Trương Hiền Lượng sinh năm 1936 tại Nam Kinh, nguyên quán huyện Hu Di, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Ông là nhà văn nổi tiếng đương đại. Đã sáng tác văn học từ thời kỳ trung học, năm 1957 với bài thơ “Đại phong ca”, Trương Hiền Lượng bị quy oan là Hữu phái, làm công nhân nông nghiệp ở nông trường Nam Lương - Ngân Xuyên, bắt đầu một cuộc đời 18 năm cải tạo, quản chế, chuyên chính và lao lý.
Năm 1976 trở lại văn đàn, làm biên tập viên tạp chí “Ninh Hạ văn nghệ”. Năm 1980, năm 1983 với “Linh, nhục” và “Xeo-ơn-pu-la-khơ”, Trương Hiền Lượng lần lượt hai lần nhận giải toàn quốc về truyện ngắn ưu tú và “Cây lục hóa” đoạt giải truyện vừa, nhưng có lẽ nhà văn nổi tiếng nhất bởi tác phẩm “Một nửa đàn ông là đàn bà” đã được độc giả Việt Nam nhiệt liệt hoan nghênh.
Sau đây xin giới thiệu truyện vừa “Thời thanh xuân” của ông đến bạn đọc.
“Thời thanh xuân” đã được đăng trên “Tuyển tập truyện vừa xuất sắc nhất năm 2000 của Trung Quốc” (quyển thượng) do “Tuyển san tiểu thuyết” thuộc Hội Nhà văn Trung Quốc bình chọn.
1
Mãi tới những năm đầu của thập niên 80, lúc đã sống được hơn 50 tuổi, tôi mới biết là có từ ngữ “thời thanh xuân”. Ngày xưa chỉ mới nghe hai chữ “thanh xuân”, lần đầu tiên vào năm lên sáu, chẳng hiểu ý nghĩa là gì. Thầy giáo vỡ lòng của tôi là một vị tú tài cũ người nhà quê vùng Nam Ngạn Trùng Khánh, nhưng ông ta không phải là dân bản địa, mẹ tôi nói rằng, thầy cũng như chúng ta đều từ miền Giang Triết (Giang Tô và Triết Giang - ND) “chạy loạn” đến “bồi đô” (thủ đô kháng chiến của Trung Hoa dân quốc mà thời đó do Tưởng Giới Thạch làm tổng thống - ND) và bị người địa phương Tứ Xuyên gọi chung một loại “hạ giang nhân”. Bây giờ nhớ đến thầy, tôi thực sự khâm phục các họa sĩ vẽ tranh liên hoàn, các nhà hóa trang điện ảnh và phim truyền hình, họ đã tái hiện hình tượng những tiên sinh tư thục sao mà giống thầy giáo vỡ lòng của tôi đến thế. Vẫn cái mũ hình quả dưa đội đầu, khiến tôi không thể nào quên được ông. Thầy chỉ dạy mấy đứa họ hàng gia tộc nhà tôi mà thôi. Không giống như các vị khác bắt trẻ thơ vỡ lòng bằng “Thiên tự văn”, “Bách gia tính”, “Ấu học quỳnh lâm”, mà thầy đưa ngay chúng tôi vào “Đường thi tam bách thủ”. Hình như thầy của tôi rất thích Đỗ Phủ vì vậy mà bài thơ đầu tiên tôi học là “Vọng nhạc”: “Đại Tông phu như hà, Tề Lỗ thanh vị liễu”. Con chữ thứ nhất đã gieo vào đời tôi là “đại”, một chữ “đại” xa xôi, lạnh lẽo, thầy bảo chốn ấy núi Thái Sơn mà cả đời tôi chưa tìm được nó. Rồi một lần thầy đọc: “Kiếm ngoại hốt truyền thu Kế Bắc, Sơ văn thế lệ mãn y thường. Khước khán thê tử sầu hà tại, Mạn quyển thi thư hỷ dục cuồng. Bạch nhật phóng ca tu túng tửu, Thanh xuân tác bạn hảo hoàn hương. Tức tùng Ba Hiệp xuyên Vu Hiệp, Tiện hạ Tương Dương hướng Lạc Dương.”, lời thơ chưa dứt, bỗng thây tôi úp mặt vào sách khóc nức nở, khóc thành tiếng, và cái cảnh “thế lệ mãn y thường” đã diễn ra, vạt áo thầy tôi đầm đìa nước mắt. Lũ trẻ sáu, bảy tuổi chúng tôi thấy thầy khóc hu hu, khóc run bắn cả người bèn cười rú lên và từ đó không còn sợ thầy nữa.
Nhưng với tôi nhờ thầy mà từ nhỏ đã chịu ảnh hưởng của thi ca, khi lớn lên chẳng may có một dạo còn làm cả nhà thơ nên mới bị trầm luân hơn 20 năm trời đằng đẵng. Đó là một nguyên nhân, điều thứ hai khiến tôi mãi mãi không quên nổi thầy là vì sau ông, tôi chưa hề gặp ai yêu thơ, đọc thơ đến mức ngập đắm trong thơ, có thể nói thầy là kẻ “ghiền thơ”, “si thơ”. Mặc kệ người đời dòm ngó ra sao, mặc kệ hành vi của mình để lại ấn tượng như thế nào, thầy tôi đưa tất thảy tâm, thân vào môi trường thanh điệu, tiết tấu, nhã nhạc du dương rồi ngâm vịnh, rồi lắc đầu, rồi hất ngược mái tóc thổ lộ hết cõi lòng, dám khóc, dám cười, dám đau khổ, dám cuồng say cho chảy tràn bản ngã. Dẫu thầy và vô số những người “hạ giang nhân” đều bị quân Nhật đuổi khỏi quê hương xứ sở, co cụm về đây, nhưng càng lúc tôi càng khâm phục thầy vẫn gìn giữ độc lập về mặt tinh thần. Chỉ lấy hình ảnh thầy khóc trước lũ học trò chúng tôi ra mà bàn thì tôi dám khẳng định thầy thuộc lớp văn sĩ có cốt cách cuối cùng của Trung Quốc. Sau này tôi đi khắp nơi trên thế giới và đất nước Trung Hoa mà vẫn chưa thấy ai có thể dựa vào một hình thức nghệ thuật nào đó để biểu đạt tâm tình và long chân thành của chính mình, chưa thấy ai lại bị những tác phẩm nghệ thuật đánh động đến mức tả tơi, say đắm như vậy. Thế giới không giống nhau, nhân tâm cũng ít nhiều cứng rắn, và cái gọi là sáng tạo “người trong tình dục” của tất cả các nghệ thuật gia, cùng những ai yêu mến nghệ thuật đều không làm tôi rung động.
Thế nhưng tôi vẫn cứ không hiểu ý nghĩa cửa hai chữ “thanh xuân” là gì, thầy giáo tư thục dạy tôi cũng chưa hề giải thích. Những từ ngữ Kế Bắc, Ba Hiệp, Vu Hiệp, Tương Dương, Lạc Dương... xem qua đã biết là địa danh, phần còn lại tôi chẳng cần tìm hiểu, duy chỉ mối tứ thơ “thế lệ mãn y thường” nước mắt đầm vạt áo là rất hình tượng, tạo ngay cho tôi một lý giải trực quan. Mấy chục năm về sau tôi gặp vô số trường hợp nhỏ lệ, thậm chí không thể cầm nổi nước mắt, nhưng chỉ vài giọt lưng tròng thì trong óc của tôi lại hiện lên hình ảnh ông thầy ấm ức bưng mặt khóc và lũ học trò rú lên cười, thế là đáng lẽ phải khóc, song nghĩ ngợi thế nào đó tôi bỗng nhoẻn miệng cười. Nỗi thống khổ của thầy trong con mắt trẻ thơ chúng tôi trước sau vẫn là sự khôi hài không thể xóa mờ. Nhớ tới thầy, nhắc đến thầy, dẫu là đã trưởng thành, dẫu là sẽ già cả, tôi lại cứ ấu thơ ngay lập tức. Lần thầy khóc một cách đau đớn như thế đã giúp tôi giữ mãi tuổi xuân, đã giúp tôi cải lão hoàn đồng. Cho dù sau này tôi sẽ lý giải sâu sắc hơn cái vẻ cao thượng về tinh thần của thầy, thầy và Đỗ Phủ hợp thành một, thầy là hóa thân của Đỗ Phủ, thì hình ảnh “thế lệ mãn y thường” lần ấy nơi thầy vẫn vĩnh viễn là một kiểu dí dỏm đời người, vẫn chọc cho tôi mỉm cười. Người thầy vỡ lòng vô tình đã gieo lên thửa ruộng cõi lòng tôi một hạt giống trào lộng đủ sức kiềm chế và hóa giải nỗi đau, khiến tôi sống nổi đến hôm nay.
Sau đó vào trường chính quy, qua tiểu học, lên sơ trung, từ ngữ “thanh xuân” này càng gặp đi gặp lại nhiều lần, nhưng chẳng có thầy cô nào giải thích ý nghĩa của nó, hình như “thanh xuân” cũng giống như động từ “ăn” vậy, không cần giảng dạy thì người người đều hiểu nó là gì rồi. Nhất là lúc học cao trung, “đem thanh xuân hiến dâng cho Tổ quốc” đã trở thành khẩu hiệu mà mỗi thanh niên đều phải tôn thờ và hành động. Lại như câu nói “có duyên mới ở Lư Sơn” truyền miệng trong học sinh trung học thời bấy giờ, làm cho người ta cảm thấy “thanh xuân” chẳng quí báu gì, âu cũng là một giai đoạn nào đó trong đời mà thôi. Nhưng thử hỏi chỉ cần hiến dâng cho tổ quốc đoạn đời ấy là đủ, rồi sau này đến tuổi trung niên, già cả, toàn bộ thời gian còn lại hoàn toàn thuộc về mình hay sao, tổ quốc không yêu cầu các đoạn đời khác của anh, ngoài cái thời “thanh xuân” quý báu, có đúng như vậy không? Kể ra thì cũng chưa có mấy ai nghiên cứu kỹ càng, sâu sắc những vấn đề vừa nêu, nhưng nhìn lại càng lúc tổ quốc càng yêu cầu nhiều hơn và cuộc đời của mỗi người cơ hồ không thuộc về bản thân mình nữa, vậy thì chỉ đề xuất hiến dâng mỗi tuổi “thanh xuân” phỏng có ý nghĩa gì đặc biệt.
Bước vào những năm 80, người Trung quốc bỗng nhiên và bắt đầu phát hiện rằng mình còn có cái gọi là “tự ngã”. Trong không khí xã hội khá thoải mái vì vừa thoát khỏi sự căng thẳng của chính trị, nhận thức về bản thể cũng dần dần chuyển biến từ tư tưởng “đấu tranh giai cấp” sang việc chú ý nhiều hơn đến tâm sinh lý của con người. Đầu tiên xã hội có cảm giác phổ biến là cần bổ túc những bài học trên phương diện tri thức tính học, vì thế ngoài hai chữ “thanh xuân”, trên báo chí tập san thường xuất hiện từ ngữ “thời thanh xuân” kèm theo nhiều nghiên cứu, thảo luận. Dù là nói theo cách nào đi nữa thì “thời thanh xuân” nhất định phải thừa thãi “thanh xuân”. Dù có người giữ mãi “thanh xuân”, hoặc giả quá lứa già rồi mà vẫn sung sức để nhen cháy lại “thanh xuân” thì không thể không thừa nhận là ở “thời thanh xuân” người ấy nhiều “thanh xuân” nhất, đủ “thanh xuân” nhất. Nhưng cái gọi là “thanh xuân” mà Đỗ Phủ đã chỉ ra hay như “thanh xuân” trong câu thơ “Cuồng phu phú quý tại thanh xuân” của Vương Duy có lẽ không phải là “thanh xuân” bấy lâu nay chúng ta thường nói dâng hiến nó, lại càng khác với “thời thanh xuân” xuất hiện trên các cuốn sách “thanh niên cần đọc”. Từ góc độ sinh lý học, thời thanh xuân” được giải thích là một giai đoạn tất yếu phải kinh qua của mỗi người khi phát dục, là một hiện tượng đơn thuần tự nhiên. Vào giai đoạn đó, ngoài sinh lý có vô vàn những biến đổi, tiêu chí chủ yếu về tâm lý của mỗi người là bắt đầu đem lòng ái mộ, yêu đương và tính dục với người khác giới, nói theo ngôn ngữ chăn nuôi mà một thời gian dài tôi từng tiếp xúc là “động tình”.
Các học giả thuộc trường phái lãnh đạo thì cho rằng “thời thanh xuân” là một giai đoạn rất quan trọng trong đời, cũng giống như thời thơ ấu, và nó sẽ quyết định tâm lý, tính cách và phẩm chất sau này của chúng ta. Những chuyên gia tội phạm học thậm chí còn có thể thông qua tình tiết thất bại trong “thời thanh xuân” của phạm nhân mà phân tích nguyên nhân gây án như thế nào. Điều này khiến tôi lấy làm thích thú trong việc tự phân tích bản thân mình, nhưng kết quả cho thấy chẳng rõ “thời thanh xuân” của tôi đã bắt đầu từ lúc nào, và cũng không có biểu hiện gì chứng tỏ rằng nó từng kết thúc. Hình như cuộc đời tôi chưa hề qua cái “thời thanh xuân”, hay nói đúng hơn, “thời thanh xuân” đã đi suốt cuộc đời tôi nhưng là những chuỗi ngày hệt như bao tấm thép xanh xám, cứng đờ, lạnh lẽo, tẻ nhạt trải ra, trải mãi cho tới tận hôm nay.
Lời giới thiệu - 1 -
Tiến >>
Đánh máy: hoi_ls
Nguồn: hoi_ls - KTNN số 444, 445 (Tháng 12/2002)
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 7 tháng 9 năm 2020