không có một bức ảnh kỷ niệm để được biết ít nhất cái khuôn mặt của mình. Kỷ niệm lùi xa nhất mà tôi còn giữ lại là những buổi chiều tôi theo Bác ra vườn tắm. Có lẽ lúc đó tôi lên năm. Bác mặc quần đùi và tôi trần truồng. Bác thả gàu xuống giếng múc nước, lại đứng trên một tảng đá rộng đặt cạnh bụi đinh-lăng. Tôi đứng ngang đùi Bác và khi Bác xối gàu nước xuống, nước chảy ào luôn từ đầu đến chân tôi. Tha hồ mà ngộp, mà lật đật lấy hai tay vuốt mặt và đôi chân cứ nhảy cỡn lên.

Những buổi trưa Bác gọi tôi bỏ chơi để lên võng ngủ. Tôi nằm một đầu võng và Bác nằm ở đầu kia. Bác cầm một cuốn thơ Lục Vân Tiên viết bằng chữ Nôm bìa đã rách, những tờ đầu đen mướt mồ hôi. Bác ngâm nga tiếng rang rảng như không phải chỉ cốt để tôi nghe. Có lẽ cả bốn năm nhà lân cận cũng đang lắng tai nghe câu chuyện đang tới thời kỳ hồi hộp:

Trịnh Hâm về tới Hàn giang.

Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay.

Trịnh Hâm bị cá nuốt rày.

Tôi hình dung thấy Trịnh Hâm đi thuyền ở ngay trên khúc sông trước mặt nhà tôi, khúc sông rộng tre mọc rậm hai bên bờ. Bóng hàng tre ngã xuống mặt nước và bờ sông lồi ra lõm vào làm cho lòng sông trông như hẹp bớt lại. Sóng nổi cao hơn những buổi trưa có gió. Con đò vẫn do ông Hy chống, — Hy là tên ông lão chống đò quen thuộc, — và Trịnh Hâm sao mặt giống lão Đấu. Lão Đấu là người ở cách nhà tôi mươi thước, dáng dấp to lớn. Lão chuyên môn đánh bạc. Râu trên cằm tua tủa, cái hàm bạnh ra và dáng đi xiêu vẹo, — những tay nghiện cờ bạc ngồi xếp bằng ở sòng tháng này qua tháng khác dường như đều mắc tật đi đứng không thẳng, — làm lũ nhỏ chúng tôi mỗi lần trông thấy lão là sợ hãi bỏ chạy. Được thể, lão rượt theo, cất tiếng ồ ồ như sấm “ À! Đứa nào đó? Chạy theo bắt!”. Khi đứa nhỏ sợ quá đứng khựng lại thì lão lấy ngón tay quẹt nước miếng, — nước miếng của chính lão, — bôi vào mũi đứa nhỏ. Thật là khủng khiếp. Những người mẹ không hiểu thấu hương vị của thứ nước miếng hôi hám đó nên thường a tòng với lão Đấu ma quái gọi lão tới để hăm dọa con mình khiến lão tin thành thật ở uy tín của nước miếng lão và lão ban phát nó trước khuôn mặt cười rạng rỡ của người mẹ. Vậy đích thực lão Đấu là “ông Kẹ” của lũ nhỏ chúng tôi nên Trịnh Hâm trong óc tôi không thể mang khuôn mặt nào khác hơn là khuôn mặt lão Đấu. Tôi mơ màng nhìn thấy con sóng phủ ào vượt lên và theo con sóng lớn, một con cá chép thật to nhảy vọt lên thuyền ngậm trọn lão Đấu vào miệng. Sau đó con thuyền mờ đi, sóng nước lao xao ánh nắng và tâm hồn tôi rung rinh trong một giấc ngủ chập chờn. Bên tai tôi văng vẳng tiếng ngâm mỗi lúc một nhỏ, một nhỏ lần:

Thiệt Trời báo ứng lẽ này rất ưng

Thấy vầy nên dửng dừng dưng

Làm người ai nấy thì đừng bất nhân

Cho đến lúc tôi không còn biết gì nữa.

Nhà cha mẹ tôi ở trước mặt nhà Bác, cách một con đường nên tôi vẫn thường chạy về nhà cha mẹ chơi với lũ em. Mỗi lần đi chợ phiên Giã về, mẹ tôi hay mua về một gói trái sim hay trái găng, một gói bánh nặm hay bánh đúc và mẹ con quây quần ăn ở bộ phản nơi nhà ngang. Thỉnh thoảng tôi được nếm một món ăn đặc biệt của mẹ: đó là bỏ một viên mỡ vào chén cơm nóng, mỡ tan ra trộn vào hột cơm và chúng tôi ăn với mắm cá thu hay mắm cá nục. Lối ăn đó, cho đến nay tôi chưa thấy ai áp dụng. Người thành thị có kẻ bỏ bơ vào chén cơm nóng ăn cho béo và thơm chứ không thấy ai ăn với mỡ.

Có lần mẹ hỏi:

— Con muốn ở trong Bác hay muốn về với mẹ?

Tôi trả lời ngay:

— Muốn về với mẹ.

Mẹ ngó quanh quất xem có ai nghe không rồi vỗ vào đầu tôi, nói nhỏ:

— Đừng nói dại. Ở trong Bác sướng hơn.

Nhà Bác giàu hơn nhà cha mẹ tôi mà trẻ con lại chỉ có một mình tôi nên mỗi mùa mãng cầu, mùa xoài, mùa cam tôi ăn thả cửa. Trong khi đó, có hôm tôi thấy hai đứa em tôi giành nhau một trái mãng cầu chưa kịp chín.

Tôi quen miệng kêu «Mẹ» và không biết kêu «Cha». Cha tôi, tôi gọi là «Anh Tám». Chắc là bắt chước cách xưng hô của chú Ba, người chú họ ở giúp việc cho hai Bác. Nhưng sao chú Ba gọi mẹ tôi bằng «Chị Tám» mà tôi lại không bắt chước. Khi vào học lớp Đồng-ấu, tôi gặp hai thằng bạn cũng ở một trường hợp tương tự, đó là hai anh em thằng Chức và thằng Mão. Hai đứa theo ở với bà Ngoại từ nhỏ và gọi cha mẹ tụi nó bằng «Tám anh» và «Tám chị». Gọi như vậy, dù sao cũng còn dễ nghe hơn là gọi bằng «Anh Tám», tôi nghĩ. Tôi biết xấu hổ từ đó, —bảy tuổi, — nên tôi hay tránh mặt cha tôi. Cũng trong dịp tiếp xúc của tuổi Đồng-ấu tôi mới biết rằng có nhiều đứa gọi cha mẹ chúng bằng những cách xưng hô lạ. Thằng Đới, — tên ở nhà là Đái, — thì gọi mẹ bằng «Vú». Thằng Trình kêu cha nó bằng «Chú». Cái vũ trụ nhỏ bé đã lần lần rộng mở ra cho tôi nhờ những đứa bạn học. Thằng Dương Đạt dẫn đứa em nó tới lớp xin thầy ghi tên em nó vào sổ. (Hồi đó đi học không cần làm đơn, không cần hồ sơ vì chẳng đứa nào có giấy khai sinh hết. Người ta cứ tự do sinh con khỏi phải khai báo).

Thầy mở sổ, chấm bút vào lọ mực rồi ngửng đầu hỏi:

— Nó tên gì?

— Dạ thưa thầy, tên là Nguyễn Hượt.

— Em ruột mày phải không?

— Dạ.

— Sao em ruột mà mày họ Dương còn nó họ Nguyễn?

— Dạ... Dạ...

Thầy biết Dương Đạt u mê tưởng những chữ Dương, Trần, Lê, Nguyễn... là những chữ ai muốn dùng cũng được, ai thấy thuận tai thì cứ dùng nên thầy tự tiện biên tên Dương Hượt vào sổ không cần giải thích, không sợ phản đối. Trong những ngày luật lệ lỏng lẻo đó, người ta tha hồ đặt họ đặt tên và đặt ngày sanh. Người cha ngơ ngác dẫn đứa con tới trường, tụt bỏ đôi guốc từ ngoài bực thềm, gãi tai lí nhí không ra lời:

— Dạ thưa thầy... dạ... dạ...

Thầy hỏi:

— Thằng con ông tên gì?

— Dạ tên là thằng Cứt.

— Tên gì lại Cứt? Đặt lại cho nó là... Đức.

— Dạ.

— Còn họ?

— Dạ...

Người cha này ở mãi trên kẹt núi Hòn Ông, xa lắc xa lơ không có tên trong một cuốn sổ bộ nào hết nên không biết mình họ gì. Đành phải ú ớ:

— Dạ... dạ... Thầy biên cho họ Nguyễn cũng được.

Thế là đứa nhỏ được cái tên Nguyễn Đức, trong khi ở nhà vẫn gọi là thằng Cứt cho tới ngày lấy vợ. Sau khi sinh con sẽ được gọi theo tên con. Biên đến ngày sinh thì thôi loạn xị. Đa số cha mẹ chỉ nhớ năm sinh: tuổi Dần tuổi Tí... Có vị nhớ tháng ngày thì toàn ngày tháng An-nam. Thôi thì mặc sức cho thầy chuyển qua ngày Tây, thầy cứ nhắm chừng sinh tháng Tám thì đổi thành thặng Juin hay Juillet cũng được, sinh tháng Năm thì biên là Mars hay Janvier cũng chẳng ai cấm. Muốn tìm năm sinh thì cứ lấy năm hiện, tại trừ số tuổi khiến đứa nào cũng phải lãnh oan một tuổi. Đó là bởi tục « chịu oan một tuổi trong bụng mẹ». Trong khi đó thì có anh tuổi nhà mười tám mười chín mà khai mười một mười hai. Phải đốn tuổi như vậy trường mới nhận cho và thầy dặn trước là hễ có Thanh tra tới thì phải lủi ra khỏi lớp, nhảy lên núi làm kẻ hái củi, chăn bò.

Năm tôi lên sáu, mỗi lần đi chơi ở Sông-cầu hay Qui-nhơn. Bác thường dẫn tôi theo. Xe hàng lúc đó ngồi toàn bằng băng gỗ. Ngoại trừ hai dãy ghế đầu xếp nhìn ra trước mặt, còn thì bốn băng sau xếp dọc theo thân xe, cứ hai băng nhìn mặt nhau. Ấn tượng đầu tiên mà thành phố ghi lại trong trí nhớ của tôi là những con đường quá rộng chạy thẳng băng, những ngôi nhà xếp ngay hàng, sáng rỡ trong ánh nắng và trơ trụi. Nhà nào cũng giống nhau nên mỗi lần bước ra khỏi cửa là tôi đã lộn phương hướng không còn biết phía nào là «ở trên», phía nào «ở dưới » như ở nhà quê chúng tôi vẫn phân biệt. Những chỗ Bác ghé lại thường là người Trung- hoa, tôi nghe gọi là ông Bang Chín, ông Bang Xí- nị, tôi nhớ có lần ngồi trên xe ở dẫy ghế nhì, gió thổi lạnh, Bác lấy cái khăn nhiễu trắng của Bác choàng qua đầu tôi rồi quấn quanh cổ. Cái khăn nhiễu quấn như vậy làm tôi có cảm tưởng khuôn mặt tôi giống như người lớn nên khi nhìn qua cửa kính xe thấy ở đằng trước có lũ chăn bò đứng chơi, tôi vội nghiêm nét mặt lại. Xe chạy vụt qua và tôi sung sướng thấy chúng đứng giạt một bên sợ hãi nhìn theo. Sự sung sướng kéo dài được vài mươi cây số thì tới một chặng kia có hai đứa chăn bò thay vì đứng kính cẩn nhìn lên, lại cầm roi dài nhảy nhót rồi xỉa ngọn roi về hướng mặt tôi mà la lên:

— Ê! Thằng nhỏ kia! Thằng nhỏ kia!

Tiếng «kia» tạt ngang qua hông xe đánh «sạt» một cái và tôi buồn tháo trả cái khăn nhiễu lại cho Bác.

Vào Tuy-hòa, Bác dẫn tôi ghé lại tiệm ông Đực. Người Hoa-kiều này dường như suốt ngày nằm cạnh bàn hút. Trong ánh đèn dầu lạc lờ mờ tôi thấy đôi kính trắng của ông sáng chói lên và đôi bàn tay gầy trắng lúc nào cũng đang cầm một cái gì: que tiêm, dọc tẩu, cái kéo, tách trà... Cứ chừng năm mười phút là ông gọi «Ngưu ơi» hoặc «Đẩu ơi». Hai cô con gái béo trắng, mặt tròn và chừa tóc mai phủ xuống trán trông như ở trong tranh vẽ. Ở chơi vài ngày là tôi đã thấy bực bội. Không có đất để cho đôi chân đi, không có lá để cho đôi mắt nhìn. Cả ngày cứ thấy bàn ghế, giày dép, lọ chóe và mặt người. Bữa ăn trang trọng và âm thầm. Mọi người như chỉ sống có một nửa, nhai rón rén và gắp thức ăn rụt rè. ông Đực có sự tỉ mỉ của một người đàn bà nên ba người đàn bà kia, — bà Đực và hai cô con gái, — không còn biết nên âm thầm thế nào cho hơn nữa. Có ở chơi thành phố mới thấy nhà quê của mình là dễ chịu. Có lá cây làm mát con mắt và có đất rộng để đôi chân tha hồ bước.

Những buổi chiều theo Bác xuống bờ sông nơi cái bến của vườn nhà, tôi nhìn những chiếc xe ô-tô chạy im lặng qua cầu Phường Lụa. Ở xa, cái xe sơn xanh trông nhỏ lại, xinh xắn và lướt nhẹ nhàng. Tôi hỏi:

— Mấy cái xe kia màu đẹp quá hở Bác?

— Bữa trước mình đi Qui-nhơn, Sông-cầu bằng mấy cái xe đó.

Tôi ngạc nhiên. Những cái xe tôi đã đi đều ồn ào, bẩn thỉu, chạy rầm rầm vừa xóc lên xóc xuống mà. Mình ngồi nhìn mãi mà có thấy nó màu xanh đâu?

— Mấy cái xe bữa trước mình đi đâu có đẹp?

— Cũng vậy.

Bác trả lời lơ đãng, mắt đang xăm soi nhìn vào những mụt măng đang nhú trong bụi tre, miệng chậc:

— Mấy cái mụt măng! Phải che lại! Mấy thằng đi sõng câu bơi qua ngó thấy, lũ nó cắt trộm hết.

Tôi thì đang thắc mắc rằng những chiếc xe bữa trước mình đi không thể là những chiếc xe này. Nhưng tôi không dám hỏi nữa. Phải mãi sau này tôi mới tự giải thích cho mình rằng cái xe chạy im lặng là bởi tôi thấy nó ở xa và những cái xe tôi ngồi đều không có màu xanh bởi vì màu xanh chỉ sơn ở mặt ngoài. Tôi hỏi:

— Cái xe đó kêu là xe gì vậy Bác?

Bác nói:

— Xe cam-nhông.

Tôi nghĩ liền đến trái cam. Chắc vì nó có màu xanh như da trái cam.

Chương 1

Tiến >>

Bản scan :https://tusachtiengviet.com/ - Đánh máy: Thanh Vân
Nguồn: VNthuquan.net - Thư viện Online
Tập - san VĂN xuất-bản 25/68 . In tại nhà in riêng của nhà xuất bản xong ngày 23 tháng Chạp năm Đinh Mùi. NHÀ XUẤT BẢN XUÂN THU P.O. Box 97 Los Alamitos CA 90720 Tháng Năm 1991
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 25 tháng 2 năm 2023